Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Đề tài: " NHẬN THỨC - ĐỒ THỨC - TÍNH KHÁCH QUAN (*) " pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.61 KB, 24 trang )














Nghiên cứu triết học

Đề tài: " NHẬN THỨC - ĐỒ THỨC -
TÍNH KHÁCH QUAN (*) "
NHẬN THỨC - ĐỒ THỨC - TÍNH KHÁCH QUAN (*)

LÝ CẢNH NGUYÊN (**)
Trong hoạt động nhận thức, con người không chỉ tiếp nhận thông tin tập hợp
thành “bản mã tín hiệu”, mà còn lý giải ý nghĩa của nó. Cái “bản mã tín hiệu”
đó chính là đồ thức nhận thức. Đồ thức nhận thức là phương thức tiến hành
nhận thức và biểu đạt tri thức của con người. Nó vừa biểu hiện tính chỉnh thể
của các yếu tố trong quá trình nhận thức, vừa chỉ ra phương thức tồn tại và phát
triển cơ bản của nhận thức. Theo tác giả, quá trình chủ thể nhận thức xuất phát
từ những đồ thức chung và thông qua sự điều chỉnh từng bước để nắm bắt đúng
đối tượng biểu hiện một cách cụ thể nhận thức của con người đi từ tính chủ
quan đến tính khách quan như thế nào.
Nhận thức không bắt đầu từ “hư vô”, con người vốn xuất phát từ những quan
niệm và kinh nghiệm đã có để nhận thức, nắm bắt những cái chưa biết. Chỉ khi


thông qua vai trò trung gian của đồ thức, sự vật mới được con người nhận thức.
Dưới sự giúp đỡ của đồ thức, chúng ta luôn nhận thức được nhiều hơn những gì
sự vật đã biểu hiện ra; tương tự như vậy, chúng ta nhận thức sự vật không dừng
lại ở những gì do giác quan mang lại. Nhưng, giống như việc nhận thức không
thể chỉ do khách thể quyết định, nhận thức cũng không thể chỉ dựa duy nhất vào
đồ thức. Mặc dù đồ thức có thể giúp chúng ta quan sát và tư duy, sử dụng đồ
thức có thể giúp cho sự phản ánh và lý giải của con người đối với sự vật diễn ra
nhanh hơn, nhưng bản thân đồ thức lại không giải quyết được vấn đề chân - giả,
nghĩa là nó không thể đảm bảo tính phù hợp (tính ăn khớp) của đối tượng và
nhận thức. Chức năng của đồ thức bao hàm trong nó mâu thuẫn nội tại, mâu
thuẫn này thúc đẩy chúng ta tới chỗ nghiên cứu một cách toàn diện tính năng
động của đồ thức và tính khách quan của nhận thức cũng như mối quan hệ của
chúng. Tác giả bài viết này không đi vào phân tích toàn diện vấn đề trên, mà chỉ
mong muốn trình bày một vài suy nghĩ của mình.
I. Một ngành khoa học tồn tại và phát triển phải dựa vào sự lý giải ngày càng sâu
sắc đối với phương pháp nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu của nó. Do đó,
việc vận dụng quan điểm của ký hiệu học hiện đại để xem xét vấn đề nhận thức,
cũng như nghiên cứu nhận thức luận có thể sẽ dẫn đến một số vấn đề quan trọng.
Ký hiệu học hiện đại đưa ra hai mệnh đề quan trọng, gắn liền với nhận thức
luận. Mệnh đề thứ nhất là, “Văn hoá là ngôn ngữ (như một loại sự vật)”. Điều
này có nghĩa là, cũng giống như ngôn ngữ, đối với con người, những đối tượng
có tính văn hoá cũng là các sự vật có ý nghĩa khác nhau, cho dù cái môi giới của
những đối tượng đó không phải là ngôn ngữ, song nó cũng có chức năng tương
tự như ngôn ngữ. Sự thống nhất giữa ý nghĩa, biểu trưng (biểu hiện đặc trưng –
ND.), truyền đạt là đặc trưng cơ bản nhất của ký hiệu ngôn ngữ. Do đó, ngoài ý
nghĩa thông thường của ký hiệu ngôn ngữ, chúng ta có thể gọi những sự vật
không giống với ký hiệu nhưng lại có những đặc trưng như trên là “ký hiệu văn
hoá”. Một ví dụ rất rõ là, trong khi nghiên cứu bộ tộc nguyên thuỷ, chúng ta sẽ
có thể tự giác hoặc không tự giác coi tất cả những hiện tượng văn hoá của bộ tộc
đó (bao gồm công cụ lao động, chỗ ở, đồ trang sức, các nghi lễ tôn giáo, tô tem,

phong tục tập quán, v.v.) như là những ký hiệu hàm chứa những ý nghĩa nhất
định để xem xét, nghiên cứu. Mệnh đề thứ hai: “Ngôn ngữ là tinh thần, tinh thần
là ngôn ngữ”. Hàm nghĩa của mệnh đề này là, từ ngôn ngữ đến các loại đối
tượng văn hoá đều là sản phẩm tinh thần của nhân loại; ngôn ngữ thể hiện một
cách điển hình hoạt động tinh thần của con người, hoạt động tinh thần trong kết
cấu và công dụng của ngôn ngữ được tái hiện ra một cách cụ thể. Nói cách khác,
toàn bộ hoạt động tinh thần của nhân loại đều là các dạng tương tự như hoạt
động của ký hiệu hoặc nguyên lý kết cấu của ký hiệu và ngôn ngữ, do đó có thể
áp dụng ký hiệu học để phân tích đối với hoạt động nhận thức.
Xuất phát từ mệnh đề “Văn hoá là ngôn ngữ”, chúng ta có thể mở rộng thêm
một mệnh đề mới - “đối tượng nhận thức là ngôn ngữ” (một loại sự vật). Đối
tượng nhận thức bao gồm văn hoá và tự nhiên. Đối tượng văn hoá do con người
sáng tạo ra, là sự vật có ý nghĩa trực tiếp đối với con người, điểm này thì tương
đối dễ lý giải. Đối tượng tự nhiên có chút khác biệt so với đối tượng văn hoá, ý
nghĩa của chúng đối với con người chưa bộc lộ rõ, mà cần phải có sự tác động
thêm của con người. Khi nhận thức một đối tượng, cần phải xem nó như là hình
thức ký hiệu để giải thích nội dung của đối tượng đó. Con người có mối quan hệ
với “những sự vật có ý nghĩa” không chỉ trên phương diện ngôn ngữ, mà trên tất
cả các lĩnh vực khác. Sự khác biệt chỉ là ở chỗ, xem xét ngôn ngữ như một mã
tín hiệu lý tưởng, thì ký hiệu và chức năng của ký hiệu là một thể thống nhất
không thể tách rời; còn đối với những ký hiệu phi ngôn ngữ khác, thì thông
thường chức năng của ký hiệu được ưu tiên hơn ký hiệu. Giống như một học giả
đã chỉ ra, rất nhiều sự vật được “ký hiệu” hoá thông qua phán đoán chủ quan của
con người và do vậy, nó có thể được xem như là “ký hiệu”, mà ở phạm vi này,
trên thực tế là vô hạn. Hầu hết sự vật đều có thể biến thành “ký hiệu” trong quá
trình này(1). Ký hiệu là đại biểu của mỗi một sự vật, sản sinh trong quan hệ của
mỗi một sự vật. Khi sự vật này trở thành vật thay thế cho sự vật khác, thì chức
năng của nó chính là chức năng ký hiệu, thừa nhận sự vật có loại chức năng này
thì cũng có thể gọi là ký hiệu; cái đóng vai trò mối quan hệ của nội dung và hình
thức của ký hiệu giữa hai sự vật có thể là tính quy ước, nghĩa là đôi bên có mối

