MỤC LỤC
PHẦN I: CƠ SỞ LÍ LUẬN: 5
*Thị trường độc quyền bán 5
1.1 Khái niệm thị trường độc quyền bán 5
1.2 Các đặc trưng của thị trường độc quyền bán 5
1.3 Nguyên nhân dẫn tới độc quyền 5
1.4 Đường cầu và doanh thu cận biên của hãng độc quyền bán 6
PHẦN II: THỰC TRẠNG ĐỘC QUYỀN ĐIỆN-ĐỘC QUYỀN TUYỆT ĐỐI 9
2.1 Giới thệu chung về tình hình độc quyền điện ở nước ta 9
2.2 “Bệnh độc quyền” 13
2.2.1 Căn nguyên của bệnh độc quyền 14
2.2.2 Các biểu hiện của bệnh độc quyền 14
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ GIẢI PHÁP 21
3.1Giải pháp 21
3.2 Kết luận 23
Page
1
BÀI TIỂU LUẬN
Đề Tài: Độc quyền giá điện ở Việt Nam.
DANH SÁCH NHÓM 3
1.VÕ THỊ MỸ CHI
2.ĐỒNG THỊ MỸ NHẬT
3.ĐINH THỊ XUÂN LIÊN
4.PHẠM THỊ XOAN
5.NGUYỄN THỊ PHÚC
6.NGUYỄN THỊ BÍCH TRÂM
7.VÕ KIM THANH
Page
2
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường,quy trình trao đổi hàng hóa diễn ra
ngày càng lớn, với chủng loại hàng hóa ngày càng phong phú, phương thức trao đổi đa
dạng, nhất là sau thời kì Việt Nam ra nhập WTO. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân như
đạt được tính kinh tế theo quy mô,bản quyền, sự kiểm soát yếu tố đầu vào hoặc do chính
phủ, đã dần tới độc quyền về kinh tế. Độc quyền trong kinh tế học là trạng thái thị trường
chỉ có duy nhất một người bán và sản xuất ra sản phẩm khó có sản phẩm thay thế gần gũi.
Độc quyền được phân theo nhiều tiêu thức: mức độ độc quyền, nguyên nhân của độc
quyền, cấu trúc độc quyền.
Vào những năm gần đây ,ngành điện trong nước cụ thể là tổng công ty điện lực Việt Nam
EVN đã dần đà biểu hiện những bê bối của mình trong vấn đề sản xuất kinh doanh, phân
phối, cũng như điều hành. Cụ thể là vụ bê bối điện kế điện tử vào năm 2004-2005 gây ra
nhiều tổn thất lớn cho người tiêu dùng , rồi đến vụ tăng giá điện vào đầu tháng 1/2007
trong khi tình trạng cắt điện xảy ra liên tục trên diện rộng, sau đó là việc trả lại cho Nhà
Nước 13 dự án nhiệt điện than vì lý do thiếu vốn, và gần đây nhất là việc xin 1002 tỉ
đồng làm tiền thưởng dẫn đến việc Kiểm Toán Nhà Nước phát hiện EVN bị kiểm toán
thiếu 600 tỷ đồng … Đó chỉ là một số trong những thiếu sót mà ta có thể thấy được từ
ngành điện nước ta .
Ngành điện là một trong các ngành công nghiệp quan trọng, và là 1 ngành công
nghiệp mũi nhọn của nước ta hiện nay, vì thế việc tập trung phát triển sản xuất, quản lý,
phân phối điện năng sao cho hợp lý, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng, phát triển của đất
nước là tối cần thiết.
Tuy nhiên do vốn đầu tư ban đầu rất lớn, không phải một doanh nghiệp nào có thể
dễ dàng tham gia xây dựng kinh doanh trong thị trường này, và chính những rào cản đó
mà ngành điện nước ta ngay từ đầu đã được nhà nước đầu tư cơ sở, nền tảng, giao trách
nhiệm cho một doanh nghiệp duy nhất quản lý.
Và từ khi thành lập đến nay, nước ta cũng chỉ có một và chỉ một doanh nghiệp
độc quyền quản lý gần như tuyệt đối trong các lãnh vực sản xuất, xây dựng mạng lưới,
truyền tải, phân phối điện năng…đến người tiêu dùng.
Page
3
Mặc dù ở các nước khác trên thế giới từ lâu đã phá vỡ thế độc quyền của ngành
điện, để mang lại giá trị, chất lượng cũng như độ thoả mãn tối đa nhất cho người dân,
nhưng nước ta đến hiện nay vẫn giữ nguyên cơ chế độc quyền của ngành điện.
Chính vì thế mà đã sinh ra lắm căn bệnh, bệnh cửa quyền, bệnh mập mờ, thiếu
trung thực, bệnh quản lý yếu kém gây thất thoát hiệu quả đầu tư…Từ đó dẫn đến những
chỉ trích, phê phán, thắc mắc cần giải quyết của đông đảo người dân.
Tìm hiểu về tình hình độc quyền điện ở nước ta hiện nay, nhóm 3 mong muốn đưa
ra 1 cái nhìn tổng quan về vấn đề này.
Page
4
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Thị trường độc quyền bán:
1.1 Khái niệm thị trường độc quyền bán
Thị trường độc quyền bán là thị trường có 1 người bán nhưng có nhiều người mua
và sản xuất ra sản phẩm không có sản phẩm thay thế gần gũi.
VD: Ở VN có 1 số ngành độc quyền bán như hàn không, điện nước, dịch vụ chuyển
phát thư của bưu điện, buôn bán vũ khí,…
Nhà độc quyền bán là người sản xuất duy nhất nên đường cung của hãng là đường
cung của thị trường.
1.2 Các đặc trưng của thị trường độc quyền bán
Chỉ có 1 hãng duy nhất cung ứng toàn bộ sản phẩm trên thị trường.
Sản phẩm, hàng hóa trên thị trường độc quyền không có hàng hóa thay thế gần
gũi.
Trên thị trường độc quyền bán, sức mạnh thị trường thuộc về người bán. Doanh
nghiệp có thể điều hành được giá cả để đạt được mục tiêu, hay doanh nghiệp độc
quyền là người “ấn định giá “.
Có rào cản lớn về việc ra nhập hoặc rút lui khỏi ngành.
Thông tin trên thi trường là không hoàn hảo.
