Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Giao nhạc, nhạc dùng trong lễ Tế giao doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (617.5 KB, 14 trang )

GIAO NHẠC – NHẠC DÙNG TRONG LỄ TẾ GIAO
VÀI NÉT VỀ LỄ TẾ GIAO
1
Vĩnh Phúc

Tế Giao là lễ tế Trời Đất của các bậc Thiên tử (con Trời) lấy nghĩa
vua, nhân danh muôn dân trăm họ tạ ơn Trời Đất và cầu xin ban hạnh phúc,
an bình và thịnh vượng. Biện giải ý nghĩa của Tế Giao, kinh Lễ chép: “ Vua
thành mới hay tế đức Thượng đế, con thảo mới hay tế cha mẹ Tế Giao để
trả ơn trời, muôn vật sinh ra bởi trời, người ta sinh ra bởi tổ”.
2
Một học giả
Pháp, ông R. Orband nhận xét trong loạt bài khảo cứu lễ Tế Giao của triều
đình Huế năm 1915: “như sự tin tưởng thiên quyền là phần tối cao, tối tinh
khiết trong toàn bộ tín ngưỡng của người An-nam, thì cũng vậy, tế Nam
Giao, sự biểu hiện trọng thể của lòng tin ấy, là hành vi tối cao của tế lễ An-
nam”.
3

Tế Giao có từ thời thượng cổ ở Trung Hoa, truyền sang Việt Nam tờ
thời vua Lý Anh Tông (1138-1175). Các triều đại phong kiến Việt Nam rất
coi trọng lễ Tế Giao. Trời, theo quan niệm phương Đông là đấng chí tôn, giữ
gìn vận mệnh và ban phát thái bình hạnh phúc cho muôn dân, nên khi tế
Trời, đấng Thiên tử phải giữ vị trí trung gian nối kết giữa Trời - Đất và Con
người với vai trò chủ tế. Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, có những ông
vua không “chính danh” mà làm chủ tế lễ Tế Giao đã bị đời sau phê phán,
như sự việc Hồ Hán Thương tế Giao không thành năm 1402, qua lời bàn của
sử gia Ngô Thì Sĩ (1726-1780): “ Cái gian tà cướp ngôi của Hán Thương
sao có thể thờ được Thượng đế Từ xưa bọn loạn thần cướp nước, lấy lễ lớn
tế giao có nhiều, sính dùng âm thanh màu sắc để khoe cái đẹp thì thường
thường gặp phải tai biến bất ngờ, liền bãi bỏ không làm xong như Hán


Thương là nhiều đấy.”
4
Cũng như trường hợp cuối đời Cảnh Hưng (1740-
1786) “ Chúa Trịnh Sâm tranh vào nhiếp tế, năm ấy mất mùa, thóc cao gạo
kém, giặc cướp nổi lên khắp mọi nơi, nhân dân ta thán, đổ lỗi tại chúa Trịnh
vào chủ tê Giao nên trời giáng tai họa trách phạt”
5
Nếu như đàn Tế Giao đầu tiên của Việt Nam là đàn Viên Khâu được
đắp ở phía Nam ngoài thành Thăng Long vào đầu thế kỷ XII thuộc đời Lý,
thì Giao đàn của triều đại phong kiến cuối cùng là đàn Nam Giao, được xây
1
Tham khảo đầy đủ hơn trong sách “Nhã nhạc triều Nguyễn” của tác giả. NXB Thuận Hóa, 2010
2
Dẫn theo Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề .Những đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam. (Sđd)
3
Tập san Những người bạn Cố đô Huế. Tập II-1915. Nxb Thuận Hóa, Huế 1997. Tr. 72
4
Đại Việt sử ký tiền biên. Sách đã dẫn, tr. 513
5
Theo Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề. Sách đã dẫn, tr. 18
1
dựng phía Nam kinh thành Huế vào năm Bính Dần, niên hiệu Gia Long thứ
5 (1806)
6
thuộc triều đại nhà Nguyễn. Đàn có 3 tầng: Tầng trên là Đàn
thượng, hình tròn (viên đàn); tầng thứ hai là Đàn trung, hình vuông (phương
đàn); tầng dưới cùng là Đàn hạ. Ban đầu, 1 hoặc 2 năm tế một lần, đến năm
1890, vua Thành Thái định lại 3 năm một lần, tế vào ngày Tân.
Lễ Tế Giao dưới triều Nguyễn được cử hành rất trang nghiêm, trọng
thể với đầy đủ các nghi thức, lễ thức quy định của một cuộc tế lễ lớn của