quan hệ tương tự và quan hệ nhân quả, nhưng cũng có thể là phi quy ước, hay là
tuỳ ý. Hình thái cơ bản của ký hiệu ngôn ngữ hoặc bản chất của nó là phi quy
ước, còn như đối tượng văn hoá và đối tượng tự nhiên, thì giữa hình thức và nội
dung ký hiệu của nó lại có tính quy ước.
Bất kỳ ngôn ngữ nào cũng đều có ý nghĩa, tác dụng tiềm tại. Khi chúng ta thừa
nhận những sự vật khác ở bên ngoài ngôn ngữ có ý nghĩa, tác dụng, thì cũng có
nghĩa là thừa nhận chúng có tác dụng tương tự như ngôn ngữ. Thừa nhận chức
năng ký hiệu của đối tượng cũng có nghĩa là thừa nhận quá trình thông tin và
quá trình nhận thức là một quá trình thống nhất. Khi chúng ta coi quá trình nhận
thức như là quá trình tiếp nhận, xử lý và lưu giữ thông tin để xem xét, thì cũng
chính là so sánh quá trình nhận thức với quá trình trao đổi thông tin giữa người
và vật, giữa chủ thể và khách thể. Chúng ta vẫn hay nói đến “tin tức”, mà về
thực chất, đó là một cách gọi khác của ký hiệu. Nếu nói bản chất của ký hiệu là
tính biểu ý hoặc tính biểu trưng của nó, thì bản chất của tin tức cũng giống như
vậy. Những mối liên hệ nội tại và thuộc tính của sự vật được thông tin tự nhiên
biểu hiện, cũng có thể gọi là hàm nghĩa vốn có của bản thân sự vật. Tương tự, từ
quan hệ tam giác ngữ nghĩa có thể biết được ngữ từ thông qua việc biểu thị
thuộc tính sự vật mà tiến hành phân loại, đặt tên cho sự vật; còn thuộc tính hay
quá trình hình thành ngữ nghĩa chính là quá trình nhận thức của con người, ý
nghĩa của từ chẳng qua là thành quả nhận thức do hình thức của ký hiệu ngôn
ngữ đúc kết mà thành. Ký hiệu học ra đời đã dự báo ngoài ngôn ngữ ra, đối
tượng văn hoá và đối tượng tự nhiên đều biến thành “hệ thống ngữ nghĩa” phổ
biến; từ đó, chỉ ra tính thống nhất của quá trình nhận thức và quá trình thông tin.
Như vậy, chúng ta có thể xuất phát từ góc độ thông tin để tiến thêm một bước
trong việc nắm chắc tính chất của nhận thức.
Dựa vào quan điểm của ký hiệu học, có thể phân thông tin thành hai loại: loại
thứ nhất là thông tin truyền đạt, đặc trưng cơ bản của nó là dựa vào mã tín hiệu.
Mã tín hiệu là sự thống nhất của ngữ nghĩa học và cú pháp học. Xét từ góc độ
ngôn ngữ học, mã tín hiệu do hình thức ký hiệu và nội dung ký hiệu phối hợp
lẫn nhau tạo nên. Trong quá trình truyền đạt thông tin, vật phát tín hiệu và vật

thu tín hiệu nhất định phải thông qua mã tín hiệu. Do đó, loại thông tin này hoàn
toàn chịu sự chi phối của nguyên tắc mã tín hiệu. Quá trình truyền đạt là do tin
tức cố định biến đổi cùng với sự biến đổi của mã tín hiệu cố định trong quá trình
thông tin. Thông thường, người ta gọi loại thông tin chỉ dựa vào mã tín hiệu để
tiến hành là “thông tin lý tưởng”. Thông tin lý tưởng luôn lấy vật phát tín hiệu
làm trung tâm, bởi lẽ vật thu tín hiệu chỉ cần thông qua một mã tín hiệu là có thể
tiến hành giải thích tin tức mà vật phát tín hiệu dựa vào mã tín hiệu để truyền tải.
Do đó, trong quá trình “tiếp nhận”, địa vị chủ đạo thuộc về vật phát tín hiệu.
Một hình thức khác của thông tin là giải thích thông tin, đặc trưng cơ bản của nó
là quá trình thông tin thoát khỏi hoặc siêu vượt quy định của mã tín hiệu. Trong
cuộc sống hiện thực, vật phát tín hiệu không thể chỉ truyền đạt trong phạm vi
của mã tín hiệu; khi tin tức được truyền đạt tới thoát khỏi quy định của mã tín
hiệu, thì vật thu tín hiệu có thể dựa vào “ngữ cảnh” để nhận thức ý nghĩa mà vật
phát tín hiệu muốn truyền đạt. Rất rõ là, loại thông tin dựa vào ngữ cảnh được
thực hiện trên cơ sở lấy vật thu tín hiệu làm trung tâm.
Khi chúng ta so sánh quá trình nhận thức với quá trình thông tin, điều quan
trọng là coi nhận thức như bản chất đặc thù của thông tin để tiến hành phân tích
ở góc độ nhận thức luận. Rõ ràng, nhận thức hoàn toàn không phải là loại hình
lý tưởng hoặc thông tin truyền đạt, mà là một loại thông tin giải thích. Trong khi
quá trình nhận thức chứa đựng tính chất giải thích, thì cả chủ thể lẫn khách thể
đều có một loạt tính quy định đặc thù, đồng thời làm cho chức năng của đồ thức
phát sinh vô số biến hoá.
Đầu tiên, đối tượng nhận thức đóng vai trò là sự phân biệt quan trọng giữa ký
hiệu và ngôn ngữ. Trong tất cả các loại ký hiệu, chỉ có ngôn ngữ là lấy biểu
hiện, truyền đạt ý nghĩa làm chức năng và điểm xuất phát của mình, vì thế nó là
“ký hiệu biết nói", còn tuyệt đại đa số đối tượng văn hoá và đối tượng tự nhiên
là “ký hiệu không biết nói”, điều này có sự ảnh hưởng to lớn đối với hoạt động
nhận thức. Điều này cho thấy, những tin tức mà sự vật trong tự nhiên đã phát đi
hoàn toàn không phải là “tin tức ngôn ngữ”. Sự vật tự nhiên hoàn toàn không
dựa vào mã tín hiệu “biết nói” do con người tạo nên, mà dựa vào mã tín hiệu của

bản thân nó. Tin tức tự nhiên lấy thuộc tính và quy luật của khách thể làm nội
dung, lấy thuộc tính và hình thái biến hoá để biểu hiện tác dụng của nó. Do đó,
giữa chủ thể và khách thể không tồn tại một “bản mã tín hiệu” thông dụng nào,
tin tức tự nhiên trên thực tế đòi hỏi chúng ta tạo ra mã tín hiệu đồng thời giải
thích ý nghĩa của nó. Điều này, như Duy Nạp Tăng đã chỉ rõ, nhằm “mang lại sự
thuận tiện cho bản thân chúng ta trong việc khám phá, phát hiện khi tiến hành
giải thích khoa học đối với hệ thống tồn tại, nhưng hệ thống tồn tại khi được
sáng tạo ra không hề có một chút thuận tiện nào đối với con người. Kết quả là,
trên thế giới, sự vật lâu đời nhất, phức tạp nhất, bí mật nhất đồng thời được ẩn
giấu bởi một hệ thống mã tín hiệu phức tạp chính là quy luật của giới tự
nhiên”(2).
Tiếp theo, trong hoạt động nhận thức, ngoài việc tiếp nhận những tin tức tập hợp
thành mã tín hiệu, con người còn phải tiến hành lý giải ý nghĩa của các tin tức
đó. Do vậy, nhận thức khi đóng vai trò là thông tin giải thích hoặc thông tin
không lý tưởng thì thường chứa đựng tính chất giả thiết và suy luận. Rất rõ ràng,
trong hai loại hoạt động thông tin hoặc nhận thức, nhận thức đồ thức (bản mã tín
hiệu) tuy đều phát huy tác dụng nhưng những tác dụng đó hoàn toàn không
giống nhau. Trong thông tin lý tưởng và hoạt động nhận thức mang tính tái hiện,
chủ thể chỉ cần dựa vào những đồ thức đã có là có thể tiến hành dự đoán và phán
đoán; nhưng trong thông tin không lý tưởng hoặc trong quá trình suy luận mang
tính giả thiết, nếu chủ thể dựa vào những đồ thức đã định thì không thể đưa ra
những phán đoán chính xác về sự vật, do vậy đồ thức không thể chi phối sự lý
giải và tri giác của con người một cách hoàn toàn. Trong sự suy luận mang tính
giả thiết, mã tín hiệu và ngữ cảnh, đồ thức và khách thể bổ sung lẫn nhau, cùng
phát huy tác dụng. Suy luận mang tính chất giả thiết dựa vào quy tắc để phán
đoán sự vật, nhưng những quy tắc do đồ thức cung cấp chỉ có đặc điểm là khả
năng thành lập. Suy luận mang tính giả thiết vừa dựa vào đồ thức vừa tham khảo
suy luận theo “ngữ cảnh” (khách thể), vì thế có sự thống nhất của đồ thức nhận
thức tương ứng và đồng hoá với đối tượng nhận thức. Trên thực tế, đồ thức
trong thông tin lý tưởng hoặc trong chức năng của hoạt động nhận thức mang