1.3 Nguyên nhân dẫn tới độc quyền.
Do đạt được tính kinh tế theo quy mô ( độc quyền tư nhiên ). Ngành đạt được tính
kinh tế theo quy mô sẽ có đường chi phí bình quân dốc xuống: ở mức sản lượng
lớn sẽ có chi phí rẻ hơn ở mức sản lượng nhỏ. Trong trường hợp này doanh nghiệp
cung ứng hàng hóa hoặc dịch vụ duy nhất cho thị trường sẽ có chi phí thấp hơn
trường hợp có 2 hoặc nhiều doanh nghiệp cung ứng. Doanh nghiệp độc quyền tự
nhiên ít quan tâm tới những doanh nghiệp mới ra nhập thị trường, vì các doanh
nghiệp mới sẽ có chi phí cao hơn nhiều so với các doanh nghiệp trong ngành.
Page
5
VD: điện, hàng không…
Bản quyền
.Doanh ngiệp có thể dành được địa vị độc quyền nhờ chế độ bảo vệ bản quyền.
Độc quyền về nhãn hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp và giải pháp kĩ thuât trong 1 thời
gian nào đó.
VD : Bằng sáng chế và bản quyền tác giả…
Sự kiểm soát các yếu tố đầu vào ( nguồn lực then chốt thuộc sở hữu của một
doanh nghiệp duy nhất).Doanh nghiệp có thể dành được vị trí độc quyền khi nó
kiểm soát được toàn bộ hoặc hầu hết một yếu tố đầu vào cơ bản để xuất ra một
loại sản phẩm nào đó.
VD: Độc quyền kim cương Derbeers (Sở hưu mỏ kim cương lớn nhất thế giới )…
Do quy định của chính phủ. Chính phủ cho phép 1 doanh nghiệp nào đó là người
duy nhất đươc bán, hoặc cung cấp 1 loại hàng hóa hoặc dịch vụ nào đó trên thị
trường. Độc quyền trong trừơng hợp này gọi là độc quyền nhà nước.
VD : Đường săt VN, bưu chính VN…
1.4 Đường cầu và doanh thu cận biên của hãng độc quyền bán.
1.4.1. Đường cầu của thị trường độc quyền bán.
Là người sản xuất duy nhất với 1 loại sản phẩm, nhà độc quyền bán có sức kiểm
soát toàn diện đối với lượng sản phẩm đem ra bán. Nhưng điều này không có
nghĩa là hãng đặt giá cao bao nhiêu cũng được, vì mục đích của hãng là tối đa hóa
lợi nhuận. Đặt giá cao sẽ có ít người mua và lợi nhuận thu về sẽ ít hơn.
Vì là người duy nhất bán 1 loại hàng hóa, dịch vụ cụ thể trên thị trường, nhà độc
quyền bán đứng trước cầu của thị trường là 1 đường thẳng dốc xuống về phía phải
và có độ dốc âm.
=> Đường cầu tạo ra ràng buộc đối với khả năng kiếm lợi nhuận của nhà độc quyền bán
bằng cách tận dụng sức mạnh thị trường.
Page
6
=> Hãng không thể bán hết sản phẩm nếu định giá quá cao.
1.4.2. So sánh đường cầu của hãng cạnh tranh hoàn hảo và hãng độc quyền bán thuần túy.
Thị trường CTHH: Đường cầu là đường nằm ngang tại mức giá của thị trường.
Doanh nghiệp không có khả năng chi phối thị trường và giá, là: “người chấp nhận
giá”, không có sức mạnh thị trường.
Thị trường độc quyền bán : Đường cầu là đường thẳng dốc xuống về tay phải và
có độ dốc âm. Doanh nghiệp có khả năng chi phối thị trường và giá, là: “người ần
định giá”, có sức mạnh thị trường.
1.4.3. Doanh thu cận biên của hãng độc quyền bán.
Khi đường cầu của hãng là đường tuyến tính dạng: P = a – b.Q.
Tổng doanh thu của hãng độc quyền được tính bằng
TR = P.Q = a.Q – b.Q
2
MR = TR’ = (a.Q – b.Q
2
)’ = a – 2bQ
AR = TR/Q = (a.Q – b.Q
2
)/ Q =a –bQ = P
P
O
D
Q
Q
1
Q
2
P
1
O
Q
P
P
1
P
2
Q
1
Q
2
Cạnh tranh hoàn hảo Thị trường độc quyền bán
Page
7
AR = P
Đường doanh thu bình quân cũng chính là đường cầu của thị trường.
Khi đường cầu dốc xuống thì giá và doanh thu bình quân luôn lớn hơn doanh thu cận
biên, vì tất cả đơn vị bán ở cùng một giá. Tăng lượng bán thêm một đơn vị thì giá bán
phải giảm xuống, như vậy tất cả đơn vị bán ra đều phải giảm giá chứ không phải chỉ một
đơn vị bán thêm.
=> Đường doanh thu cận biên (MR) vì thế luôn nằm dưới đường cầu D, trừ điểm đầu
tiên.
Đường doanh thu cận biên là một
đường tuyến tính,cắt trục tung tại
một điểm với đường cầu và có độ
dốc gấp đôi đường cầu
Q
O
P
MR D
Đường doanh thu cận biên là một
đường tuyến tính,cắt trục tung tại
một điểm với đường cầu và có độ
dốc gấp đôi đường cầu
Page
8
PHẦN II: THỰC TRẠNG ĐỘC QUYỀN ĐIỆN - ĐỘC QUYỀN TUYỆT ĐỐI?
2.1 Giới thiệu chung về tình hình độc quyền điện ở nước ta:
Bảng sản lượng điện phát ra hàng năm từ 2000-2006 ( số liệu sơ bộ, lấy từ Tổng
cục Thống kê)
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Điện
phát
ra
Tr.kwh 26683 30673,
1
15%
35888
17%
40546
13%
46202
14%
52078
12,7%
59050
13,4%
Nhà
nước
" 24972
93,6%
28547,6
93,1%
33777
94,1%
39154
96,7%
44655
96,7%
49250
94,6%
55911
94,7%
Ngoài
nhà
nước
" 11,0 5,4 7,0 7,0 9,0 9,0 11,0
ĐTNN " 1700 2120,1 2104 1385 1538 2819 3127
Từ bảng trên, chúng ta có thể thấy cơ cấu ngành điện về cơ bản không có gì thay đổi
trong giai đoạn từ năm 2000-2006, Nhà nước (thực chất là Nhà nước giao cho EVN) vẫn
gần như chiếm vị thế độc quyền tuyệt đối trong việc phân phối điện năng (chiếm trên
93% sản lượng điện phát ra).
Chính do cơ chế độc quyền như vậy đã tạo điều kiện hình thành nên những “căn
bệnh độc quyền” trong ngành điện.
Trước hết chúng ta cần tìm hiểu đôi nét về Tập đoàn Điện lực Việt Nam EVN –
đơn vị được giao độc quyền phân phối điện năng tại Việt Nam.