triều đình. Đào Duy Anh, tác giả Việt Nam Văn hóa Sử cương đã tóm tắt
trình thức cuộc lễ tế Giao như sau: “ Rửa tay (quán tẩy), dâng trầm (thượng
hương), dâng tơ lụa (hiến ngọc bạch), dâng đồ cúng (hiến phẩm nghi), dâng
rượu (tiến tửu), đọc chúc (tuyên chúc), chia đồ cúng (phân hiến), chia thịt
cúng (trí phúc tộ). Trong khi hành lễ, phải đốt một con trâu cúng trên Tế đàn
gọi là “phần sài”. Khi con trâu cháy gần hết thì các quan nội tán xưng “lễ
tất”, rồi vua lên kiệu trở về hoàng cung. Nghi trượng lúc về cũng long trọng
như lúc đi, chỉ khác là khi đi thì yên tĩnh mà khi về thì có cử nhạc”.
7
Một số
sử sách, tài liệu đã mô tả về lễ Tế Giao trong thời kỳ này rất đầy đủ và chi
tiết, như sách Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sử Lệ (phần Nhạc chương,
Nhạc khí)
8
; Đại Nam Thực Lục ; Tập san Những Người Bạn Cố Đô Huế
9
;
Âm nhạc Truyền thống Việt Nam của Trần Văn Khê ; Lược sử Âm nhạc Việt
Nam của Thụy Loan và Những Đại Lễ và Vũ Khúc của Vua Chúa Việt Nam
của Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề v.v đã cho chúng ta những nét khái
quát về âm nhạc sử dụng trong tế Giao (Giao nhạc).
Qua khảo sát các sử liệu, tài liệu trên, chúng tôi tạm tách Giao nhạc
làm 3 bộ phận sau, biết rằng, chúng là một thể thống nhất, như mối quan hệ
khăng khít đặc trưng giữa chúng với phần Lễ vậy.
1. DÀN NHẠC TRONG GIAO NHẠC
Theo các tư liệu lịch sử, chúng ta biết được trong lễ Tế Giao qua các
đời vua Nguyễn có sự tham gia diễn tấu của các dàn nhạc có tên gọi như :
Nhã nhạc, Nhạc huyền, Đại nhạc, Ti trúc tế nhạc, Ty chung, Ty khánh, Ty kỳ
cổ, Tiểu nhạc v.v Những dàn nhạc này được kê trong các trình thức của lễ
tế Giao, và có sự quy định vị trí cho từng loại dàn nhạc ở Đàn thượng (viên

đàn), Đàn trung (phương đàn) hay Đàn hạ, tùy theo chức năng của mỗi loại
dàn nhạc sử dụng trong tiến trình Lễ. Ở mỗi lễ thức, các dàn nhạc diễn tấu
dưới sự điều khiển hiệu lệnh của quan Thông tán.
6
L.Cadière : Tài liệu lịch sử về đàn Nam Giao. Những Người Bạn Cố Đô Huế, tâp 1-1914, tr. 97
7
Đào Duy Anh. Việt Nam Văn hóa Sử cương.Nxb Đồng Tháp, 1998,tr. 248.
8
Nhà Xuất Bản Thuận Hóa, Huế, 1996, các quyển 96, 97, 98, 99.
9
Nhà Xuất Bản Thuận Hóa, Huế, 1997. Tập 1-1914 và Tập 2 -1915.
2
Các nhạc cụ: Biên khánh, Chúc, Đặc khánh, dàn nghi trượng, và Đại cổ (trống lớn có
mái che) trong tế Nam Giao năm 1939.
Căn cứ Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ, Gs. Trần Văn Khê cho
biết trong lúc tế lễ dàn nhạc tấu nhạc theo các ca chương do các ca sinh diễn
xướng. Tuy vậy, đọc các bài mô tả chi tiết lễ Tế Giao của Đỗ Bằng Đoàn -
Đỗ Trọng Huề cũng như của L. Cadière,
10
chúng ta thấy, rất nhiều bước
trong các lễ thức, lúc chỉ riêng dàn nhạc tấu, thì không rõ là tấu những bài
bản nào.
Vấn đề tên gọi các dàn nhạc, riêng Cadière, (qua bản dịch của Đặng
Như Tùng, Bửu Ý hiệu đính), chỉ thấy có 2 tên dàn nhạc được xướng trong
từng bước lễ là: nhạc lễ cử và đại nhạc cử Trong khi đó, 2 tác giả của
Những Đại lễ và Vũ khúc của Vua chúa Việt Nam thì mô tả, giới thiệu khá
chi tiết các loại dàn nhạc và cả số lượng nhạc cụ, như Nhạc huyền, Nhã
nhạc, Đại nhạc, Ty chung, Ty khánh, lại có cả Phường Bát âm Tuy vậy,
trong trình thức chi tiết các bước lễ, cũng chỉ nghe tên 2 loại dàn nhạc do
quan Thông tán xướng : Bát âm nổi nhạc và Đại nhạc tác. Vì vậy, chúng ta