tính tái hiện, chỉ là một dạng đặc biệt, ngoại lệ. Quan hệ của đồ thức và đối
tượng có tính phổ biến và tính đặc thù, tính phổ biến của đồ thức tuy là phương
tiện để nắm bắt các đối tượng cá biệt, nhưng tính cá biệt không thể hoàn toàn
nằm trong tính phổ biến. Đây chính là nguyên nhân khiến đồ thức không thể tự
nó phát huy tác dụng. Trong khi chủ thể phản ánh khách thể bên ngoài một cách
trung thực, tác dụng tương hỗ của đồ thức nhận thức và đối tượng khách quan sẽ
hình thành nên một loại kết cấu bổ trợ. Kết cấu này không chỉ là cơ sở cho việc
thống nhất giữa tính khách quan của nhận thức và tính năng động chủ quan của
nhận thức, mà còn cho thấy con người lợi dụng việc quy về đồ thức để nắm bắt
những điều kiện và con đường của sự vật mới.
Sự suy luận mang tính giả thiết của con người gắn liền với một loại chức năng
quan trọng của đồ thức nhận thức. Sự lý giải trước đây đối với chức năng của đồ
thức chủ yếu hạn chế trong phương diện đồng hoá đối tượng của nó. Theo cách
lý giải này, quá trình tri giác của con người chính là quá trình lợi dụng những đồ
thức đã có để tiến hành phân biệt và nhận thức đối với những sự vật bên ngoài
tác động vào; tri giác chính là sự kích hoạt đối với đồ thức kinh nghiệm; sự phù
hợp giữa kích thích của sự vật bên ngoài với các đồ thức có sẵn là tiền đề của
phản ánh, đồ thức chỉ là cơ cấu tái nhận thức các sự vật quen thuộc. Cách xem
xét này, về nguyên tắc, là đúng, nhưng nó hoàn toàn không chứa đựng toàn bộ
đặc điểm của nhận thức con người. Ví dụ, so sánh và giả thiết là hai phương
thức tư duy quan trọng để nhận thức những sự vật mới, chúng có mối liên hệ
mật thiết với đồ thức của chủ thể. Trên thực tế, con người không chỉ có phản
ứng đối với mỗi một sự vật mà họ đã biết rõ, cho dù là gặp phải những sự vật
mới không thể lý giải trong phạm vi của mã tín hiệu, cũng đòi hỏi đồ thức lý giải
ý nghĩa của nó. Mặc dù sự giải thích này chứa đựng tính hoài nghi, nhưng khi
chúng được kiểm nghiệm, nghĩa là khi có đầy đủ căn cứ thực tiễn, sẽ được đưa
vào hệ thống mã tín hiệu vốn có, đôi lúc còn có thể thay thế những mã tín hiệu
cũ. Nhấn mạnh một cách phiến diện tác dụng đồng hoá của đồ thức vừa không
thể giải thích được là phải làm gì khi gặp phải những hiện tượng khác biệt trong
nhận thức, vừa không thể nói rõ con người làm thế nào để có thể đưa ra những

phát hiện mới mang tính sáng tạo trong những hoàn cảnh chưa hề có tiền lệ.
Ký hiệu học cho rằng, không giống với động vật chỉ dựa vào tính di truyền của
cơ thể, con người là chủ thể của sáng tạo và sử dụng mã tín hiệu văn hoá. Bản
chất của việc con người sáng tạo ra mã tín hiệu văn hoá là nhằm mang lại ý
nghĩa và giá trị đối với thế giới bên ngoài, nhằm tiến hành mã tín hiệu hoá, trình
tự hoá. Nhưng cần phải chỉ ra rằng, bất kỳ cơ sở phát triển và hình thức của mã
tín hiệu văn hoá nào cũng đều là hoạt động thực tiễn của con người. Ký hiệu
ngôn ngữ đóng vai trò là hình thức phát triển nhất và là hình thái điển hình của
ký hiệu văn hoá khác. Nghiên cứu kết cấu và chức năng của nó có thể giúp
chúng ta đưa ra những hình mẫu và chìa khoá lý tưởng cho việc lý giải hoạt
động nhận thức và những mã tín hiệu điển hình khác; tương tự như vậy, cũng
không được quên rằng ngôn ngữ vốn có tính phái sinh và nó cũng chỉ là tương
đối đối với các đối tượng văn hoá và hoạt động nhận thức mà thôi.
II. Như trên đã trình bày, con người trong cùng hoàn cảnh trao đổi tin tức cần
phải nhất quán dựa vào “bản mã tín hiệu” của mình, cái “bản mã tín hiệu” này
chính là đồ thức nhận thức trên góc độ ý nghĩa nhận thức luận. Đồ thức là
phương thức tiến hành nhận thức và biểu đạt tri thức của con người. Nó là bản
mẫu có tính khái quát của hệ thống tri thức được đưa vào trong quá trình nhận
thức, là sự thể hiện tập trung nhất của quan niệm truyền thống, tri thức và kinh
nghiệm vốn có của con người. Khái niệm đồ thức không chỉ biểu hiện tính chỉnh
thể của hiệu ứng chức năng và kết cấu quan hệ của các yếu tố trong quá trình
nhận thức, mà còn chỉ ra đặc trưng chủ yếu, phương thức tồn tại và phát triển cơ
bản của nhận thức. Chúng ta thường thấy những nghiên cứu về chức năng của
đồ thức, còn trong bài viết này chúng tôi chú trọng trình bày nhân tố chế ước nội
tại trong chức năng của đồ thức, từ đó giúp chúng ta hiểu được cơ chế chuyển
đổi của đồ thức.
Thứ nhất, khi coi đồ thức nhận thức như đối tượng cần đi sâu nghiên cứu của tư
duy, chúng ta có thể sẽ gặp phải rất nhiều vấn đề vướng mắc. Vấn đề đầu tiên
gặp phải là sự lý giải khác nhau về đồ thức. Ví dụ, Piaget giải thích đồ thức là
kết cấu vận động chuyển biến của tư duy, quan điểm này nghiêng về phương