Tập đoàn Điện lực Việt Nam là một doanh nghiệp nhà nước
của Việt Nam kinh doanh đa ngành. Theo báo cáo của UNDP 2007, EVN là doanh
nghiệp lớn thứ ba Việt Nam (sau Agribank và VNPT). Lĩnh vực kinh doanh chính là sản
xuất, truyền tải và xuất nhập khẩu điện năng.
Hiện nay EVN vẩn sử dụng mức giá bán được điều chỉnh và áp dụng từ ngày
1/1/2007 vẫn theo mô hình bậc thang và phương pháp bù trừ chéo như cũ.
Page
9
Trong lĩnh vực chính là kinh doanh điện năng, EVN có 5 công ty điện lực chính và
5 công ty truyền tải điện kinh doanh đến khách hàng đó là :
• Công ty điện lực 1.
• Công ty điện lực 2.
• Công ty điện lực 3.
• Công ty điện lực TPHCM.
• Công ty điện lực Hà Nội.
• NPT (Tổng Công ty Truyền tải điện Quốc gia)
• Cty truyền tải điện 1
• Cty truyền tải điện 2
• Cty truyền tải điện 3
• Cty truyền tải điện 4
Ngoài các cty trên thì hiện nay EVN còn nhiều nhà máy điện trải dài khắp đất
nước và 89 công ty điện lực tỉnh và quận/huyện thuộc TP.Hà Nội và TP.HCM và 5 công
ty TNHH một thành viên ở Hải Phòng, Hải Dương, Ninh Bình, Đà Nẵng, Đồng Nai và
một công ty cổ phần điện lực ở Khánh Hòa.
Là doanh nghiệp kinh doanh đa ngành, ngoài lĩnh vực chính là điện năng thì EVN
còn đầu tư vào một số lĩnh vực khác như :
• Giáo dục : trường Đại Học Điện Lực.
• Viễn thông : công ty viễn thông điện lực EVN (EVN Telecom) hoạt động
trong lĩnh vực phát triển mạng lưới dịch vụ điện thoại cố định nội tỉnh và đường dài trong
nước, cùng mạng điện thoại di động , dịch vụ Internet.
• Tài chính –ngân hàng : tập đoàn là cổ đông thể chế của ngân hàng thương
mại cổ phần An Bình , bên cạnh đó EVN vừa thành lập Công ty Tài chính EVN (EVN
Page
10
Finance) với vốn điều lệ 2.500 tỷ đồng, nhằm mục đích thực hiện kêu gọi đầu tư vào các
dự án ngành điện.
• CTCP bất động sản EVN-Land Nha Trang: thành viên mới của tập đoàn
Điện Lực Việt Nam (EVN) với tổng vốn điều lệ ban đầu là 300 tỷ đồng vừa chính thức ra
mắt hoạt động. EVN-Land Nha Trang được hình thành bởi các cổ đông chính là EVN;
CTCP Điện Lực Khánh Hòa (KHP); Công ty XDCT&ĐT địa ốc Hồng Quang; Công ty
điện lực 3;công ty TNHH TM&DV MESA, Công ty điện lực 2, công ty điện lực
TP.HCM, công ty cổ phần tư vấn xây dựng điện 4.
• Kinh doanh resort : mới đây EVN đã huy động số vốn đầu tư là 260 triệu
USD để đầu tư xây dựng khu resort tại khu vực Thừa Thiên Huế.
Trong tổng số vốn đầu tư tài chính dài hạn 49.700 tỉ đồng thì lượng vốn đầu tư ra
ngoài lĩnh vực sản xuất kinh doanh điện (như đầu tư vào viễn thông điện lực, chứng
khoán, ngân hàng, bảo hiểm, bất động sản là 3.590 tỉ đồng, chiếm 7,22% vốn đầu tư và
4,82% tổng vốn chủ sở hữu). Nhìn chung, đầu tư vào các lĩnh vực ngoài điện của EVN
đều hiệu quả, kinh doanh có lãi nhưng cũng cần được kiểm soát chặt chẽ.
Thành tựu đạt được:
Trong thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước, ngoài việc khôi phục để bảo đảm duy trì
năng lực nguồn hiện có, ngành điện đã tập trung chuẩn bị các điều kiện vật chất, kỹ thuật,
con người để thực hiện việc xây dựng cũng như phát triển điện lực theo quy hoạch dài
hạn. Các nhà máy thủy điện Hòa Bình, nhiệt điện Phả Lại và hệ thống lưới điện 220 kV
được xây dựng.
Từ năm 1992, Chính phủ quyết định xây dựng hệ thống tải điện 500 kV bắc - nam với
chiều dài 1.487 km và bốn trạm biến áp 500 kV, tổng vốn đầu tư 5.300 tỷ đồng, hệ thống
điện quốc gia được hình thành trên cơ sở liên kết lưới điện các miền bắc – trung – nam
thông qua trục xương sống là đường dây 500kV, giải quyết tình trạng thiếu điện ở miền
trung và miền nam, tạo điều kiện bảo đảm cung ứng điện an toàn, ổn định phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội.
Từ đó đến nay, tập đoàn điện lực Việt Nam đạt được một số thành tựu chính như sau:
- Giữ vững, phát huy vai trò chủ đạo và đã đáp ứng một cách cơ bản nhu cầu điện cho
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức
cao trong nhiều năm liên tục. Tính chung giai đoạn từ 1995 - 2008, tốc độ tăng trưởng
điện thương phẩm ở nước ta luôn ở mức cao nhất trong khu vực và trên thế giới, bình
quân đạt 15,06% (GDP tăng bình quân 7,49%).
- Thực hiện được khối lượng đầu tư lớn, quy mô nguồn và lưới điện không ngừng được
mở rộng. Tính chung giai đoạn 1995 - 2008, Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã đầu tư trên
233 ngàn tỉ đồng cho xây dựng nguồn và lưới điện. Năm 1995, tổng công suất nguồn điện
cả nước mới chỉ có 4.550 MW, sản lượng 14,6 tỉ kWh, nhưng đến cuối năm 2008, công
suất nguồn điện đã đạt 15.763 MW (tăng 3,46 lần), điện năng sản xuất đạt 74,225 tỉ kWh
Page
11
(tăng 5,08 lần).
- Hiệu quả vận hành hệ thống điện được nâng cao, thể hiện qua tỷ lệ tổn thất điện năng
giảm từ 21,4% (năm 1995) xuống mức còn một con số 9,21% (năm 2008).