không thể biết Bát âm ở đây là dàn Nhạc huyền, dàn Nhã nhạc hay là
Phường Bát âm nêu trên ?
Theo chúng tôi, có thể tác giả dùng tên gọi Bát âm để chỉ Nhạc lễ
chính, là dàn Nhã nhạc biên chế 20 nhạc cụ với 12 chủng loại mà tác giả đã
mô tả trước đó. Dàn nhạc này gần với dàn Nhã nhạc có cơ chế Bát âm mà
Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ mô tả và gọi là chính nhạc, đời xưa dùng
tế giao miếu. Hơn nữa, trong quá trình mô tả lễ tế Giao 2 tác giả Đỗ Bằng
Đoàn và Đỗ Trọng Huề đa giới thiệu 3 dàn nhạc được gọi là Nhã nhạc
nhưng có biên chế khác nhau, trong đó có một dàn, tác giả chú là bát âm:
- Dàn Nhã nhạc đặt ở Viên đàn : Gồm 20 nhạc cụ, 12 chủng loại đã
nói ở trên.(tr. 20, sách đã dẫn)
10
L. Cadière : Tế Nam Giao - Nghi lễ tế. Những người bạn Cố Đô Huế, Sđd tr. 99.
3
- Dàn Nhã nhạc đặt ở Phương đàn : “Hai bên Đông và Tây đặt Nhã
nhạc (bát âm) hai bộ, mỗi bộ 8 nhạc sinh thự Hòa thanh (?) điều khiển (tr.
21, Sđd)
- Dàn nhạc đi trong đám rước đến đàn Nam Giao, ở vị trí Trung đạo :
“ sau nữa là các quan võ. Đến ban Nhã nhạc, có đàn, sáo, hồ, nhị, phách
và sênh tiền.” (tr. 24, Sđd)
Lễ Tế Giao triều Nguyễn được mô tả trong sách Những Đại lễ và Vũ
khúc của các Vua Chúa Việt Nam, mặc dù không cho biết thời gian, dưới đời
vua nào. Nhưng căn cứ vào các giai đoạn lễ, trình tự các ca chương diễn
xướng trong các lễ thức, chúng ta có thể đoán định là sự tổng hợp nhiều
cuộc tế Giao, nhưng chắc chắn phần nhiều là cuộc tế Nam Giao năm Duy
Tân thứ 9 (1915), cuộc tế Giao mà nhóm nghiên cứu R. Orband, L. Cadière
đã mô tả khá đầy đủ, chi tiết trong Những Người Bạn Cố Đô Huế, tập 2 -
1915. Dù rằng, về âm nhạc thì chưa được chú trọng nhiều, các loại nhạc cụ
chưa nêu cụ thể, mà chỉ gọi tên nhạc lễ một cách chung chung (trừ tên gọi
dàn Đại nhạc). Tuy nhiên, trong lễ thức Nghinh Thần, đến đoạn tấu An

thành chi chương, thì những dòng sau: “Lúc đầu đánh ba tiếng chuông, tiếp
đến là các loại nhạc cụ đàn dây, sáo, và các dãy chuông rung (lục lạc). Hát
xong ca khúc họ rung ba lần ngữ 3 lần biên khánh. Bắt đầu từ đây họ hát
các ca khúc và họ đệm các loại nhạc cụ, lúc ngừng, lúc trở lại theo điều
khiển”
11
đã cho chúng ta những thông tin quý báu về cách thức diễn tấu,
chức năng của dàn nhạc. Cũng như, từ thông tin này ta có thể xác định dàn
nhạc mà các tác giả gọi là Nhạc lễ, ( và kể cả dàn nhạc Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ
Trọng Huề gọi là Bát âm) chính là cơ cấu Bộ Nhã nhạc được mô tả trong
sách Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ của Nội các triều Nguyễn.
12
(hoặc ít
ra, cũng là dàn Nhạc huyền + dàn Nhã nhạc mà hai ông Đỗ Bằng Đoàn - Đỗ
Trọng Huề cho biết là đặt ở Viên đàn (tr. 20).
Các loại dàn nhạc tham gia diễn tấu trong lễ Tế Giao qua các đời vua
triều Nguyễn, có một số thay đổi không đáng kể về tên gọi, tăng giảm một
số chủng loại nhạc cụ trong dàn nhạc, trong một số lễ thức và cũng có thể,
một số vấn đề, do nhầm lẫn, hoặc do cách gọi của người xưa không chính
xác, người đời sau suy diễn sai lạc đi v.v thì những nguyên tắc, quy định có
tính chuẩn mực của Nhã nhạc (nhạc lễ - chúng tôi đã đề cập ở trước), vẫn
quán xuyến trong thể chế của thể loại nhạc lễ triều Nguyễn nói chung và
Giao nhạc nói riêng. Ít nhất, thì chúng ta cũng thấy các nguyên tắc đó được
biểu hiện bằng cơ chế của 2 loại dàn nhạc mang tính chất khác nhau, nếu
không muốn nói là đối lập, đảm trách trong các lễ thức tế Giao. Đó là dàn
11
Những Người Bạn Cố Đô Huế. Sách đã dẫn, tr. 105
12
Quyển 99, phần Nhạc chương, Nhạc khí, (Cần phân biệt với tập VII, tr. 113, 114 cũng giới thiệu một dàn
Nhã nhạc nhưng có biên chế nhỏ hơn nhiều).