diện suy luận lôgíc của đồ thức. Herbert A. Simon, người sáng lập ra tâm lý học
nhận thức và trí tuệ nhân tạo, thì giải thích đồ thức là kết cấu chỉ số, nghĩa là bao
hàm nội dung tri thức nhất định, mà không phải là chỉ tính trình tự của tri
thức(3). Hai quan điểm trên rõ ràng không tương đồng với nhau. Vấn đề tiếp
theo, khi chúng ta tiếp cận với những tài liệu hình thành đồ thức và tài liệu về
chức năng của đồ thức, giữa hai loại này tồn tại sự không hài hòa, không phù
hợp. Trong quan điểm của Piaget, hình thức cuối cùng của đồ thức chính là hình
thức hoá cấu trúc tư duy, nhưng trong rất nhiều tác phẩm bàn về chức năng của
đồ thức, lại chủ yếu trình bày về tác dụng chế ước và quy phạm của những tri
thức cụ thể đối với nhận thức. Điều làm cho mọi người chú ý là, cùng một học
giả, khi trình bày về những vấn đề khác nhau của đồ thức, cũng có những sự
không nhất quán. Như trên đã nói, Piaget tập trung vào vấn đề kết cấu lôgíc, do
đó ông đã phân biệt rõ sự khác nhau giữa phương diện vận dụng toán học của tư
duy và phương diện phản ảnh biểu tượng của tư duy, đồng thời coi kết cấu vận
dụng toán học là phương diện bản chất của tư duy. Nhưng, khi ông bàn về vấn
đề tương ứng và đồng hoá của đồ thức, thì thực chất lại thoát ly khỏi những quy
định đối với đồ thức của mình. Bởi vì đồ thức đóng vai trò là kết cấu suy luận
lôgíc của tư duy, phát triển đến hết giai đoạn hình thức hoá thì rất khó để có thể
tiếp tục nói đến vấn đề tương ứng. Vấn đề tương ứng nghĩa là tương ứng với sự
vật, chỉ khi xem đồ thức như là cái cấu thành tri thức mới có thể lý giải vấn đề
tương ứng của đồ thức. Theo quan điểm của Piaget, đồ thức xuất phát từ kết cấu
hoạt động của chủ thể, mà không phải do khách thể đem lại. Do vậy, vấn đề đồ
thức tương ứng với khách thể là tương đối khó lý giải. Những loại vấn đề này
đều nói lên rằng, cần phải nắm một cách toàn diện tính quy định của đồ thức,
đồng thời phải tiến hành phân tích một cách có hệ thống sự cấu thành của đồ
thức. Ở đây, tôi chỉ xuất phát từ một góc độ là hệ thống tri thức để tiến hành một
số phân tích đối với vấn đề cấu thành của đồ thức.
Mọi người đều biết, sự nghiên cứu của triết học khoa học đối với lôgíc phát triển
của khoa học tập trung ở góc độ hệ thống tri thức, về thực chất, là nghiên cứu đồ
thức nhận thức theo nghĩa hẹp, cho dù người ta dùng những thuật ngữ không

giống với nhận thức luận và tâm lý học. Do vậy, việc nghiên cứu chức năng của
đồ thức nhận thức cần phải dựa vào kết quả nghiên cứu của nó. Khi chúng ta
xem đồ thức nhận thức như một hệ thống tri thức, đồ thức nhận thức của con
người và triết học khoa học nghiên cứu hệ thống tri thức là giống nhau, nhưng
cũng có thể phân thành ba cấp độ: cấp độ kinh nghiệm, cấp độ lý luận và cấp độ
nguyên lý. Hệ thống tri thức của con người vừa phản ánh quá trình hình thành và
phát triển của đồ thức, nghĩa là quá trình thăng hoa từ thấp lên cao xuất phát từ
cấp độ kinh nghiệm cảm tính, vừa cho kinh nghiệm đóng vai trò bộ phận hợp
thành sự tồn tại của đồ thức, mà không xem nó như một giai đoạn phát triển của
đồ thức.
Giống như sự cấu thành tri thức của đồ thức nhận thức, chức năng của đồ thức
cũng bộc lộ tính cấp độ. Cấp độ nguyên lý đóng vai trò là cấp độ cao nhất của đồ
thức, nó khống chế và điều tiết cấp độ kinh nghiệm và lý luận, đồng thời quyết
định bản chất của đồ thức nhận thức. Sự khác biệt giữa các đồ thức khác nhau
mặc dù cũng xuất phát từ hai cấp độ khác, nhưng chỉ có cấp độ nguyên lý mới là
nhân tố quyết định về chất của đồ thức. Cấp độ nguyên lý là kết cấu cao hơn của
hệ thống tri thức, còn cấp độ kinh nghiệm và lý luận chỉ là kết cấu bên ngoài.
Nếu cho rằng, nhận thức và lý giải đối với khách thể là chức năng của lý luận và
kinh nghiệm, thì nguyên lý sẽ đưa ra cấu trúc của sự lý giải. Cấp độ nguyên lý là
“mệnh lệnh”, nó quy định sự phát triển biến hoá, chế ước sự biểu hiện và sản
sinh tri thức mới, đồng thời chọn lựa, tổ chức, chú giải đối với nhận thức để đưa
ra tiêu chuẩn hợp lý nhất. Tóm lại, cấp độ nguyên lý là do con người tạo nên, là
mô thức chung nhất để nhận thức thế giới; nó đưa ra một loại mô thức phản ánh
mang tính khả năng và phù hợp với sự biến hoá của thế giới. Sự biến đổi của cấp
độ nguyên lý sẽ dẫn đến toàn bộ kết cấu của lý luận và kinh nghiệm cũng biến
đổi theo. Nhưng loại mô thức nhận thức chung nhất này quy định không chỉ các
hình thức của tư duy (như kết cấu lôgíc toán học), mà cả phương thức và góc độ
quan sát của con người chịu ảnh hưởng bởi sự chế ước của lịch sử và thời đại.
Do vậy, nó thực chất là phương thức tư duy mà chúng ta vẫn thường nói đến.
Phương thức tư duy đóng vai trò là những kết cấu tinh thần để phát huy văn hoá

thế giới trong những thời kỳ và giai đoạn lịch sử nhất định, sự ảnh hưởng của nó
luôn có ý nghĩa vượt thời gian, nhưng lại không thể tồn tại độc lập, mà luôn
thâm nhập vào đồ thức nhận thức của con người để phát huy tác dụng.
Nếu mô thức nhận thức ẩn chứa trong những kết cấu cao hơn của những hệ
thống tri thức nhất định, thì lý luận và kinh nghiệm là mô thức biểu hiện của mô
thức nhận thức, nghĩa là cấp độ chức năng của nó. Như mọi người đều biết, chức
năng nhận thức của mô thức lý luận biểu hiện tập trung trong việc quan sát lý
luận. Đối với cùng một đối tượng, những gì mà nhà vật lý học nhìn thấy thì khác
với nhà hoá học. Nguyên nhân là ở chỗ, họ áp dụng những tri thức khác nhau
với cùng một đối tượng, tức là đem các tri thức lý luận khác nhau gắn vào đối
tượng, tạo nên sự lý giải và phân loại khác nhau đối với đối tượng. Cấp độ lý
luận có sự ổn định tương đối so với cấp độ kinh nghiệm, nó vừa có sự trợ giúp
của cấp độ kinh nghiệm, vừa nhận được sự bảo đảm của cấp độ nguyên lý. Khi
một loại lý luận đồng thời có tính thực dụng hợp lý (tính hợp lý của cấp độ kinh
nghiệm) và có tính hợp lý của niềm tin (tính hợp lý do cấp độ nguyên lý quyết
định), nó sẽ nhận được sự trợ giúp của hai loại cấp độ kia và do vậy, càng tăng
cường vai trò giải thích của mình.
Cấp độ kinh nghiệm nằm ở ngoài phạm vi của hệ thống tri thức; nó nằm trong
quá trình tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể, do vậy mà Piaget cho rằng,
đó là chỗ quan trọng nhất của cấu tạo nội hoá và cấu tạo ngoại hoá. Cấp độ kinh
nghiệm cùng với sự phát triển hoạt động thực tiễn của con người cũng luôn luôn
ở trong quá trình vận động, biến đổi, cho dù cấp độ kinh nghiệm chịu sự chi
phối và chỉ đạo của lý luận, nhưng từ góc độ phát sinh học mà xét, nó lại là xuất
phát điểm của hệ thống tri thức của con người. Một mặt, cấp độ kinh nghiệm, do
mối liên hệ tự nhiên giữa nó và thực tiễn mà sản sinh hạt nhân hợp lý của trình
tự lôgíc và tri thức ngữ nghĩa; mặt khác, đồ thức nhận thức thường thông qua
cấp độ kinh nghiệm như là trung gian để tiến hành tác động qua lại với môi
trường nhằm đạt được sự điều chỉnh và phát triển. Đối với việc chấp nhận văn
hoá nước ngoài và tính có thể lý giải được về sự khác biệt giữa các nền văn hoá
khác nhau, thì cũng căn cứ vào tính tương đồng của loài người trên phương diện