- Đầu tư điện cho nông thôn, vùng sâu, vùng xa có bước phát triển vượt bậc. Đến cuối
năm 2008, 100% số huyện, 97,24% số xã, 95,72% số hộ dân trên cả nước và 94,49% số
hộ dân ở nông thôn có điện. Từ đó, góp phần thay đổi căn bản diện mạo kinh tế và xã hội
ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, đóng góp to lớn trong công cuộc xóa đói, giảm
nghèo của Đảng và Nhà nước.
- Sản xuất kinh doanh có hiệu quả, cân bằng được tài chính, bảo toàn và phát triển vốn
trong khi vẫn bảo đảm là công cụ điều tiết vĩ mô và thực hiện chính sách an sinh xã hội
của Chính phủ. Lợi nhuận của Tập đoàn giai đoạn 1995 - 2008 đạt 31.975 tỉ đồng, thu
nộp ngân sách nhà nước đạt 38.134 tỉ đồng.
Tuy nhiên bên cạnh đó cũng xuất hiện dấu hiệu của sự “độc quyền không lành mạnh-
độc quyền tuyệt đối” của ngành điện. Cụ thể như sau:
Theo nhóm nghiên cứu CEPR (Trung tâm Nghiên cứu và chính sách) của Đại học
Quốc gia Hà Nội thì EVN chiếm 74% sản lượng điện sản xuất, chiếm 100% về truyền tải
và 94% về phân phối điện trên cả nước.
Sơ đồ:
Page
12
IPP: nhà máy điện độc lập EVN: 74%Nguồn
Truyền tải
Phân phối
EVN
EVN
Khách hàng
Sản lượng điện sản xuất theo nguồn
Nguồn
Sản lượng điện sản
xuất (triệu kWh)
Tổng điện phát và mua 52 050
Sản lượng điện của các nhà máy thuộc EVN 41183
Thuỷ điện 16 130
Nhiệt điện than 8 125
Nhiệt điện dầu (FO) 678
Tua bin khí (khí+dầu) 16 207
Diesel 43
Sản lượng điện của các IPP 10 867
Với tỷ trọng:
2.2 Bệnh độc quyền:
Độc quyền thì có nhiều biểu hiện nhưng ở đây Nhóm 4 xin nêu ra 4 “căn bệnh độc
quyền” chủ yếu nổi bật nhất của EVN đó là :
- Độc quyền ở khâu mua , bán và phân phối điện.
Page
13
- Thiếu trách nhiệm.
- Đưa đề án xin tăng giá điện trong khi chưa hoàn thành trách nhiệm.
- Thiếu minh bạch về số liệu thống kê.
2.2.1 Căn nguyên của “bệnh độc quyền”:
-Nguyên nhân sâu xa của tình trạng độc quyền điện, theo các chuyên gia kinh tế, chính là
sự xung đột về lợi ích đầu tư và hành lang pháp lý còn nhiều bất hợp lý. Điều trái khoáy
là Bộ Công thương vừa là chủ sở hữu EVN, vừa là cơ quan phê duyệt dự án. Còn EVN
thì lại độc quyền hầu hết các khâu còn lại như truyền tải, phân phối và bán lẻ.
- Do được Nhà nước giao cho độc quyền gần như tuyệt đối, chi phối hoàn toàn
ngành điện nên EVN dường như không phải lo đối phó với bất kỳ đối thủ cạnh tranh
cùng ngành nào. Chính điều đó có lẽ đã gây ra những hạn chế về quản lý cũng như hiệu
quả đầu tư, không tạo động lực cho việc phát triển sản xuất kinh doanh điện năng.
- Bên cạnh đó do ngành điện là ngành độc quyền tự nhiên , do vậy khi các cty
muốn đầu tư vào ngành này thì phải có nguồn vốn đầu tư mới rất lớn chủ yếu là đầu tư
vào cơ sở hạ tầng và mạng lưới phân phối điện .Chính vì thế mà nó đã tao ra rào cản cho
các cty khác đầu tư vào ngành này.
- Một phần cũng do tư duy quản lý của Nhà nước: chưa tạo ra sự cạnh tranh, vẫn
dung túng cho tình trạng độc quyền, cho phép tập đoàn phát triển ra các lĩnh vực khác mà
quên tập trung vào lĩnh vực kinh doanh cốt lõi của mình ( theo TS Nguyễn QuangA –
/>2.2.2 Biểu hiện của độc quyền:
a. Độc quyền trong khâu mua , bán và phân phối điện năng:
Tình trang cắt điện dường như đã trở thành căn bệnh kinh niên của ngành điện.
Trong thời gian gần đây, điện sinh hoạt vẫn bị cắt trên diện rộng từ khu vực thành thị đến
nông thôn, đặc biệt vào giờ cao điểm, hệ thống điện thiếu khoảng từ 800 – 1800MW.
Trước đây, tình trạng cắt điện này thường chỉ xảy ra vào đợt cao điểm nắng nóng. Vấn đề
này xảy ra đã ảnh hưởng rất lớn đến đời sống sinh hoạt của người dân lẫn việc sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp.
Biểu hiện độc quyền của EVN ở khâu bán và khâu phân phối điện năng:
- Về phương diện là người cung cấp điện cho nhân dân , độc quyền được thể hiện
ở chổ EVN đã nhiều lần cắt điện đột ngột mà không báo trước như vào ngày 7/8, Phòng
Thương mại và Công nghiệp Cần Thơ đã tổ chức một buổi tọa đàm với các doanh
nghiệp. Một con số được nêu ra: trong năm 2007 khu công nghiệp Trà Nóc chịu 275 lần
cắt điện đột xuất. Độc quyền làm cho khách hàng không có lựa chọn nào khác, vì nếu
Page
14
không muốn mua điện thì cũng chẳng thể mua ở nơi nào khác. Việc cúp điện không báo
trước này đã kéo theo một loạt hậu quả nghiêm trọng làm ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc
sống của người dân chẳng hạn như từ ngày 16-19/7, tại Đà Nẵng đã liên tục xảy ra cúp
điện trên diện rộng. Công việc sản xuất của hàng loạt doanh nghiệp gặp nhiều thiệt hại do
bị mất điện không được báo trước. Đáng bức xúc nhất là việc cắt điện không báo trước đã
khiến Công ty cấp nước Đà Nẵng bị động, không thể hoạt động liên tiếp nhiều ngày.
Không điện, không nước sinh hoạt, đời sống người dân đảo lộn, khốn đốn.Tại Khu công
nghiệp Đà Nẵng, hàng ngàn công nhân phải nghỉ việc hoặc rơi vào tình trạng có ngày
công mà không có ngày lương. Vì không có lịch cắt điện cụ thể nên họ cứ đến công ty,
không có điện thì… ngồi chờ hoặc quay về.
