Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Giáo trình kiến thức dùng trong kinh doanh chứng khoán - Forum VCU (p5) doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.92 KB, 26 trang )

phiếu lệnh.
Sau khi kiểm tra, nếu lệnh mua bán của khách hàng đủ điều kiện giao dịch, nhân
viên môi giới kí vào phiếu lệnh và chuyển cho đại diện sàn để truyền lệnh vào SGD,
TTGDCK. Số tiền và chứng khoán kí quỹ chỉ bị phong tỏa cho đến hết phiên giao dịch.
Trường hợp khách hàng mở tài khoản lưu kí tại thành viên lưu kí không phải là thành
viên giao dịch, thành viên giao dịch và thành viên lưu kí phải kí hợp đồng thỏa thuận trách
nhiệm bảo đảm nguyên tắc thành viên giao dịch chịu trách nhiệm thực hiện lệnh giao dịch,
thành viên lưu kí chịu trách nhiệm kiểm tra tỉ lệ kí quỹ chứng khoán của khách hàng và
đảm bảo thanh toán cho khách hàng theo quy định pháp luật.
Trường hợp nhận lệnh giao dịch của khách hàng qua internet, qua điện thoại, qua fax,
công ty chứng khoán phải tuân thủ:
+ Luật Giao dịch điện tử và các văn bản hướng dẫn, đảm bảo có ghi nhận thời điểm
nhận lệnh;
+ Đối với lệnh nhận qua điện thoại, fax, công ty chứng khoán phải đảm bảo nguyên
tắc: xác nhận lại với khách hàng trước khi nhập lệnh vào hệ thống giao dịch, lưu giữ bằng
chứng chứng minh về việc đặt lệnh của khách hàng;
Lệnh giao dịch được coi như một đơn đặt hàng cố định của khách hàng đối với CTCK.
Vì vậy trách nhiệm, quyền hạn của mỗi bên phải được quy định rõ ràng và được các bên
tôn trọng chấp hành. Khi không nhập được lệnh của khách hàng vào hệ thống giao dịch do
lỗi của mình, công ty cần có biện pháp khắc phục thích hợp.
Bước 2: Truyền lệnh cho đại diện sàn
Mọi lệnh giao dịch chứng khoán niêm yết tại SGDCK, TTGDCK phải được truyền
qua trụ sở chính, hoặc chi nhánh CTCK trước khi nhập lệnh vào hệ thống giao dịch của
SGDCK.
Sau khi kiểm soát lại lệnh, nhân viên môi giới chuyển lệnh giao dịch của khách
hàng tới nhân viên môi giới của công ty tại SGDCK. Lệnh được chuyển tới đại diện tại sàn
theo các hình thức: đọc lệnh qua điện thoại (có gắn thiết bị ghi âm), hoặc truyền qua fax,
qua mạng máy tính. Lệnh phải được truyền ngay sau khi kiểm soát xong theo đúng thứ tự
đặt lệnh của khách hàng đầy đủ, chính xác. Sau khi nhận được lệnh, nhân viên môi giới của
công ty chuyển tới các nhà môi giới lập giá của SGD hoặc chuyển lệnh vào máy chủ của sở
để thực hiện việc so khớp lệnh.


Bước 3: Nhận kết quả giao dịch
Sau khi đấu giá hoặc khớp lệnh, trung tâm điện toán của SGD thực hiện việc cập
nhật dữ liệu của các giao dịch đã được thực hiện và thông báo ngay cho phòng môi giới
của CTCK. Thông thường việc thông báo này được thực hiện thông qua mạng vi tính của
sở theo mẫu quy định sẵn trong thời gian quy định.
Bước 4: Thông báo kết quả tới khách hàng
Kết thúc phiên giao dịch, nhân viên môi giới thông báo kết quả cho khách hàng căn
cứ vào kết quả khớp lệnh từ SGD, TTGDCK.