4
Nhã nhạc với dàn Đại nhạc.
13
(về sau là Tiểu nhạc và Đại nhạc). Hai dàn
nhạc này được quy định : “Khi tế dùng Nhạc huyền và Nhã nhạc, chỉ có lúc
xướng phần sài, vọng liệu và vua thăng đàn, giáng đàn mới dùng Đại
nhạc”.
14
Do đó, các dàn nhạc đặt ở Giao đàn, cũng được sắp xếp theo các vị
trí phù hợp với các lễ thức sẽ diễn ra :
Ở Đàn thượng: Dàn Nhã nhạc (trong đó gồm cả bộ Nhạc huyền).
Ở Đàn trung: Dàn Nhã nhạc.
Ở Đàn hạ: Dàn Đại nhạc.
Trong tài liệu Sơ lược Âm nhạc Truyền thống Việt Nam của
mình,
15
Gs. Trần Văn Khê căn cứ vào Đại Nam hội điển sử lệ nói là từ năm
1828 trở đi, dàn cổ xúy đại nhạc không tấu nhạc trong hai lễ Phần sài và
Vọng liệu nữa. Nhưng trong sách của Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề, phần
tiến trình lễ Tế Giao, mà chúng tôi xác định là cuộc tế Giao năm 1915, thì
Đại nhạc vẫn tấu trong các lễ thức trên. Ngay trong tiến trình nghi lễ Tế
Giao ngày 31 tháng 3 năm 1915, do L. Cadière tường thuật,ghi chép. Đại
nhạc vẫn đảm trách tấu ở Phần sài, Vọng liệu, vua thăng đàn, giáng đàn, kể
cả trong giai đoạn lễ thành. Tuy nhiên, cả những tài liệu trên đều không cho
biết Đại nhạc tấu những bài bản gì. Cố nhiên là không phải tấu theo các bài
nhạc chương như dàn Nhã nhạc.
2. NHẠC CHƯƠNG TRONG GIAO NHẠC
2.1. NHẠC CHƯƠNG
Khâm Định Đại Nam Hội điển Sử lệ gọi những khúc hát quy định
trong các loại nhạc lễ cung đình là Nhạc chương. Mặc dù có nhạc cụ dàn

Nhã nhạc tấu theo, nhưng thực chất, đây là thể nhạc Hát, dàn nhạc chỉ giữ
vai trò
13
Theo quan điểm của chúng tôi, dàn Nhạc huyền chỉ là một bộ phận của dàn Nhã nhạc . Quan điểm này
sẽ làm rõ ở phần Các loại dàn nhạc cung đình Huế xưa và nay.
14
Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề. Sách đã dẫn, tr. 22
15
Bản dịch phần nhạc Cung đình trong sách La musique Vietnamienne traditionnelle cuả chính tác giả.
Kể cả PGs. Nguỹễn Thụy Loan trong Lược Sử Âm nhạc Việt Nam , Nxb Âm nhạc - 1993.
5
Biên chung, Ngữ, đàn Cầm, đặc chung (từ phải sang trái)
trong tế Nam Giao năm 1939. Ảnh TL TTBTDT Cố Đô Huế
Ban nhạc trong lễ Tế giao. TL
đệm, như ý kiến của ông Cadière trong lễ Tế Giao năm 1915. Vì vậy, một số
tài liêụ còn gọi là bài hát, ca khúc, hay ca chương Nhưng để nhấn mạnh về
chức năng, tính đặc thù thể loại,(cũng như không gian và phạm vi diễn
xướng duy nhất của chúng là các đại lễ cung đình), thì Nhạc chương thuộc
về một thể loại hát lễ thuần túy chốn triều đình - Nhã ca,
16
mà tính chất,
chức thể tựa như loại Tụng nhạc, một trong năm loại nhạc cung đình thời
Tây Chu ở Trung Hoa. Hoặc có thể, có giềng mối với lối Nhạc Phủ đời Hán,
Ngụy , được Lê Quý Đôn chú giải như sau : “quan nha có chức vụ chọn lấy
những bài thi ca cho phổ vào tiếng đàn tiếng sáo. Người đời sau gọi những
thi ca được quan chức trong Nhạc phủ chọn lấy bảo tồn là Nhạc phủ. Đầu
tiên Hán Vũ Đế định lễ nghi tế Giao và lập ra Nhạc phủ, cho Lý Diên Niên
làm Hiệp luật Đô úy. Nhạc phủ bắt đầu lập ra từ đấy”.
17