lý tính thực dụng, nghĩa là trong điều kiện phương thức sinh hoạt khác nhau, con
người luôn có rất nhiều kinh nghiệm sống tương tự như nhau.
Những phân tích ở trên cho thấy, trong các lĩnh vực khoa học khác nhau, việc sử
dụng và lý giải khái niệm “đồ thức” thường do tính chất chuyên môn của chúng
mà có sự khác nhau. Vấn đề phân biệt mô thức trong nghiên cứu của tâm lý học
chủ yếu thuộc về cấp độ kinh nghiệm; “phép từ quả truy tìm nhân” và “nguyên
lý dòng chảy” trong phương pháp luận nghiên cứu khoa học gắn liền với chức
năng lý luận, còn “lý luận bản đồ xanh” là ý nghĩa chức năng của cấp độ nguyên
lý. Nghiên cứu nhận thức luận đối với đồ thức, trước tiên cần chú ý đến cấp độ
tri thức do các loại lý luận đồ thức chỉ ra, đồng thời cần phải tiến hành nghiên
cứu trên góc độ tổng thể.
Thứ hai, chức năng của đồ thức và cơ chế chuyển đổi của nó còn biểu hiện ở
một góc độ khác, nghĩa là vấn đề tính không đối xứng của nhân tố lôgíc và nhân
tố tâm lý. Tri thức của con người không chỉ có tính cấp độ của nó, mà còn có sự
phân biệt chủng loại. Nhà triết học nổi tiếng Karl Popper đã phân tri thức của
con người thành 2 loại: tri thức mang ý nghĩa chủ quan và tri thức mang ý nghĩa
khách quan. Loại thứ nhất thuộc về tâm lý học, loại sau thuộc về lôgíc học. Ông
cho rằng, ý nghĩa khách quan của tri thức không bao hàm tri thức của chủ thể
nhận thức. Do đó, mục đích của lý luận về tri thức khách quan của Karl Popper
là bỏ qua bộ não và cơ thể, tiến tới vượt qua quá trình tâm lý để biểu thị tính
chất lý tính của nhân loại. Nói một cách tương đối, đối với quá trình tâm lý của
con người, hệ thống tri thức do ngôn ngữ và chữ viết tạo thành vốn có tính
nghiêm ngặt và tính quy định chỉnh thể. Điều này cho thấy, kết cấu lôgíc của hệ
thống tri thức này tương đối ít tính tuỳ tiện và cũng tương đối dễ hình thức hoá.
Đây là điểm thuận lợi cho việc tiến hành phân tích lôgíc đối với hệ thống tri thức
khách quan. Thế nhưng, ở đây, Karl Popper đã phạm một sai lầm không thể bỏ
qua. Chúng ta biết rằng, nghiên cứu nhận thức luận đối với những phát hiện
khoa học không thể chỉ tập trung vào việc phân tích lôgíc những kết quả nhận
thức cũng như năng lực hình thức hoá nhận thức của con người. Đối với sự phát
sinh, phát triển của nhận thức mà nói, đây không phải là một vấn đề thuần tuý

hình thức, mà nó bao hàm quá trình tư duy tâm lý vô cùng phức tạp. Chính là
dựa vào cách xem xét này, Karl Popper không tán thành việc đối lập tri thức với
tâm lý học. Ông cho rằng, không thể xem xét vấn đề tri thức một cách biết lập,
tách rời sự phát sinh, phát triển của tư duy. Với bất kỳ nhận thức luận nào, cho
dù nó hạ thấp nhân tố chủ thể xuống mức thấp nhất, thì cũng đều phải cần đến sự
trợ giúp của tâm lý học. Như vậy, Karl Popper đã chuyển trọng tâm nghiên cứu từ
kết quả nhận thức sang quá trình nhận thức, đồng thời kết hợp lôgíc học với tâm
lý học, nhằm xây dựng một loại lôgíc vốn có hiệu dụng của tâm lý học và gắn với
vận dụng toán tâm lý.




NHẬN THỨC - ĐỒ THỨC - TÍNH KHÁCH QUAN (*) (tiếp theo)
LÝ CẢNH NGUYÊN(**)

Hoàn toàn không nghi ngờ rằng, sự tranh luận về mối quan hệ giữa tâm lý và
lôgíc chắc chắn vẫn còn kéo dài. Điều thu hút sự chú ý của chúng ta là, vì sao
lại có sự tranh luận giữa các nhà triết học và các nhà tâm lý học, sự khác biệt
và mối liên hệ giữa những vấn đề tâm lý và những vấn đề lôgíc nằm ở đâu,
chức năng của chúng trong quá trình nhận thức là gì? Chúng tôi cho rằng, đối
với việc lý giải cơ chế, chức năng của đồ thức, sự nghiên cứu sâu vấn đề này
là vô cùng quan trọng.
Nếu xem xét một cách tỷ mỉ, chúng ta sẽ nhận thấy, hệ thống phân loại tâm lý
và hệ thống quy loại lôgíc là hai loại chức năng điển hình của hệ thống phân
loại. Đầu tiên, đối với phạm vi phân loại của sự vật, chúng có độ rộng hẹp
khác nhau. Mọi người đều biết, năng lực phân loại của con người bắt nguồn từ
năng lực phân biệt dựa vào bản năng của động vật, do vậy phạm vi nhận biết
của động vật đối với các mô thức là vô cùng hạn hẹp. Khi có ai lấy hết trứng
trong tổ của chim hải âu, nó sẽ đi tìm những vật tròn tròn khác, ví dụ như đá

sỏi hoặc khoai tây để thay thế. So với động vật, hệ thống phân loại của con
người vốn có đặc trưng lý tính. Khi cần thiết, con người cũng có thể phân biệt
được sự khác nhau giữa vật và vật làm giả y hệt như nó. Nhưng như vậy
không có nghĩa là nói, con người chỉ có một hệ thống phân loại lôgíc mà thôi.
Thực tế cho thấy, sự phân loại tâm lý của con người đối với sự vật có khi còn
rộng hơn phân loại lôgíc (khái niệm). Khi chúng ta nói đến những từ như: ruột
quả, chân bàn, sau ghế, v.v. thì những từ in nghiêng đều được mượn từ phạm
vi khác đến và chúng đã sớm vượt khỏi hàm nghĩa vốn có của từ ngữ. Con
người sở dĩ có thể truyền đạt tin tức một cách có hiệu quả là vì giữa sự vật
được đề cập đến và những sự vật khác có tính tương đồng, đồng thời có thể
dẫn đến những phản ứng tương tự. Nói cách khác, ngôn ngữ thường ngày và
ngôn ngữ lý luận của con người luôn có tính chất loại suy, hàm nghĩa của nó
luôn vượt ra khỏi ý nghĩa trong từ điển. Tiếp theo, hình thức biểu trưng của
chúng không giống nhau. Hình thức biểu hiện của lôgíc đa phần mang tính
mệnh đề, còn của tâm lý học thì chủ yếu mang là tính so sánh. Giống như việc
dùng ngôn ngữ để biểu đạt, tư duy lôgíc đòi hỏi chúng ta vận dụng loại ngôn
ngữ chính xác của toán học để biểu đạt, đồng thời phải tuân thủ một loạt các
quy tắc và trình tự của việc xoá bỏ tính đa nghĩa của ngôn ngữ. Nhưng tư duy
so sánh thì lại yêu cầu chúng ta vượt qua hạn chế về loại, từ những sự vật khác
nhau để tìm ra những sự vật giống nhau. Một học giả chỉ ra rằng, trong lúc sử
dụng ngôn ngữ mang tính so sánh, “cần phải trợ giúp năng lực loại suy (đây
có lẽ là yếu tố thiên bẩm nổi bật nhất của bộ não con người), nghĩa là trong
những hoàn cảnh hoặc sự vật không giống nhau nhận ra những quan hệ và tính
chất giống nhau. Cái này tạo thành cơ sở tâm lý của phép tỷ dụ (ẩn dụ)”(4).
Như vậy, con người có hai phương thức biểu đạt ngôn ngữ, hoặc nói cách
khác, ngôn ngữ có hai mô thức vận dụng. Hai mô thức hay hai phương thức
biểu đạt đó có tác dụng và ý nghĩa rất khác nhau trong tư duy. Đối với câu nói
“Người Trung Quốc là người Trung Quốc”. Xét từ góc độ lôgíc, đây là một sự
biểu đạt mà lượng thông tin bằng không. Nhưng nếu xét từ góc độ tâm lý, việc
câu trên lặp lại cụm từ “người Trung Quốc” hoàn toàn không phải là ngang giá

