Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Vấn đề trong luật dân sự 4 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.24 KB, 6 trang )


3. Ðặt tên

Tên ở Việt Nam đi sau họ và được sử dụng để xưng hô, cả trong
quan hệ xã giao hoặc gia đình, bè bạn, và cả theo nghĩa nghiêm
trang lẫn theo nghĩa thân mật3[3].
Nguyên tắc tự do đặt tên. Khác với họ (được đặt theo họ cha,
họ mẹ hoặc theo quyết định của cơ quan hộ tịch, trong trường
hợp khai sinh cho trẻ bị bỏ rơi và không có người nhận nuôi), tên

3[3] Ở phương Tây, tên dùng để xưng hô thân mật; còn họ dùng để xưng hô theo nghi thức, theo
phép lịch sự hoặc trong các quan hệ xã giao.
Có kiến cho rằng người Việt Nam dùng tên cả trong xưng hô trang trọng, bởi vì tên Việt Nam rất
đa dạng và có tác dụng phân biệt được cá nhân, trong khi họ lại không được đa dạng lắm. Ý kiến
này không tỏ ra thuyết phục, bởi Trung Quốc cũng có nhiều tên và không có nhiều họ như ở Việt
Nam, nhưng người Trung Quốc lại có thói quen dùng họ để xưng hô trang trọng như người
phưong Tây.
Trong tập quán giao tiếp hiện đại ở Việt Nam, việc xưng hô trang trọng đang dần dần được đặc
trưng bằng việc xướng cả họ và tên.
của cá nhân do người khai sinh cho cá nhân lựa chọn theo ý
mình. Tục lệ có can thiệp vào việc đặt tên, còn luật viết chưa có
quy định cụ thể ở điểm này. Thông thường, cá nhân được đặt tên
lựa chọn giữa các tên thông dụng (Hùng, Dũng, Minh, Hồng,
Tuyết, ). Những tên lạ cũng có thể được chấp nhận. Có những
tên rất buồn cười cũng được ghi nhận; nhưng, dù luật không
chính thức cấm, có vẻ như không thể đặt tên cho cá nhân bằng
những từ dùng để chưởi rủa hoặc bằng những từ thuộc nhóm
ngôn ngữ hạ cấp4[4].

Trên nguyên tắc, tên được đặt, trong khung cảnh của thực tiễn và
tập quán hộ tịch, phải là tên bằng tiếng Việt, đối với người được



4[4] Trước những yêu cầu đặt tên như thế, thì thường viên chức hộ tịch sẽ thuyết phục người đặt
tên thay đổi yêu cầu của mình. Nhưng nếu không thành công, thì ta chưa hình dung được thái độ
xử sự mà viên chức hộ tịch có thể lựa chọn trong khuôn khổ pháp luật.
khai sinh mang quốc tịch Việt Nam và thuộc dân tộc kinh. Người
thuộc dân tộc thiểu số hoặc người nước ngoài có thể mang tên
phù hợp với ngôn ngữ của dân tộc mình, của nước mình; nhưng
nếu chữ viết của ngôn ngữ đó không phải là chữ Latinh, thì tên
đó phải được phiên âm bằng chữ Latinh5[5]. Dẫu sao, không thể
coi là trái pháp luật hoặc trái đạo đức một nguyện vọng đặt tên
bằng tiếng nước ngoài cho người có quốc tịch Việt Nam, nhất là
trong điều kiện người được khai sinh có mang dòng máu của dân
tộc sử dụng ngôn ngữ có tên đó. Cá biệt, có trường hợp tên đọc
được theo tiếng Việt, nhưng lại không tuân theo các quy luật cấu
tạo từ ngữ tiếng Việt, không được ghi nhận trong từ điển tiếng
Việt, cũng không phải là tên có nguồn gốc từ ngôn ngữ của dân

5[5] Ví dụ, Hồ Dzếnh.
tộc ít người hoặc từ tiếng nước ngoài6[6]; những tên như vậy
cũng có thể được chấp nhận.

B. Thay đổi họ và tên

Thay đổi họ. Theo khoản 1 Ðiều 29 BLDS, việc thay đổi họ được
cho phép trong những trường hợp sau đây: 1 - Theo yêu cầu của
đương sự, mà việc sử dụng họ, tên đó gây nhầm lẫn, ảnh hưởng
đến tình cảm gia đình, đến danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp
của mình; 2 - Theo yêu cầu của cha, mẹ nuôi về việc thay đổi họ,
tên cho con nuôi hoặc khi người con nuôi thôi không làm con nuôi


6[6] Ví dụ, Phan Văn Din. Trong khá nhiều trường hợp, những tên như thế thường có nguồn gốc
từ sai lầm của viên chức hộ tịch trong việc ghi lại một tên mà thực ra rất bình thường: Phan Văn
Din có thể đúng ra là Phan Văn Diên, Diện,
và người này hoặc cha, mẹ đẻ yêu cầu lấy lại họ tên mà cha, mẹ
đẻ đã đặt; 3 - Theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc người con khi xác
định cha, mẹ cho con; 4 - Thay đổi họ cho con từ họ của cha
sang họ của mẹ hoặc ngược lại; 5 - Thay đổi họ, tên của người bị
lưu lạc từ nhỏ mà tìm ra nguồn gốc truyền thống của mình; 5 -
Các trường hợp khác do pháp luật quy định. Luật nói thêm rằng
việc thay đổi họ, tên cho người có đủ chín tuổi trở lên phải có sự
đồng ý của người đó. Ta có nhận xét:

- Việc thay đổi họ, trong luật Việt Nam, chỉ được thực hiện
trên cơ sở có yêu cầu của những người có liên quan chứ
không bao giờ là hệ quả đương nhiên của một giao dịch
hoặc một sự kiện pháp lý (ví dụ, nhận con nuôi).
- Trường hợp thứ nhất ghi trên, theo tập quán, chỉ được áp
dụng đối với việc thay đổi tên: “họ” trước hết là một giá trị
tinh thần, giá trị đạo đức; thay đổi họ với lý do rằng mang
một họ nào đó, thì sẽ bị mất danh dự là một thái độ phủ
nhận nguồn gốc và bị coi như phi đạo đức.
- Việc thay đổi họ của người dưới 18 tuổi được thực hiện
theo đơn yêu cầu của cha, mẹ (Nghị định số 83-CP ngày
10/10/1998 Điều 53 khoản 2). Đối với người từ đủ 9 tuổi
trở lên, thì phải có sự đồng ý của người đó (cùng điều
luật).

Thay đổi tên. Việc thay đổi tên được cho phép trong những
trường hợp tương tự như đối với việc thay đổi họ. Việc thay đổi

×