16
Lê Quý Đôn. Vân Đài Loại Ngữ. Sđd, Tập 2, quyển 6, tr. 139
17
Lê Quý Đôn : Vân Đài Loại Ngữ. Sđd, Tập 2, Quyển 5, tr. 124.
6
Tuy nhiên, đó là giềng mối xa, với Trung Hoa ; còn giềng mối gần,
vẫn có người cho rằng Nhạc chương gần với lối tán, tụng trong âm nhạc nhà
Phật. Mặc dù vậy, quan niệm nhạc cung đình Việt Nam phỏng theo Nhã
nhạc triều Minh bên Tàu, đã trở thành nếp trong mọi suy nghĩ về văn hóa
cung đình, nên nhiều người vẫn tỏ ra nghi ngờ nhận định này. Theo chúng
tôi biết, Âm nhạc Phật giáo không đơn giản chỉ là tụng, niệm như hiện nay .
Bằng những sử liệu về âm nhạc Phật giáo Việt Nam xuất phát từ nền nghệ
thuật Tiên Sơn, Lê Mạnh Thát cho chúng ta thấy lễ nhạc Phật giáo Việt Nam
thế kỷ thứ 5 đã có một thể chế nhạc lễ bao gồm “ca tán tụng vịnh”. Trong
đó, cũng có thể truy tìm mối quan hệ giữa Ca vịnh với Nhạc chương, Tán
tụng với Nhạc khí, và sự kết hợp : “Bối là một thứ lễ nhạc do phổ tán bằng
đồ ống đồ dây mà thành, còn nhạc thì do tấu bằng đồ kim đồ đá mà nên”.
18

Biên khánh tại Bảo tàng Mỹ thuật cung đình Huế
Nếu không muốn nói Nhạc chương là linh hồn của cuộc lễ, thì cũng
phải thừa nhận chúng là nơi chứa đựng và chuyển tải một phần nội dung chủ
yếu của từng lễ thức. Chúng ta đều biết rằng, âm nhạc cung đình chủ yếu để
phục vụ lễ lạc, triều nghi. Vì thế, bộ phận nhạc lễ là quan trọng nhất. Trong
7 loại nhạc lễ cung đình triều Nguyễn, thì hơn 5 loại đã là nhạc lễ nghi, mà
bản thân tên gọi của chúng đã bao hàm nội dung ý nghĩa, gắn liền với từng
cuộc lễ : như Giao nhạc là nhạc dùng trong lễ tế Nam Giao, Miếu nhạc là
nhạc dùng trong lễ Tế Miếu v.v Trong mỗi loại nhạc đều được quy định
một hệ thống Nhạc chương với bài bản riêng, mà nội dung của mỗi bài đều
phải ứng với nội dung của mỗi lễ thức được sắp xếp theo trình tự cuộc lễ.


2.2. NHẠC CHƯƠNG TRONG GIAO NHẠC
Trong Giao nhạc, Nhạc chương gồm một hệ thống 9 bài (nhã) ca, do
ca sinh và nhạc sinh diễn tấu trong 9 lễ thức khác nhau.
18
Lê Mạnh Thát : Lịch sử Âm nhạc Việt Nam , Sđd, tr. 295.
7
Hệ thống Nhạc chương của Giao nhạc được bộ Lễ quy định là Thành
chương, các chi chương
19
đều mang chữ Thành. Lễ tế Nam Giao dưới thời
vua Minh Mạng, 9 chi chương được diễn tấu trong 9 lễ thức sau :
1. Hiển thành chi chương, tấu trong lễ Phần Sài.
2. Cảnh thành chi chương,tấu trong lễ Thượng hương
3. An thành chi chương, tấu trong lễ Nghinh thần
4. Gia thành chi chương, tấu trong lễ Dâng ngọc, lụa
5. Mỹ thành chi chương, tấu trong lễ Sơ hiến
6. Thụy thành chi chương, tấu trong lễ Á hiến
7. Vĩnh thành chi chương, tấu trong lễ Chung hiến
8. Tuy thành chi chương, tấu trong lễ Tống thần
9. Hựu thành chi chương, tấu trong lễ Vọng liệu
Các chi chương qua các đời vua có thể có sự thay đổi một vài chi tiết
không đáng kể. Cho đến năm 1915, dưới đời vua Duy Tân thứ 9, hệ thống
Nhạc chương trong lễ Tế Giao cũng chỉ thay đổi như sau đây :
1. An thành chi chương, tấu trong lễ Nghinh thần
2. Triệu thành chi chương, tấu trong lễ Dâng ngọc,lụa
3. Tiến thành chi chương, tấu trong lễ Dâng thịt tế
4. Mỹ thành chi chương, tấu trong lễ Sơ hiến
5. Thụy thành chi chương, tấu trong lễ Á hiến
6. Vĩnh thành chi chương, tấu trong lễ Chung hiến