- Do là độc quyền nên EVN có quyền chi phối việc cung cấp điện cho người dân
điều đó dẫn đến tình trạng không công bằng trong việc cung cấp và ngưng cung cấp điện
cho người sử dụng do việc thiếu nợ tiền điện quá thời hạn với công ty . Một doanh nghiệp
ở tỉnh Đồng Nai đã nợ quá hạn tiền điện của công ty lên đến 85 tỷ đồng, nhưng vẫn
không hề bị cắt điện, trong khi đó nếu một hộ sử dụng điện bình thường khi không thanh
toán tiền điện đúng hạn sẽ được gửi giấy báo cắt điện và sau 10 ngày nhân viên ngành
điện sẽ đến và cắt điện sử dụng. Hộ muốn sử dụng lại điện thì phải đến nộp tiền phạt mới
được cung cấp lại dịch vụ. điều này được quy định rất rõ ràng trong Luật nhưng dường
như phải tuỳ trường hợp thì EVN mới đưa Luật ra thi hành.
Độc quyền ở khâu thu mua điện :
- Độc quyền không chỉ trong vai trò nhà cung cấp điện mà EVN còn thể hiện căn
bệnh ấy từ vị trí là một người đi mua điện từ các nhà máy điện .Hiện nay trên thị trường
chỉ có duy nhất một mình cty EVN là nhà thu mua và cung cấp điện cho người sử
dụng .Bên cạnh đó lại có nhiều nhà cung cấp điện đầu vào nên việc lựa chọn công ty đối
tác đều hoàn toàn phụ thuộc vào EVN. Do đó mà độc quyền ở khâu thu mua xảy ra là
một điều hiển nhiên. Không chỉ chi phối thị trường thu mua mà EVN còn chi phối đến
việc sản xuất của chính cty đối tác của mình .
- Chẳng hạn như Tập Đoàn Dầu Khí quốc Gia ( PetroVietnam)- là chủ đầu tư cho
nhà máy điện Cà Mau 1 và 2 , cho biết dù đang trong tình trạng thiếu điện như vào tháng
8/08 vừa rồi nhưng EVN lại không mua hết sản lượng điện mà Nhiệt điện Cà Mau 1 cung
cấp cho dù khả năng mà tập đoàn này là rất cao như theo lời ông Phùng Đình Thực , Phó
Tổng Giám Đốc phụ trách công nghiệp khí cho biết “Tuy nguồn khí cung cấp cho Nhà
máy điện Cà Mau đủ để đạt công suất 720MW nhưng trong tháng 5/2008, EVN chỉ huy
động khoảng 450MW/ngày. Nhà máy chỉ chạy hết công suất trong 4 giờ cao điểm (từ 4
giờ chiều tới 8 giờ tối), các giờ còn lại chỉ huy động từ 300-400MW. Cụ thể, ngày 6/5 chỉ
huy động 10 triệu KWh, ngày 8/5 là 9,3 triệu KWh, trong khi chúng tôi có khả năng cung
cấp khí để sản xuất 15 triệu KWh “. Tháng 8-2008, Tập đoàn Dầu khí VN đã kêu trời vì
khi cao điểm EVN mua hết công suất, còn giờ thấp điểm EVN… không mua, nhà máy
đối mặt nguy cơ lỗ vì ế điện” .
- Bên cạnh đó EVN lại đi thu mua điện từ các nguồn bên ngoài cụ thể là từ Trung
Quốc cho dù giá lại đắt hơn của công ty cung cấp. Giải thích vấn đề này ông Phạm Lê
Page
15
Thanh, tổng giám đốc EVN lúc đó, cho rằng đây là hành động hợp lý của EVN, và vấn đề
giá điện mua ngoài từ Trung Quốc cao hơn là không hợp lý. Dẫn chứng cho vấn đề này
ông đã đưa các số liệu như sau : hiện nay giá mua điện bình quân từ Trung quốc là 4.5
cent/KWh , còn giá mua điện từ nhiệt điện Cà Mau 1 thì bình quân 6.5 cent/ KWh , riêng
tháng 2 thì tăng lên 8 cent/ KWh ( chưa kể các chi phí như truyền tải ,quản lý , thất thoát,
…). Trong khi đó giá bán trên thị trường bình quân chỉ khoảng 5 cent/kWh . Như vậy,
nếu tính cả truyền tải, thất thoát thì mua điện của Trung Quốc về bán coi như “huề vốn”,
còn mua điện của Cà Mau 1, mỗi năm EVN đã lỗ trên 3.000 tỷ đồng. Nếu đúng như vậy
thì việc EVN mua điện của Trung Quốc nhiều hơn là điều tất yếu. Theo ông Thanh, vì giá
các nhà máy của Dầu khí cao hơn nên khi thấp điểm EVN phải huy động điện từ hệ thống
của mình và mua ngoài từ Trung Quốc cho… tiết kiệm.
b. Độc quyền dẫn đến thiếu trách nhiệm:
Khoảng giữa tháng 9/2008, dư luận xôn xao vì EVN từ chối đầu tư 13 dự án điện
với lý do thiếu vốn. Lý do EVN đưa ra dường như không thuyết phục nhiều người. Bởi lẽ
ngay khi EVN “buông tay” với 13 dự án điện thì Tập đoàn dầu khí Việt Nam đã nhảy vào
cuộc. Không bàn đến khả năng thu xếp nguồn vốn của 2 tập đoàn này ai hơn ai, vấn đề
cần quan tâm là trách nhiệm của EVN. Việc tiếp nhận các dự án điện cho quốc gia không
chỉ đơn thuần là công việc kinh doanh mà nó là trách nhiệm của 1 tập đoàn Nhà nước
được giao độc quyền phụ trách cung cấp điện năng. Như Ông Nguyễn Đình Xuân” Tôi
không biết lí do thực sự của việc trả lại 13 dự án, nhưng về nguyên tắc họ phải giải trình
được điều đó. Nhiệm vụ nhà nước giao cho anh phát triển nguồn điện để có điện cho
nhân dân, cho sản xuất, cho phát triển kinh tế, chứ không phải quyền lợi mà anh trả.” Vì
vậy không thể vì chút khó khăn mà EVN “chối bỏ trách nhiệm”.