3.1.3.4 Quy trình thực hiện giao dịch của môi giới tại sàn giao dịch

Trung tâm khớp lệnh (gồm các nhà môi giới lập giá) tổng hợp các lệnh do các nhà
môi giới chuyển đến (bằng phiếu đăng kí giao dịch hay qua mạng vi tính) và tại từng thời
điểm ấn định sẽ thông báo dừng tiếp nhận và thực hiện khớp lệnh (đối với khớp lệnh định
kì), hoặc so khớp liên tục (đối với khớp lệnh liên tục) để xác định giá và các lệnh giao dịch
được thực hiện.
Bước 1: Nhận lệnh từ phòng môi giới
Nhân viên môi giới tại sàn nhận lệnh theo các hình thức:
- Nhận lệnh qua Fax: đối chiếu lệnh, chữ kí của nhân viên hiển thị trên bản Fax
phiếu lệnh với chữ kí mẫu của nhân viên môi giới.
- Nhận lệnh qua điện thoại: số gọi đến được hiển thị phải đúng số của công ty, và
Nhận lệnh từ phòng môi giới
Nhập lệnh vào hệ thống SGD, TTGDCK

In kết quả giao dịch trong phiên giao dịch
Thông báo kết quả giao dịch về nơi khớp lệnh
người gọi là nhân viên môi giới (ghi âm), nhắc lại lệnh để kiểm tra.
- Lệnh được truyền đến từ công ty qua mạng máy tính.
Bước 2: Nhập lệnh vào hệ thống SGD, TTGDCK
- Nhập lệnh vào hệ thống theo quy định (nhập lệnh theo đúng thứ tự lệnh đến trước
nhập trước, lệnh đến sau nhập sau; khi có lệnh đến phải lập tức nhập lệnh vào hệ thống
đảm bảo yêu cầu nhanh chóng, đầy đủ và chính xác.
- Thông báo ngay với SGD, TTGDCK nếu phát hiện sai sót, hoặc nhận được lệnh
sửa đồng thời thông báo cho phòng môi giới của công ty làm công văn xác nhận sai sót và
xin phép sửa lệnh. Nếu được chấp nhận, đại diện giao dịch tiến hành hủy lệnh có sai sót và
nhập thông tin trên phiếu lệnh gốc của khách hàng.
Đối với những sai sót không được phát hiện và xử lí kịp thời, công ty phải gặp gỡ
khách hàng để thương lượng tìm cách giải quyết: bồi thường, mua bán bổ sung số thiếu hụt
theo mức giá đã thực hiện, ưu đãi miễn giảm phí trong thời gian nhất định…
- Khi xử lí lệnh hủy, lệnh sửa đổi:
+ Căn cứ vào số hiệu lệnh, tìm chứng từ lệnh gốc,
+ Căn cứ số thứ tự lệnh nhập đã đánh dấu trên phiếu lệnh (bản Fax) tìm lại lệnh đã
nhập vào hệ thống,
+ Hủy/ sửa lệnh gốc theo phiếu lệnh mới. Đối với lệnh không hủy được thì thông
báo cho khách hàng. Đối với lệnh đã hủy: nhập số hiệu lệnh gốc của lệnh hủy vào hệ thống
để hủy lệnh và thông báo cho khách hàng.
Bước 3: In kết quả giao dịch trong phiên
Bước 4: Thông báo kết quả giao dịch về nơi khớp lệnh
Nhân viên môi giới tại sàn sau khi kiểm tra tính hợp lệ và xử lí các thông tin từ hệ
thống SGD, TTGDCK khi hệ thống khớp lệnh, sẽ chuyển thông tin về đặt lệnh và xử lí
thông tin về phòng môi giới.
3.1.3.5 Các giao dịch đặc biệt
● Giao dịch lô lẻ
Khối lượng cổ phiếu giao dịch < 10 CP chỉ được thực hiện theo hình thức giao dịch