7. Doãn thành chi chương, tấu trong lễ Triệt soạn
8. Hi thành chi chương, tấu trong lễ Tống thần
9. Hựu thành chi chương, tấu trong lễ Vọng liệu
Khi lễ hoàn tất, vua từ đàn trung xuống trở về Trai cung, Đại nhạc cử
và ca sinh tấu khúc Khánh thành để tỏ sự vui mừng việc tế Trời đã hoàn
thành.
Như đã trình bày, Nhạc chương là một thành tố quan trọng trong các
Đại lễ cung đình triều Nguyễn. Nhạc và Lễ gắn bó như hình và bóng, không
những chuyển tải một phần nội dung chủ yếu của cuộc lễ, mà còn tạo ra nhịp
điệu cho tiến trình bởi sự phối hợp nhịp nhàng giữa các thành tố.
Nhạc lễ nói chung, Nhạc chương nói riêng, với chức thể đặc hữu, đã
gắn kết các thành tố cuộc lễ thành một tổng thể nguyên hợp mang tính sân
khấu hóa cao. L. Cadière, người chứng kiến lễ tế Nam Giao năm 1915 có ghi
chép về sự phối hợp giữa Nhạc chương với các động tác hành lễ của vua và
các thượng thư như sau : “Các đợt cúng bái của vua va các quan cúng tế
đều cử cùng với nhạc xướng : lời xướng đầu, một lạy ; lời xướng thứ hai,
19
Khi hành lễ, quan Thông tán thường xướng những chương khúc cụ thể là chi chương. Ví dụ:” Doãn
thành chi chương!” hoặc “Hàm hòa chi chương !” Vì vậy, khi gọi tên các bài cụ thể đó, chúng tôi chủ
trương dùng chữ Chi chương, hoặc đôi lúc là chương khúc.
8
đứng dậy ; lời xướng thứ ba, lạy xuống ; lời xướng thứ tư, đứng dậy và tiếp
tục như thế cho đến lời xướng thứ tám cùng với bốn lạy và bốn lần đứng
dậy. Các hướng dẫn lễ nghi đều có ghi trong sách lễ mà tôi được mượn”
Vì tính chất đặc biệt này, tác giả đã chú thích, nhắc lại nhiều lần trong bài
mô tả của mình, chẳng hạn ở giai đoạn khác của trình tự cuộc lễ : “Câu hát
đầu vua bước đến chỗ tế lễ; câu hát thứ hai : vua quỳ ; câu hát thứ ba : vua
cất thẻ ngọc vào trong áo ; câu hát thứ tư, năm, sáu : vua dâng lễ ngọc và
lụa ; câu hát thứ bảy : vua lấy thẻ ngọc ra và ba câu tiếp : người ta lại đặt
các hộp lên bàn thờ ; câu hát thứ mười một : vua lạy ; câu hát thứ mười

hai : vua đứng dậy”
20
Các chi chương tấu trong các lễ thức cũng không phải tùy tiện, mà do
bộ Lễ quy định. Lời ca của các chương khúc (chi chương) này phải phù hợp
với nội dung, ý nghĩa của mỗi lễ thức, được viết bằng chữ Hán theo thể thơ
Đường luật, mỗi câu gồm 4 chữ .
Trong một cuộc lễ, các thể thức hành lễ có thể lặp lại nhau, nhưng các
chương khúc thì mỗi lễ thức đều có một lời ca khác nhau và mỗi cuộc lễ có
khoảng 6 - 10 bài. Sách Khâm Định Đại Nam Hội điển Sử lệ có chép lại
toàn bộ hệ thống Nhạc chương với tổng số là 126 chi chương. Các chi
chương được đánh số và phân thành 3 nhóm nội dung : Nhóm 1 : 79 ; nhóm
2 : 22 ; nhóm 3 : 25. Toàn bộ hệ thống Nhạc chương 126 chi chương đặt
trong 10 tổ hợp chương mang 10 chữ sau : Hòa, Thành, Bình, Phong, Thọ,
Huy, Văn, Phúc, Hy, Khánh.
Giao nhạc được quy định diễn tấu tổ hợp chương có chữ Thành. Tuy
vậy, không phải chỉ gồm 9 chi chương tấu trong tế Giao đã nêu ở trước, mà
có đến 17 chi chương có tên gọi. Nếu kể thêm những chi chương trùng tên
nhưng khác nội dung thì phải lên đến 35 bài.( Chương mang chữ Hòa cũng
có tình trạng tương tự: 10 chi chương = 36 bài.) Sau đây là một chi chương
tấu trong lễ Á hiến, cuộc tế Nam Giao năm 1915 do Trần Gia Am dịch :
21

Chi chương THỤY THÀNH
Hữu dực kỳ lâm,
Ô hô bất hiển,
Túc túc cung từ,
Ung ung chấp điện.
Minh đức duy hinh,
Dao tràng tái hiến,
20

L. Cadière : Tế Nam Giao - Nghi lễ tế. B.A.V.H, tập 2-1915, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr. 106,108,112
21
Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề. Sđd , tr. 50 - 52 ; 65, 66
9
Ngọc bạch khổng gia,
Biển đậu hữu tiễn…
Dịch
Giáng lâm lẫm liệt,
Nhận thấy tỏ tường
Phụng thờ tôn kính,
Gìn giữ nghiêm trang.
Đức sáng rực rỡ,
Rượu dâng tuần hai,
Ngọc lụa tốt đẹp,
Mâm chén nơi nơi…
Một chi chương khác tấu trong lễ Tống thần (tiển thần linh):
Chi chương HY THÀNH
Đại báo ký thành
Phất hà hữu hỉ
Thần ngự dao hưng
Bách linh kỳ vệ…
Bản dịch của Trần Gia Am :
Báo trọn đức lớn,
Vui mừng khắp nơi,
Xe thần vừa duổi,
Bách linh theo ngài…
Tập san Những Người Bạn Cố Đô Huế (B.A.V.H) chép lại chi
chương này trong lễ tế Nam Giao năm 1915, có kèm theo chú thích, dẫn giải
như sau : (trước đó, phải dịch từ chữ Hán qua chữ Quốc ngữ, rồi từ chữ
Quốc ngữ dịch qua Pháp, nay lại từ tiếng Pháp dịch trở lại tiếng Việt. Vì