Vấn đề thiếu trách nhiệm này còn được EVN biểu hiện ở việc thường xuyên cắt
điện không báo trước, đổ lổi việc thiếu hụt điện cung cấp cho người tiêu dùng vì không
tiết kiệm .Chủ tịch HĐQT Tập Đoàn Điện Lực Việt Nam EVN Đào Văn Hưng trả lời với
báo chí: “Giá gas từ năm ngoái đến nay đã tăng lên gấp đôi. Những hộ nào chuyển sang
dùng điện để nấu nướng Chúng ta không thể nào chạy kịp do sự chuyển hướng tiêu
dùng như vậy. Ngày hôm nay, lạnh hoặc nóng người ta mua điều hoà lắp vào. Gia đình
dùng bóng đèn không đáng bao nhiêu điện nhưng nếu lắp điều hoà, bình nóng lạnh
lượng điện tiêu thụ lớn hơn rất nhiều, công suất tăng gấp đôi. Việt Nam có khoảng 18
triệu hộ gia đình như vậy. Lượng điện tiêu thụ tăng lên một con số rẩt lớn.”(Theo
Vietnamnet). Ngành điện đưa ra giải pháp là “vận động nhân dân tiết kiệm điện”.
Khuyến khích người dân tiết kiệm điện là việc làm đúng và rất cần thiết, nhưng
đặt trường hợp EVN là doanh nghiệp được Nhà nước giao độc quyền sản xuất và cung
cấp điện cho cả nước thì lý lẽ trên có lẽ chỉ có ngành điện chấp nhận được. Thay vì tự
kiểm điểm năng lực bản thân thì ngành điện lại đổ lỗi cho nhân dân – chính là những
khách hàng mua sản phẩm của mình. Nhu cầu của khách hàng tăng cao, ngành điện lại
than phiền. Phải chăng là một nghịch lý? Yếu kém của EVN chính là đã không thể dự
đoán được nhu cầu về điện của người dân. EVN cũng đã chối bỏ trách nhiệm của mình
cho những thiệt hại trong sinh hoạt và sản xuất kinh doanh của người tiêu dùng điện phải
Page
16
chịu do việc cắt điện thường xuyên gây ra. Thay vì làm tốt việc của mình thì ngành điện
lại chỉ chú tâm vào việc hô hào người dân tiết kiệm điện.
Một nguyên nhân khác dẫn đến tình trạng thiếu điện là do các dự án điện hoàn
thành chậm so với cam kết. EVN giải thích là do khó khăn trong việc huy động vốn, giải
phóng mặt bằng… mặc dù Nhà nước đã hết sức tạo điều kiện cho các dự án điện bằng
việc ra quyết định 797 (cho phép chỉ định tổng thầu xây lắp) và QĐ 1195 (cho hưởng các
cơ chế đặc thù về thủ tục chuẩn bị đầu tư, lựa chọn nhà thầu, nguồn vốn ). Báo cáo mới
nhất của EVN cho thấy, năm 2008, EVN có nguy cơ thiếu 9.046,55 tỉ đồng vốn vay và
trái phiếu. Câu hỏi đặt ra là EVN có đang thực sự thiếu vốn hay thiếu chuyên nghiệp
trong công tác quản lý và huy động vốn? Chính vì thế mà EVN gấp rút đưa đề án xin tăng
giá điện cho chính Phủ.
c. Gấp rút trình dự án xin tăng giá điện :
Giá điện người tiêu dùng VN hiện phải trả thuộc vào hàng cao nhất trên thế giới trong khi
thu nhập bình quân đầu người của chúng ta hiện nay chỉ vào khoảng 400 USD/năm, tức
vào hàng những nước có thu nhập đầu người thấp nhất thế giới. Ngành điện nêu lý do hết
sức hợp lý là vì nhu cầu phát triển kinh tế nên phải nâng cấp hệ thống điện và xây thêm
nhà máy điện, có nhu cầu rất lớn về vốn, và không có giải pháp nào hơn là nâng giá điện.
Báo Người Đại Biểu Nhân Dân số ra ngày 4-8-2003 viết: “Các nhà kinh tế quốc tế khẳng
định rằng giá bán điện ở VN cho các doanh nghiệp ở Hà Nội, TP.HCM (vào thời điểm
cuối tháng 12-2-2002) là 7 US cent/kWh, bằng những nơi cao nhất khu vực như
Singapore, Thượng Hải, trong khi đó giá ở Bangkok chỉ là 4 US xent, tại Manila 3,9 US
cent, tại Jakarta 2,7 US cent/kWh. Ngành điện hiện là ngành có thu nhập cao nhất trong
18 ngành kinh tế có thu nhập cao nhất: mức thu nhập bình quân 2.035.700
đồng/người/tháng.
Phải chăng ở đây có thói ngông nghênh của sự cậy thế độc quyền, thói quen chỉ biết lợi
ích cục bộ”. Nếu muốn có nguồn vốn để đầu tư thì ngành điện phải tính toán chi phí đầu
vào hợp lý, cắt giảm cho phí, hoặc phát hành trái phiếu để huy động vốn hoặc phải vay
tiền nhân dân và trả lãi suất cho khoản vay đó, chứ không thể làm một việc dễ dàng là
nâng giá điện vào khoản chênh lệch đó người dân phải gánh chịu.
Dư luận đã phản ứng mạnh mẽ trước đề xuất tăng giá điện lên trung bình 20 –
30% trong 2 năm 2009 – 2010 của ngành điện.
Bảng so sánh giá điện sinh hoạt bậc thang do EVN đề xuất:
Page
17
( Nguồn : />ContentID=901&CompanyID=413 )
Chuyên gia Nguyễn Trung từng đặt câu hỏi "liệu có quốc gia nào giống Việt Nam,
suốt ngày người dân phải đuổi theo giá? Can cớ của nó không gì khác chính là cơ chế độc
quyền".(theoVũDũng_ĐứcThành29/10/2008
( )
Trong một báo cáo gửi Văn phòng Quốc hội mới đây, Tập đoàn Điện lực VN
(EVN) cho biết giá điện bình quân trong những tháng đầu năm 2008 là 868,47 đồng/kWh
(tăng 13,99 đồng/kWh so với năm 2007, tăng 3,6 đồng/kWh so với kế hoạch năm 2008)
và cho rằng giá điện còn thấp như hiện nay không hấp dẫn các thành phần kinh tế tham
gia đầu tư công trình điện, không khuyến khích sử dụng điện tiết kiệm. Trong khi đó, nhu
cầu vốn đầu tư theo quy hoạch của ngành điện rất lớn.
Có ý kiến cho rằng ngành điện thiếu vốn để sản xuất điện nhưng lại có thể đem
tiền đầu tư vào các lĩnh vực khác như viễn thông…( đầu tư 3.000 tỷ đồng để phát triển
mạng thông tin di động CDMA ).