trị với cụm từ đầu. Thực chất con người có hai loại phương pháp phân loại,
phương pháp phân loại lôgíc thì nghiêng về đồng nhất khách thể, hoặc tính
đồng nhất trong những điều kiện khác nhau của một loại khách thể, còn
nguyên tắc phân loại tâm lý thì nhấn mạnh tính đẳng trực của sự không đồng
nhất khách thể, nó có khuynh hướng kết hợp những sự vật khác nhau lại với
nhau. Tính phi đối xứng của nhân tố lôgíc và nhân tố tâm lý hoàn toàn không
nói lên sự tách rời, hoặc không thể dung hoà giữa chúng, mà chỉ nói lên rằng,
chúng ta cần phải xuất phát từ cấp độ cao hơn để nghiên cứu mối quan hệ qua
lại giữa hai nhân tố này. Chính vì thế, tôi đánh giá cao việc trong những năm
gần đây có nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau đã cùng đưa ra và nghiên cứu ý
nghĩa phương pháp luận của phạm trù “tương tự”. Phạm trù này giúp ích cho
việc thống nhất lôgíc và tâm lý với nhau. Vấn đề “tương tự” chính là “dù là
bất đồng nhưng lại tương đồng”, nó bao hàm sự tượng trưng còn rộng và bao
quát hơn “loại”. Điều này nói lên rằng, khi hai sự vật cùng thuộc về một loại,
thì đương nhiên chúng tương tự với nhau, nhưng chúng ta lại rất khó dùng
“loại” để định nghĩa phạm trù “tương tự”. Nhà sáng lập lôgíc mờ L.A.Kuhn
lần đầu tiên đưa ra nội hàm của phạm trù “tương tự”, chính là chỉ một dạng
“loại” mà không thể định nghĩa một cách rõ ràng. Sự kết hợp giữa tâm lý học
và lôgíc học khiến cho sự nắm bắt về “loại” của chúng ta trở nên mơ hồ, từ đó
giúp con người có khả năng nắm bắt được quan hệ tương tự khả năng này
được gọi là khả năng “xác nhận đồng đẳng” hoặc “xác nhận đồng nhất”, nó
chính là sự vận dụng quan hệ được hình thành trong một lĩnh vực này sang
một lĩnh vực khác. Rõ ràng, khả năng này là cơ sở cho đồ thức nhận thức phát
huy tác dụng.
Cũng giống như tính phi đối xứng giữa chức năng của bán cầu não trái và bán
cầu não phải là cơ sở của kết cấu bổ trợ để hình thành nên tư duy trừu tượng
và tư duy hình tượng của con người, tính phi đối xứng giữa chức năng lôgíc và
chức năng tâm lý cũng cấu thành một loại kết cấu bổ trợ. Cái kết cấu bổ trợ
này có giá trị quan trọng đối với việc lý giải đồ thức trong quá trình nhận thức.
Đầu tiên, sự “đồng hoá” của đồ thức đối với khách thể nhận thức (bao gồm

các hình thức chọn lựa, giải thích, giả thiết, đối chiếu, v.v.) hoàn toàn không
nói lên đồ thức và khách thể là có quan hệ hoàn toàn đồng đẳng, mà chỉ một
loại quan hệ tương tự. Nói cho cùng, không chỉ suy luận so sánh của con
người, bao gồm diễn dịch, quy nạp, mà cả suy luận mang tính giả thiết cũng
đều dựa vào những sự vật tương tự để tiến hành. Tiếp theo, xét từ góc độ của
ký hiệu học, sự đối lập của lôgíc và tâm lý là sự đối lập của lưỡng cực ý nghĩa,
những yếu tố lôgíc nằm ở vị trí trung tâm của hệ thống ngữ nghĩa, còn những
yếu tố tâm lý thì nằm ở vùng giáp ranh của hệ thống này. Vị trí trung tâm chịu
sự chi phối hoàn toàn của mã tín hiệu, nó là bộ phận xác lập đầy đủ lý tính con
người; còn vùng giáp ranh thì có khuynh hướng thoát khỏi sự khống chế của
mã tín hiệu, trình tự hoá của nó thì không hoàn chỉnh và không ổn định.
Những yếu tố lôgíc và những yếu tố tâm lý đóng vai trò là nhân tố chế ước nội
tại của đồ thức nhận thức chính là hai loại năng lực của chủ thể, từ lĩnh vực
lôgíc đến lĩnh vực tâm lý. Chúng ta có thể nhận thấy rằng, tư duy con người từ
lúc thu nhận mã tín hiệu đến khi giải mã tín hiệu cũng chính là vấn đề
“phương thức tư duy thu hẹp” chuyển thành “phương thức tư duy lan toả”. Sự
thống nhất đối lập cũng như sự chuyển biến qua lại giữa tâm lý và lôgíc là kết
cấu có tính sáng tạo của sự phát triển ký hiệu ngôn ngữ, cũng chính là nhân tố
cấu thành cơ bản của tư duy sáng tạo. Con người sáng tạo và sử dụng mã tín
hiệu, con người vừa phục tùng mã tín hiệu, vừa có thể cải biến mã tín hiệu. Do
đó có thể rút ra kết luận là, việc hai nhân tố này (nhân tố lôgíc và nhân tố tâm
lý – ND.) cùng tồn tại sẽ thúc đẩy nhận thức của con người và cơ chế nội tại
của sự tiến hoá của đồ thức.
III. Vấn đề đặt ra khi đi sâu nghiên cứu và tìm hiểu quá trình nhận thức là, rốt
cuộc, đồ thức được phát huy tác dụng như thể nào và làm thế nào mà con
người xuất phát từ đồ thức chủ quan lại đạt được tính khách quan của nhận
thức. Đây chính là những vấn đề quan trọng mà nhận thức luận phải đối mặt.
Như mọi người đều biết, Piaget đã đưa ra lý luận đồ thức nhận thức. Ông cho
rằng, bất kỳ nhận thức nào cũng đều không có một sự khởi đầu tuyệt đối, nó
luôn được gắn với những đồ thức đã có. Nhận thức và tri thức không phải là