vậy, nội dung lời ca trên được diễn đạt bằng văn xuôi)
“Các hình thức đã làm xong, chúng ta rất vui mừng. Các vị thần lên
cao, trăm anh linh trí tuệ đưa tiễn cung kính !
Các vị thần để lại cho chung ta bằng sự bảo vệ uy quyền của các ngài
một nền thịnh vượng vĩnh viễn !”
“Bài tấu hi thành chương gồm tám câu. Cách lạy của vua theo nhịp
như : câu đầu : Vua lạy ; câu thứ hai : vua đứng dậy và tiếp như thế.”
22
Rất tiếc các sử liệu không để lại bản ký âm của Nhạc chương. Theo
Gs. Trần Văn Khê trong Sơ lược Âm nhạc Truyền thống Việt Nam cho biết
G. de Gironeourt chỉ ghi rằng trong lúc tế Nam giao, người ta nghe lập đi
22
L. Cadière : Tế Nam Giao-Nghi lễ tế. Sđd , tr. 121, 122
10
lập lại 3 nốt mi, xon, la, trên đó bài hát trở đi trở lại chậm rãi và nhấn mạnh
như một đoạn kết bài nghiêm của một cuộc tế lễ trang trọng. Các vấn đề về
nghệ thuật, tổ chức của thể ca hát này sử liệu hầu như không đề cập. Tổng
hợp các văn bản về việc xin trang cấp y phục chép trong Khâm Định Đại
Nam Hội điển Sử lệ, chúng tôi chỉ biết ngoài nhạc sinh, vũ sinh, thì ca sinh
chuyên thể hiện Nhạc lễ trong triều có khoảng 40 người.
Không như các loại nhạc cung đình khác, Nhạc chương với chức thể
đặc thù: về nội dung của lời ca ; lời bằng chữ Hán ; không độc lập về thể
thức, và có thể, âm điệu mang tính ngâm ngợi,tế tụng theo kiểu giai điệu hóa
lời thơ chỉ tồn tại bó hẹp trong một không gian diễn xướng duy nhất là tế lễ
triều đình, và hẹp hơn nữa là cúng tế dòng tộc, tổ tiên của nhà Vua Vì thế,
khi triều Nguyễn với ý thức hệ Tống Nho cùng với cơ tầng văn hóa của nó
bước vào giai đoạn suy thoái, âm nhạc cung đình ngày càng mất dần môi
trường diễn xướng, một số loại thể phù hợp với cơ chế dân gian thì được lưu
truyền, gìn giữ, còn Nhạc chương - một thể tài bác học 100% cung đình thì
sớm tàn lụi.

Được biết, năm 1960 chính quyền miền Nam cũ có tổ chức tế đàn
Nam Giao. Có 2 chi chương trong hệ thống Nhạc chương mang chữ Thành
được phục hồi với gần 40 ca sinh diễn xướng. Đến nay, chỉ hơn 40 năm,
nhưng ở Huế, chỉ còn một người trong số ca sinh ngày trước là ông La
Đăng, còn nhớ được 1 bài. Đó là chi chương Mỹ Thành được hát trong lễ Sơ
hiến của Tế Giao.
Theo Nguyễn Đình Sáng trong luận văn Đại học lí luận âm nhạc “
Khảo sát Nhạc Lễ cung đình Huế”, (người đã tiếp xúc với ông La Đăng và
ký âm lại bài Mỹ Thành) thì “âm nhạc của ca chương Mỹ Thành được xây
dựng trên một trục cố định theo công thức : Mỗi ca từ ứng với một ô nhịp và
phần luyến âm tùy theo lời ca để có thể điều chỉnh giai điệu cho phù
hợp toàn bộ ca chương có 16 câu nhạc (ứng với 16 câu thơ) nhưng thực ra
đều được phát triển trên 2 câu nhạc chính” (câu 1, 2).
Mỹ Thành là một chi chương tấu trong lễ Sơ hiến (lễ dâng rượu lần
thứ nhất), được đánh số 17 trong Khâm Định Đại Nam Hội điển Sử lệ. Toàn
văn lời ca bằng chữ Hán sau:
Trích: “Sinh, thuyền khổng bị
Chung cổ khanh tương
Quế nghị sở uẩn
Ngọc dã túc tương
Chước bỉ thuần chỉ
Tiến thử lệnh phương
11
Như tại kỳ thượng
Trạc trạc, dương dương…
Trong sách Những Đại lễ và Vũ khúc của Vua chúa Việt Nam, chương
này không chỉ 16 câu mà gồm 20 câu: sau câu thứ sáu là 2 câu “Phần sài
uất uất;Điện bích thương thương”; sau câu 12 là 2 câu “Hòa khí bàng đạt ;
Tự thiên giáng khang”.
3. MÚA VĂN - VÕ TRONG TẾ GIAO