Page
18
Theo ông Vương Đình Huệ -Tổng KTNN Việt Nam thì mức tổn thất điện hiện nay
vẫn còn cao (10,56%), nếu giảm tỉ lệ tổn thất xuống còn 8% theo mục tiêu đến năm 2010
của Thủ tướng chính phủ thì mỗi năm EVN sẽ tiết kiệm được 1500 tỉ đồng”. Vấn đề này
rất quan trọng vì tỉ lệ tổn thất được tính vào giá thành bán điện, có nghĩa là người tiêu
dùng sẽ phải gánh chịu. Nếu có giải pháp khắc phục thì sẽ có lợi cho cả EVN và người
tiêu dùng điện.
Một ý kiến khác cho rằng: “Tăng giá điện có thể ảnh hưởng đến tốc độ tăng
trưởng kinh tế” – đây là kết luận của nhóm nghiên cứu CEPR (trung tâm nghiên cứu và
chính sách) của ĐHQG Hà Nội.
TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC TĂNG GIÁ ĐIỆN LÊN GDP
Phương án 1
Ðiện tiêu dùng: tăng 20%
GDP giảm:
0,04%
CPI tăng:
0,13%
Sản xuất: không tăng
Phương án 2
Ðiện tiêu dùng: tăng 20%
GDP giảm:
0,15%
CPI tăng:
0,73%
Sản xuất: tăng 10%
Phương án 3
Ðiện tiêu dùng: tăng 20%
GDP giảm:
0,16%
CPI tăng:
1,25%
Sản xuất: tăng 20%
( Nguồn: tuoitreonline Thứ 7, 25 tháng 10 năm 2008).
Page
19
Tuy nhiên nhóm nghiên cứu cũng không đưa ra ý kiến là có tăng hay không tăng
giá điện.
Trong phần trả lời chất vấn Quốc hội, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng cho biết,
với lợi nhuận 5%, là mức thấp với EVN. Với giá thành và giá bán hiện nay trong khi
ngân sách không bù lỗ mà bù chéo, bán cao bù cho bán thấp, ngành điện đang gặp nhiều
khó khăn. Và khả năng tăng giá điện là khó tránh khỏi.
Tăng giá điện là cần thiết vì giá điện thấp có thể khiến người dân sử dụng lãng phí
và các nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam sản xuất để xuất khẩu.
Hiện nay giá điện của nước ta thấp hơn một nước trong khu vực như theo báo Lao
động thì “Giá điện bán lẻ bình quân ở Việt Nam khoảng 3 cent/kWh, rẻ nhất khu vực:
Trung Quốc 8-9 cent/kWh, Campuchia 13 cent/kWh”. Vấn đề đặt ra là mức tăng theo đề
xuất của ngành điện là đã hợp lý hay chưa?
Trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Trần Viết Ngãi (chủ tịch Hiệp hội Năng lượng VN)
cho biết: “Giá điện chỉ nên tăng bình quân 10-15% là phù hợp với điều kiện kinh tế nước
ta hiện nay. Hơn nữa, nên tăng làm nhiều đợt, ví dụ tăng 15% có thể chia làm vài ba đợt,
chứ nếu cùng một lúc đòi tăng ngay 20%, thậm chí 30%, thì rất khó chấp nhận”.
Tuy nhiên, trong dài hạn, khi nguồn sản xuất điện (thuỷ điện, than…) không còn
dồi dào như ban đầu thì tăng giá là tất yếu. Người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cao hơn cho
chất lượng tốt hơn nhưng sẽ không chấp nhận tăng giá khi vẫn chịu cảnh cắt điện với lý
do “tiết kiệm chi phí”.
d. Độc quyền nên thiếu minh bạch:
Với người tiêu dùng, lợi nhuận, hiệu suất, cơ cấu giá thành, tổn thất điện năng, các
cơ chế bù chéo trong ngành điện đến nay vẫn là “ẩn số”.
TS. Nguyễn Quang A cho rằng muốn tăng giá điện phải xem xét lại tận gốc rễ của
vấn đề, bắt đầu từ việc hạch toán, kế toán của EVN xem lỗ lãi ra sao, thất thoát điện thế
nào. Việc EVN kêu thiếu vốn đầu tư, liên tục đề nghị tăng giá điện và phải bỏ 13 dự án,
trong khi đòi trích lập quỹ phúc lợi khen thưởng 1.002 tỉ đồng từ khoản 2.763 tỉ đồng
chênh lệch giá điện năm 2007 là không bình thường. Theo Luật Doanh nghiệp, các doanh
nghiệp chỉ được trích quỹ thưởng 5%, trong khi ngành điện kêu lỗ mà lại đòi trích đến
36%!
Ngày 20/10/2008, trả lời trước báo chí, ông Đinh Quang Trí – Phó TGĐ EVN
khẳng định: “từ năm 1995 đến nay, EVN chưa lỗ”, ông còn cho biết nếu không phải chịu
ảnh hưởng từ việc giá dầu tăng và phải mua điện ngoài với giá cao làm dội chi phí thì còn
lãi hơn. Việc xin trích 1002 tỉ đồng là để đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Việc
báo cáo lỗ của EVN là ở phần mua điện giá cao và bán với giá thấp, nhưng về tổng thể thì
không lỗ.
( theo SGGP online ngày 21/10/2008 />Page
20
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ GIẢI PHÁP:
3.1 Giải pháp
Hiện nay, EVN là tập đoàn độc quyền về điện. Trục truyền tải điện là độc quyền
tự nhiên ,cả bốn khâu gồm phát điện, truyền tải, phân phối điện và điều độ quốc gia đều
nằm trong tay của EVN, họ chưa có bất kỳ một đối tượng nào để cạnh tranh. Điều này
gây bất lợi lớn cho người tiêu dùng điện bởi EVN có trong tay những đăc quyền của “nhà
độc quyền”, vì vậy phải cần có giảm pháp nhằm phá thế độc quyền này. Sau đây là một
số giải pháp mà nhóm chúng tôi đề xuất nhằm phá thế độc quyền trên :
- Phá thế độc quyền trong phân phối điện năng.
- Giảm mạnh tỷ lệ của EVN, chia nhỏ EVN thành nhiều công ty, tổng công ty
độc lập cạnh tranh mua bán với nhau. Từng bước cổ phần hoá các nhà máy điện, chuyển
các nhà máy điện của EVN thành các nhà máy điện độc lập.
- Khâu điều độ quốc gia phải giao cho Cục Điều tiết điện lực của Bộ Công
thương trực tiếp làm. Cần nguồn nào, mua bán ở đâu , cơ quan này đều phải điều tiết
trên hệ thống điện của quốc gia.