thỏa thuận giữa khách hàng và CTCK. Quá trình mua bán này công ty không thu phí môi
giới của khách hàng và thanh toán bù trừ luôn cho khách hàng.
Quy trình giao dịch:
Bước 1: Tiếp nhận các yêu cầu của khách hàng muốn giao dịch lô lẻ.
Bước 2: Thương lượng giá cả với khách hàng.
Bước 3: Thực hiện việc mua bán bằng hợp đồng giao dịch lô lẻ có sự kí kết giữa hai
bên.
Bước 4: Thực hiện chuyển nhượng chứng khoán sau khi hợp đồng đã kí kết từ tài
khoản của khách hàng sang tài khoản tự doanh của công ty.
Bước 5: Thông báo kết quả giao dịch đã thực hiện cho khách hàng.
● Giao dịch lô lớn
Khối lượng cổ phiếu hoặc chứng chỉ QĐT giao dịch tối thiểu 10.000 (tại sàn HCM),
5000 cổ phiếu và 100 triệu đồng mệnh giá trái phiếu (tại sàn Hà Nội).
Quy trình giao dịch:
Bước 1: Nhận phiếu lệnh giao dịch thỏa thuận từ khách hàng,
Bước 2: Kiểm tra đối chiếu thông tin trên phiếu lệnh với các thông tin về số dư, mức
kí quỹ…
Bước 3: Trình trưởng phòng môi giới kiểm tra, kí duyệt.
Bước 4: Nhận lại phiếu lệnh từ trưởng phòng và truyền vào cho đại diện sàn,
Bước 5: Đại diện sàn nhập các thông tin (mã CK, khối lượng, giá chào mua/bán,
thông tin về khách hàng) vào hệ thống.
Bước 6: Thông báo các lệnh chào mua, chào bán của khách hàng trên màn hình máy
tính của sàn về trụ sở chính và chi nhánh để thông báo cho khách hàng.
3.1.3.6 Quy trình thanh toán
Cuối ngày giao dịch, trung tâm điện toán của sở giao dịch thực hiện việc tổng hợp
các giao dịch của từng thành viên môi giới thành bản danh mục các giao dịch trong ngày.
Bản danh mục này gồm các nội dung chính sau:
- Tên, mã hiệu thành viên môi giới
- Tên công ty chứng khoán và mã công ty
- Chứng khoán được giao dịch: chủng loại chứng khoán, mã CK mua, mã CK bán,

số lượng, giá giao dịch, tổng giá trị giao dịch, phí giao dịch.
Ngày T (hay T+0):
Nhân viên môi giới nhận được kết quả khớp lệnh từ SGD, TTGDCK và chuyển cho
nhân viên kế toán lưu kí. Nhân viên kế toán lưu kí tiến hành kiểm tra với toàn bộ phiếu
lệnh, kiểm tra tính chính xác của việc nhận và truyền lệnh của nhân viên môi giới và nhân
viên tại sàn. Sau đó NVLTLK chuyển các chứng khoán đã khớp lệnh, tiền của khách hàng
từ tài khoản chứng khoán, tiền giao dịch sang tài khoản chứng khoán, tiền chờ giao dịch.
Nếu có sai sót phải làm rõ nguyên nhân do nhân viên giao dịch tại sàn hay nhân viên môi
giới tại công ty để có biện pháp xử lí.
Sau khi kiểm tra và điều chỉnh sai sót nếu có, Trung tâm điện toán chuyển bản danh
mục giao dịch trong ngày tới các thành viên môi giới. Bản danh mục giao dịch trong ngày
là một phần cấu thành quan trọng trong nhật kí giao dịch của CTCK và là cơ sở pháp lí xác
nhận các giao dịch đã được thực hiện ngày (T+0).
Sao kê giao dịch
Để phục vụ việc quyết toán giao dịch, bên cạnh danh mục giao dịch trong ngày,
trung tâm điện toán của SGD lập bản sao kê giao dịch, bản sao kê là bản tổng hợp phân
loại các giao dịch theo loại giao dịch mua và bán: mã chứng khoán mua bán, đối tác mua
bán, khối lượng chứng khoán yêu cầu đối tác chuyển khoản, tổng số tiền cần thu chi cho
toàn bộ giao dịch trong ngày. Bản sao kê giao dịch được lập thành 2 liên và chuyển cho
nhân viên môi giới của CTCK ngày (T+0).
Danh mục các giao dịch không được thực hiện và các giao dịch chưa hoàn tất
Ngoài bản danh mục giao dịch trong ngày, cuối ngày giao dịch trung tâm điện toán
của SGD sẽ chuyển tới thành viên môi giới bản danh mục các giao dịch không được thực
hiện, đó là các giao giao dịch do thành viên môi giới đăng kí nhưng chưa có giao dịch đối
ứng (do ấn định giá hay khối lượng), hoặc các giao dịch không chấp hành các quy định
giao dịch của SGD đồng thời thông báo cho bộ phận giám sát thị trường để theo dõi. Danh
mục các giao dịch chưa hoàn tất bao gồm các giao dịch mà tổ chức môi giới lập giá chưa
công bố đối tác giao dịch trong trường hợp đối tác giao dịch đã thực hiện giao dịch vượt
quá hạn mức giá trị đựơc cấp (thông tin này do TTTTBT của SGD cung cấp).
Các bản danh mục nêu trên là nội dung Nhật kí giao dịch của các CTCK thành viên.