Được biết, năm Minh Mạng nguyên niên (1820), múa Văn, múa Võ
được chỉnh đốn lại để múa trong các đại lễ như tế Giao, tế Miếu
Trong lễ tế Nam Giao dưới triều Nguyễn, múa Văn-Võ được múa
trong lễ Sơ hiến, Á hiến và Chung hiến (lễ cúng dâng rượu lần đầu, lần thứ
hai và lần cuối). Múa Văn -Võ được chia làm hai ban : ban Võ (võ vũ ban)
và ban Văn (văn vũ ban). Mỗi ban gồm 64 vũ sinh, lúc trình diễn xếp theo
đội hình 8 hàng nên điệu múa này có tên là Bát dật (8 hàng).
12
Bát dật trong Tế giao. TL TTBTDT Cố Đô Huế
Ban Võ múa trong lễ Sơ hiến. Đội hình 8 hàng “đứng ở phía Đông và
phía Tây dưới dàn nhạc, hai bên quay mặt vào nhau. Nghe xướng : “Sơ hiến
lễ”, quan Tư chung đánh 3 tiếng chuông, bát âm nổi nhạc, thì võ vũ sư phất
cờ Tinh dẫn võ vũ sinh 64 người, chia ra 8 hàng đứng hai bên tả hữu ngoài
thềm, quay mặt trở vào, theo điệu nhạc mà múa. Vũ sinh tay trái cầm cái
mộc (khiên) sơn son thiếp vàng, tay phải cầm cái búa lưỡi thiếp vàng, cán
sơn son vừa múa vừa hát. Múa xong, quan Tư khánh đánh 3 tiếng khánh, võ
vũ sư dẫn vũ sinh về chỗ cũ”.
23
Ban Văn múa trong lễ Á hiến và Chung hiến,
cũng triển khai đội hình 8 hàng như trên, nhưng văn vũ sư cầm cờ Mao; tay
trái văn vũ sinh thì cầm ống Thược ( sáo 7 lỗ), tay phải cầm lông đuôi trĩ
23
Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề. Sđd, tr. 446,447
13
(Sau này, thay lông trĩ bằng lông gà đính trên đầu chiếc gậy). Vũ sinh múa
Bát dật chỉ toàn nam giới.
Quan sát điệu múa Bát dật trong cuộc tế Nam Giao năm 1915, R.
Orband cũng cho biết : “ có 64 vũ công dân sự (Văn sanh) và 64 vũ công
quân sự (Võ sanh) các vũ công quân sự mặc áo xanh của các vị quan cấp
bậc thấp, ống tay chật và đội chiếc mũ phần trên như chiếc lưỡi cuốc. Giống

như người Trung Hoa, bên tay trái họ cầm một tấm chắn bằng gỗ (can) sơn
đỏ thiếp vàng không khắc chữ mà mang nhiều hình rồng và bên tay phải
cầm một loại rìu nhỏ (thích) bằng gỗ, cán dài sơn son Các vũ công dân sự
cũng mặc áo xanh của các vị quan cấp bậc thấp, ống tay rộng, dài và đội
mũ như những vị chủ lễ. Họ cầm ở tay trái một ống thược, loại sáo gỗ sơn
son có 7 lỗ và bên tay phải một vũ là một loại gậy ở đầu có sọ con vật thần
thoại thiên hinh trên có 3 lông gà” Ông còn cho biết thêm Võ sinh múa bài
Võ Thiện vương, còn Văn sinh múa bài Văn Thiên đức.
24
Ca hát - nhảy múa là một hình thái văn hóa tồn tại bằng phương thức
diễn và xướng, mang tính nguyên hợp. Không chỉ là đặc tính của dòng nhạc
dân gian, mà còn biểu hiện ở cả dòng nhạc cổ truyền bác học, cung đình ;
không chỉ đối với Việt Nam, mà hình thái này, cũng là một đặc điểm của âm
nhạc Đông Nam Á và cả Phương Đông nói chung.
Lễ, xét trên góc độ thiết chế văn hóa nhà nước phong kiến, không thể
tồn tại độc lập, mà phải nương nhờ nghệ thuật diễn xướng. Do đó, Lễ - Nhạc
là một tổng thể, và hành lễ thì đã bao hàm cả yếu tố trình diễn. Lễ Tế Giao
là một sân khấu lớn, mà trên đó, Giao nhạc là biểu hiện của Lễ. Các thành tố
của nó như Dàn nhạc, Nhạc chương, múa Văn-Võ là yếu tố vận động và
mang chức năng chuyển tải tinh thần của tế Giao và biểu hiện đầy đủ thể chế
của Nhã nhạc vậy. (Vĩnh Phúc-Học viện âm nhạc Huế)
V.P
24
R. Orband : Tế Nam Giao-Các điệu múa. B.A.V.H, 1915, tr. 135, 137
14

×