sự phản ứng đơn giản của chủ thể đối với kích thích bên ngoài, mà đạt được
thông qua kinh nghiệm hoặc đồ thức đã có trước đây đối với sự đồng hoá của
nó. Ông dùng công thức “S (A) R” để thay thế công thức “S - R” của những
người theo chủ nghĩa hành vi, trong đó (A) biểu thị các loại kích thích đã bị đồ
thức của chủ thể đồng hoá. Như vậy, Piaget cho rằng, để đảm bảo, nhận thức
và tri thức của con người hoàn toàn không chỉ dựa vào khách thể bên ngoài,
mà còn dựa vào kết cấu năng lực của chủ thể, nghĩa là về bản chất, đồ thức
nhận thức dựa trên sự tác động qua lại của chủ thể và khách thể.
Sự khởi đầu của nhận thức bắt nguồn từ sự tác động qua lại giữa chủ thể và
khách thể, nó phong phú hơn so với việc khách thể độc lập nảy sinh ra các vấn
đề, đây là quan điểm hạt nhân của Piaget. Quan điểm này không những chỉ ra
cấp độ tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể trong quá trình hoạt động,
mà còn bao hàm cấp độ tác động qua lại giữa đối tượng nhận thức và đồ thức
chủ quan. Đồ thức đóng vai trò năng lực nhận thức của con người, về mặt hình
thức là chủ quan, đồng thời chỉ thông qua sự sàng lọc của đồ thức quan niệm,
khách thể bên ngoài mới có thể được chủ thể nắm bắt. Vậy, tính khách quan
của nhận thức được thực hiện như thế nào? Piaget đã chỉ ra lý luận về sự bổ
sung lẫn nhau giữa chủ quan và khách quan, giữa chủ thể và khách thể, hay là
lý luận về sự đồng hoá và tương ứng dần dần để tiến đến cân bằng. Cụ thể có
hai điểm chủ yếu sau đây:
Một là, bản thân sự đồng hoá của đồ thức không thể tách rời mặt đối lập của
nó – tương ứng – mà tồn tại, đồ thức có chức năng đồng hoá luôn bị đối tượng
đồng hoá của nó dẫn dắt, nghĩa là đồ thức tương ứng với khách thể. Khi mà
đồng hoá lớn hơn tương ứng, tư duy chỉ có thể ở trong trung tâm cái tôi; khi
mà đồng hoá thoát ly sự tương ứng, thì tri thức mà nó đạt được mang tính chủ
quan, tuỳ tiện và sẽ dẫn đến “sai lầm đồng hoá”, nghĩa là khách thể bị chủ thể
đồng hoá sai, hình ảnh của sự vật khách quan bị biến đổi do sự đồng hoá sai
lầm. Do đó, quá trình nhận thức không chỉ là quá trình đồng hoá tin tức, mà
còn là quá trình không ngừng đòi hỏi xoá bỏ vấn đề “trung tâm hóa”. Quá
trình này là điều kiện tất yếu của bản thân tri thức khách quan. Điều đó có

nghĩa là, quá trình nhận thức, ngoài đồ thức và kết cấu bên trong, luôn cần có
tác động của thế giới bên ngoài.
Hai là, đồng hoá và tương ứng là hai cực của sự tác động qua lại giữa tri thức
chủ quan và tri thức khách quan. Năng lực trí tuệ luôn luôn giúp cho quá trình
nhận thức thích ứng với hai cực của sự tác động tương hỗ để đạt được sự phát
triển. Nói chung, sự tiệm tiến dần dần đến cân bằng giữa đồng hoá và tương
ứng là quá trình cơ bản của sự phát triển nhận thức. Trong quá trình nhận
thức, chủ quan và khách quan, đồng hoá và tương ứng không phải là không
thể dung hoà, mà chúng vừa đối lập vừa thống nhất với nhau. Nhận thức luôn
dựa vào sự tác động qua lại, bổ sung lẫn nhau giữa hai yếu tố trên mà phát
triển, tất cả tri thức vừa tương ứng với khách thể vừa đồng hoá với chủ thể, từ
cái tôi trung tâm đến tính khách quan là quy luật tiến hoá của tri thức và nhận
thức.
Như vậy, tác dụng tích cực và tiêu cực của đồ thức trong quá trình nhận thức
đã được Piaget trình bày. Vấn đề là ở chỗ, lý luận này có tính khoa học hay
không? Đồng hoá và tương ứng đóng vai trò là một quy luật tâm lý học liệu có
thể được chứng minh và phản ánh trong cấp độ văn hoá xã hội hay không?
Việc Piaget phát hiện ra quy luật tâm lý này đã được thực tế lịch sử nghệ thuật
chứng minh. Một học giả nổi tiếng của Anh là E.H.Gombrich thông qua quá
trình tập trung nghiên cứu lịch sử tiến hoá của nghệ thuật cũng đồng thời phát
hiện ra quy luật quan trọng này. Ông nhận thấy, trong một bức địa chí mô tả
thế kỷ XVI, con sông Tiber đã phá vỡ con đê của thành La Mã, cho dù người
hoạ sỹ cố gắng miêu tả thành Sant’ Angelo của La Mã, nhưng cái mà mọi
người nhìn thấy chẳng qua chỉ là đồ thức của cái thành mà thôi, và hai cái đó
khác xa nhau. Vào thế kỷ XVII, một hoạ sỹ nổi tiếng có kỹ thuật siêu đẳng về
tranh địa chí là Marian trong khi vẽ nhà thờ Đức Bà Paris, đã bỏ kiến trúc
Gothic vừa hẹp vừa nhọn của các cửa sổ để vẽ thành vừa tròn vừa to, đồng
thời bỏ một bên có 7 cửa sổ và một bên có 6 cửa sổ để vẽ thành mỗi bên có 4
cửa sổ. Vào thế kỷ XIX, thời kỳ nghệ thuật tranh địa chí phát triển mạnh ở
nước Anh, người ta đã cho xuất bản một bức tranh đồng nhà thờ Đức Bà

Chatelet, so với nguyên mẫu thì cũng khác nhiều. Những chất liệu mà hoạ sỹ
sử dụng cho tác phẩm này là rất chuẩn xác, nhưng lại không vượt qua được
hạn chế của truyền thống. Ông vẽ giáo đường Chatelet theo kết cấu Gothic,
nhưng không vẽ cửa sổ tròn kiểu La Mã ở phía tây. Những sai sót của một số
hoạ sỹ vừa nói ở trên đều không phải do nguyên nhân kỹ thuật tạo thành, mà
liên quan đến truyền thống và đồ thức của người hoạ sỹ; nếu như có ai chỉ cho
người hoạ sỹ sự sai sót của anh ta, thì anh ta có thể sửa chữa nó. Do đó,
E.H.Gombrich đã rút ra kết luận: “những chất liệu dường như không quá quan
trọng đối với người nghệ sỹ để tạo ra một sản phẩm độc đáo, anh ta không
xuất phát từ ấn tượng thị giác mà xuất phát từ quan niệm hoặc là khái niệm:
như hoạ sỹ người Đức đã vận dụng khái niệm về thành luỹ đối với một thành
luỹ cá biệt, Marian thì xuất phát từ quan niệm của ông về nhà thờ, còn người
hoạ sỹ tranh đồng thì xuất phát từ một dạng mô thức cố định của nhà thờ”. Sự
hài hoà giữa hiện thực và hội hoạ “thường là quá trình tiến hành từng bước
một, quá trình này dài bao nhiêu, khó khăn phức tạp thế nào, phải dựa vào sự
lựa chọn đồ thức đầu tiên phù hợp với mục đích của mỗi bức tranh”(5). Trên
đây là những ví dụ điển hình về sự ảnh hưởng của truyền thống lịch sử và đồ
thức đối với tính tái hiện của nghệ thuật.
Tác dụng của đồ thức trong quá trình nhận thức và trong tính tái hiện của nghệ
thuật đã được trình bày ở trên, điểm khó khăn nhất là làm rõ cơ chế phát huy
tác dụng của đồ thức. Mọi người đều biết, mặc dù về tổng thể Piaget có đưa ra
lý luận về cơ chế chức năng của đồ thức (đồng hoá và tương ứng), nhưng ông
chủ yếu nghiêng về sự phát sinh và phát triển của nó. Do đó, chủ nghĩa kết cấu
(đồ thức) của ông có mối liên hệ chặt chẽ với chủ nghĩa cấu tạo, còn vấn đề cơ
chế và chuyển biến của đồ thức trong quá trình nhận thức không được đề cập
nhiều.
E.H.Gombrich chỉ ra rằng, chi phối quá trình tri giác và quá trình tái hiện nghệ
thuật là do cùng một quy luật, quy luật “đồ thức và sửa chữa”. Theo ông, sự lý
giải của chủ thể đối với sự vật (bao gồm mô tả và tái hiện) thường là sự giải
thích đồ thức và nếu không có những đồ thức ban đầu, thì chúng ta vĩnh viễn