- Nhà nước cần kiểm soát chặt chẽ, thường xuyên các hoạt động của ngành điện,
nhằm đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng, đảm bảo sự hấp dẫn đầu tư trong cũng như ngoài
nước
Chiến lược phát triển ngành điện đã chỉ rõ quan điểm phát triển ngành điện VN là:
“Từng bước hình thành thị trường điện lực cạnh tranh trong nước; đa dạng hóa phương
thức đầu tư và kinh doanh điện, khuyến khích nhiều thành phần kinh tế tham gia, không
biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp”.
Trên thực tế, bên cạnh việc thu hút đầu tư - để có đủ điện - chưa đạt mục tiêu đề ra, thì
mô hình tổ chức quản lý ngành điện theo cơ chế dọc do lịch sử để lại cũng đang cho thấy
nhiều bất cập, hạn chế sự phát triển và hình thành thị trường điện.
Thời gian qua, khâu phát điện đã được Nhà nước chủ trương xã hội hóa nhằm đa dạng
hóa các hình thức đầu tư. EVN chỉ đầu tư các công trình nguồn điện có công suất từ
100MW trở lên; đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa các đơn vị trực thuộc EVN, trong đó có
các nhà máy điện EVN không cần nắm giữ cổ phần chi phối, các công ty phân phối điện
năng phục vụ cho việc phát triển thị trường điện. Tuy nhiên, EVN vẫn độc quyền quản lý
khâu truyền tải và phần lớn khâu phân phối điện (bán lẻ điện đến người sử dụng).
Mô hình này trên thực tế cũng được EVN thừa nhận là dẫn đến nhiều hạn chế về quản lý
cũng như hiệu quả đầu tư, không thúc đẩy sự phát triển sản xuất kinh doanh điện năng.
Page
21
Giá bán điện được tính toán theo các chi phí trong nội bộ EVN, không đảm bảo tính công
khai, minh bạch, trong khi giá bán điện đến người sử dụng hiện vẫn do Chính phủ quy
định áp dụng thống nhất trong cả nước. Giá bán điện vẫn còn mang nặng tính “bù chéo”
giữa các nhóm khách hàng, bù giữa giá điện sản xuất và điện cho sinh hoạt; giữa hộ thu
nhập cao và hộ thu nhập thấp; chưa tách bạch rõ ràng chức năng kinh doanh và hoạt động
công ích của các công ty phân phối điện.
Từ cuối năm 2004, EVN đưa vào vận hành thử nghiệm thị trường giá điện nội bộ giữa
các nhà máy điện trực thuộc, chào giá trong nội bộ EVN. Nhưng thị trường điện nội bộ
đã “chết yểu” do tình trạng thiếu điện liên tục trên hệ thống điện, nên có những thời điểm
việc chào giá chỉ mang tính hình thức.
Theo Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Hữu Hào: Việc tái cơ cấu ngành điện là vấn đề
đang được đặt ra khá cấp thiết để giải bài toán thiếu điện, vì có thiết lập cơ chế tốt, giá
điện mới thực sự minh bạch, đủ hấp dẫn nhà đầu tư. Muốn thế phải thiết lập được cấu
trúc thị trường cạnh tranh để đảm bảo giá không bị chi phối bởi một DN độc quyền, có
quyền lợi ở nhiều khâu trong quá trình mua- bán điện.
Giải pháp mở cửa thị trường điện
Mở cửa thị trường điện chỉ còn là vấn đề thời gian. Thời gian qua, EVN, dẫu được Nhà
nước trao độc quyền trong kiểm soát nguồn cung và phân phối, vẫn không thể thay thế cơ
quan Nhà nước để quyết định mua điện với giá không đảm bảo kinh doanh. Nhiều động
thái cho thấy, Chính phủ đang tháo gỡ từng bước để lộ trình thực hiện thị trường điện
được khơi thông. Quan điểm nhất quán là sẽ không bao cấp về giá, kể cả giá điện, có cơ
chế tách riêng phần công ích trong giá điện để DN hoạt động hiệu quả.
Riêng đối với năng lượng, Chính phủ sẽ xây dựng chính sách giá hợp lý để việc sử dụng
năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, nhằm đảm bảo cân bằng cung- cầu về năng lượng, tạo
điều kiện để hình thành và phát triển thị trường NL cạnh tranh.
Để chuẩn bị cho quá trình này, bản thân EVN cũng đang cơ cấu lại các nhà máy điện
bằng việc bán bớt cổ phần cho các nhà đầu tư bên ngoài và ra công chúng; dự kiến thành
lập các TCty phát điện, đã thành lập TCty Truyền tải; 5 TCty phân phối điện năng. Về đề
án tái cơ cấu ngành điện, hiện Bộ Công Thương đã hoàn tất trình Thủ tướng Chính phủ.
Theo các chuyên gia kinh tế, để giải bài toán thiếu điện, việc tự do hóa thị trường là cần
thiết, từ đó sẽ tạo cơ hội cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia sản xuất, kinh
doanh để có đủ điện. Kinh nghiệm của nhiều nước đi trước VN thực hiện thị trường điện
cạnh tranh cũng cho thấy, đây là việc làm khó khăn và đầy rủi ro, nếu Chính phủ không
có quyết sách và định hướng đúng đắn sẽ dễ dẫn đến hệ lụy khan hiếm điện giả tạo do
các doanh nghiệp “bắt tay” nhau tạo ra, làm ảnh hưởng không nhỏ đến chính nền kinh tế.
Page
22
Với những giải pháp trên chúng tôi thiết nghĩ sẽ tạo ra một môi trường cạnh tranh
trong việc mua và bán điện tại ngành điện . Như vậy vừa có thể giải quyết triệt để vấn đề
thiếu điện như hiện nay vừa có thể phá được vị trí độc quyền của ngành điện trong
nước .Từ đó người dân cũng như các hộ kinh doanh có thể lựa chọn cty cung cấp điện
phù hợp với mức giá và chất lượng tốt hơn hiện nay.
*Chính phủ cần có nhiều biện pháp để tạo ra một “sân chơi” công bằng và một
môi trường pháp lí thông thoáng nhằm thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước ngoài
EVN tham gia vào thị trường điện nhằm phá vỡ thế độc quyền của EVN.
3.2 Kết luận:
Trong vấn đề này việc ai đúng, ai sai vẫn chưa ngã ngũ. Nhưng độc quyền điện
vẫn là một vấn đề cấp bách, nó vừa hạn chế năng suất cung cấp điện của các nhà máy,
vừa gây ra nhiếu vấn đề tiêu cực trong cuộc sống hằng ngày cũng như hợp tác phát triển
trong thời kì mở của hòa nhập toàn cầu của nước ta.
Page
23