không thể nắm bắt được những sự vật cá biệt. Tâm lý học có đề cập đến hai
hình thức đồ thức khác nhau và hai hình thức đồ thức có quan hệ song song có
nguồn gốc từ sự khác biệt và chuyển đổi của đồ thức kinh nghiệm chủ quan
của chủ thể. Thậm chí, trong khi phân biệt đối với những hình thức đồ thức
không có ý nghĩa, đồ thức kinh nghiệm dự thành cũng không thể thiếu được.
Khi con người đứng trước những vết tích (dấu vết) để lại, thì luôn gắn nó phù
hợp với những đồ thức đã rõ ràng. Ví dụ, vết tích để lại là một hình giống như
tam giác hoặc giống như một con cá, sau khi lựa chọn đồ thức về đại thể phù
hợp với hình dạng của các vết tích đó, người ta bắt đầu tiến hành chỉnh sửa nó
cho đúng đắn, ví như chú ý đến góc hình tam giác là nhọn chứ không phải là
tròn, hoặc đằng sau con cá là cái đuôi… Như vậy, có thể thấy, nhận thức đều
thông qua đồ thức dự thành và quá trình chỉnh sửa cho đúng đắn để tiến hành.
Do quan hệ của đối tượng và đồ thức là quan hệ chung và quan hệ cá biệt mà
không phải là quan hệ hoàn toàn bình đẳng, nên khi vận dụng đồ thức để
“đồng hoá” đối tượng, bản thân đồ thức cũng bị chỉnh sửa cho đến khi đạt
được sự phù hợp với trạng thái sự vật mà dự định tái hiện.
Rõ ràng, ở đây nói đến “chỉnh sửa lại cho đúng” chính là đồ thức tương ứng
với khách thể bên ngoài. “Đồ thức dự thành và chỉnh sửa lại cho đúng” dựa
vào một phương pháp biểu thị mới đã tái hiện và minh chứng cho hình thức
quan hệ “đồng hoá và tương ứng” của Piaget. Đóng góp của E.H.Gombrich là
ở chỗ, ông đưa ra hai mệnh đề mới: “Chế tạo có trước phối hợp” (hoặc “sáng
tạo có trước tham khảo”) và “phối hợp chiến thắng chế tạo”. Theo quan điểm
của ông, bất kỳ sự sáng tạo hay chế tạo hình tượng nào cũng đều không tránh
khỏi quy luật của đồ thức và chỉnh sửa cho đúng, thế nhưng vị trí của đồ thức
và sự chỉnh sửa cho đúng trong quá trình chế tạo hình tượng là không giống
nhau. “chế tạo có trước phối hợp” chính là nhấn mạnh tính chỉ đạo của mô
thức quan niệm. Đồ thức vừa là nghiên cứu hiện thực, là phương tiện xử lý
tính đặc thù, vừa là khởi điểm và cấu trúc của chủ thể để phù hợp với đối
tượng khách quan mà tiến hành điều chỉnh và chỉnh sửa cho đúng. Do bất kỳ
sự chế tạo hay sáng tạo nào cũng đều xuất phát từ đồ thức dự thành nên đồ

thức có trước đối tượng cần phải được tham khảo và phối hợp. Quá trình tri
giác và chế tạo hình tượng nghệ thuật của con người đương nhiên phải có sự
phối hợp với sự vật tự nhiên được nó miêu tả, mà quá trình phối hợp chính là
thông qua trình tự của đồ thức và chỉnh sửa cho đúng để tiến hành. Tri giác và
“tính giống hệt” của sự tái hiện nghệ thuật hay tính khách quan là mục đích và
kết quả cuối cùng của quá trình này. Do đó, E.H.Gombrich cho rằng, một tác
phẩm nghệ thuật mô tả một cách chính xác tự nhiên thể hiện “phối hợp chiến
thắng chế tạo”. Như vậy, xuất phát từ những đồ thức chung, thông qua sự điều
chỉnh từng bước, cho đến khi chủ thể nắm bắt một cách đúng đắn quan niệm
của các đối tượng nhất định, đó chính là quá trình hoàn chỉnh của đồ thức có
trước phối hợp và sự phối hợp chiến thắng đồ thức. Nó biểu hiện một cách cụ
thể nhận thức của con người làm thế nào để thoát khỏi cái tôi, làm thế nào để
từ tính chủ quan đi đến tính khách quan; đồng thời cho thấy bất kỳ một nhận
thức mới được sản sinh nào cũng đều là kết quả của việc chủ thể sửa chữa,
phản tỉnh đối với những đồ thức vốn có. Trong lịch sử nhân loại, những phẩm
chất quý báu và cống hiến to lớn của các nhà khoa học, các nhà nghệ thuật là
dám và khắc phục thành công hạn chế của truyền thống lịch sử cũng như thói
quen đồ thức, đồng thời khắc phục hạn chế cũng như cải tạo và đổi mới đồ
thức quan niệm.
Có người sẽ hỏi: “đồ thức và sửa chữa cho đúng đắn” đã nói ở trên (chế tạo có
trước tham khảo và phối hợp chiến thắng chế tạo) có phải là toàn bộ quy luật
vận hành đồ thức nhận thức của con người hay không? Câu trả lời của chúng
tôi là vừa đúng, vừa không đúng. Ở trên, chủ yếu nói đến cơ chế tác động của
đồ thức kinh nghiệm, còn sự chuyển đổi và tu sửa của mô thức nhận thức cũng
như cấp độ lý luận thì phức tạp hơn nhiều. Loại hình và vị trí của sự đổi mới
đồ thức có quan hệ trực tiếp với những vấn đề tồn đọng của cấp độ tri thức,
việc giải quyết những vấn đề lý luận quan trọng có quan hệ chặt chẽ với việc
chỉnh sửa mô thức lý luận, chỉ có sự đổi mới nguyên lý mới thực sự động
chạm đến mô thức nhận thức. Có một số chuyên gia thậm chí cho rằng, tương
đối luận xuất hiện chỉ là sự đổi mới đối với cấp độ lý luận của cơ học cổ điển,

chỉ khi cơ học lượng tử ra đời mới thực sự biểu hiện cuộc cách mạng trên
phương diện nguyên lý của cơ học cổ điển. Điều đó cho thấy, mô thức nhận
thức hoàn toàn không giống như sự lý giải thông thường, nghĩa là không thể
tuỳ tiện thiết lập và biến đổi.r
Người dịch: ThS.CHU VĂN TUẤN
(Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam)

(*) Bài đã đăng trên Tạp chí Nghiên cứu triết học, số 1, 1990.
(**) Giáo sư, tiến sĩ, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Trung Quốc.
(1) Nhập môn ký hiệu học. Công ty xuất bản Văn hoá quốc tế xuất bản, 1985,
tr, 155.
(2) Con người có vai trò của con người. Thương vụ ấn thư xuất bản, 1978,
tr.100.
(3) Xem Tri thức nhân loại. Nxb Khoa học, 1986, tr.102.
(4) Ngôn ngữ học khái niệm. Thương vụ ấn thư xuất bản, 1983, tr. 72.
(5) Nghệ thuật và ảo giác. Nxb Nhân dân Hồ Nam, 1987, tr. 69.


×