Trên cơ sở các bản “danh mục giao dịch trong ngày”, “bản sao kê giao dịch”, “danh mục
giao dịch không được thực hiện / chưa hoàn tất”, các CTCK thực hiện việc kiểm tra trách
nhiệm thực hiện lệnh của các thành viên của tổ chức mình (trách nhiệm đầy đủ, chính xác,
kịp thời).
Ngày T+1:
Tại ngày làm việc sau ngày giao dịch, CTCK phải chuyển bản sao kê danh mục bán
và mua (có xác nhận của công ty) tới trung tâm thanh toán bù trừ và LKCK nơi CTCK là
thành viên. Trên cơ sở bản sao kê này, TTTTBT & LKCK thực hiện việc bút toán đối lưu.
Trên tài khoản của tổ chức bán: ghi nợ tài khoản chứng khoán, ghi có tài khoản tiền. Trên
TK của tổ chức mua: ghi nợ tài khoản tiền, ghi có TK chứng khoán. Cuối ngày các chủ tài
khoản đều nhận được bản trích phụ lục tài khoản tiền và chứng khoán.
Ngày T+2:
Sau khi nhận được báo cáo bù trừ và thanh toán tiền từ TTLK & TTBT nhân viên kế
toán kiểm tra số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch tại SGD, TTGDCK để chuẩn bị thanh
toán vào ngày T+3. Nếu tài khoản của công ty không còn đủ tiền thì CTCK phải nhanh
chóng huy động tiền vào tài khoản trước thời gian quy định (ở VN hiện nay là trước 11h
ngày T+3. Nếu công ty không huy động được đủ tiền thì phải làm thủ tục để được sử dụng
Quỹ hỗ trợ thanh toán của TTLKCK. Nếu trong tài khoản của công ty không đủ chứng
khoán để thanh toán thì công ty phải chuyển chứng khoán từ tài khoản tự doanh hoặc
thương lượng với khách hàng.
Ngày T+3:
+ Thanh toán quyết toán với khách hàng
Thanh quyết toán với khách hàng là việc thanh toán giá trị giao dịch chứng khoán.
Giá trị giao dịch chứng khoán là giá mua (bán) chứng khoán được xác định theo giá giao
dịch chính thức khi khớp lệnh. Việc thanh toán được thực hiện theo phương thức chuyển
khoản. Đối với giao dịch mua CTCK thực hiện thu tiền bằng các phiếu ủy nhiệm chi trích
từ tài khoản của khách hàng sang tài khoản của CTCK. Đối với giao dịch bán: CTCK phải
thực hiện việc thu tiền cho khách hàng bằng cách chuyển tiền từ tài khoản của CTCK sang
tài khoản thanh toán của khách hàng.
Ngoài giá trị giao dịch, khách hàng có trách nhiệm trả lệ phí, phí giao dịch và phụ

phí cho CTCK (nếu có). Lệ phí là những chi phí được quy định cố định cho một giao dịch
(không phụ thuộc vào giá trị giao dịch).
Phí giao dịch bao gồm:
- Phí môi giới: do CTCK thỏa thuận với khách hàng trong khung phí do pháp luật
quy định theo từng loại chứng khoán. Phí này bao gồm: chi phí thanh toán chuyển khoản
tiền và chứng khoán lưu kí (ví dụ: đối với trái phiếu 0,15% giá trị giao dịch, cổ phiếu là
0,5%giá trị giao dịch).

Phí môi giới = Giá trị giao dịch x Tỉ lệ phí

- Phí môi giới lập giá: mức phí này do SGD quy định, công ty phải trả cho sở và thu
lại từ khách hàng, ví dụ đối với trái phiếu 0,75% giá trị giao dịch, cổ phiếu 0,8% giá trị
giao dịch.
+ Chuyển giao và chuyển nhượng quyền sở hữu
Về bản chất hoạt động mua bán chứng khoán được thực hiện theo phương thức phi
chứng từ, việc luân chuyển chứng khoán giao dịch được thực hiện thuần túy bằng các bút
toán bù trừ trên các tài khoản lưu kí. Quyền sở hữu chứng khoán có hiệu lực khi chứng
khoán được hạch toán vào tài khoản lưu kí và hết hiệu lực khi bị tách khỏi tài khoản này.
Do vậy ngay sau khi thực hiện các bút toán chuyển khoản lưu kí, các trung tâm lưu kí có
trách nhiệm chuyển giao ngay cho công ty lưu kí bản trích lục lưu kí chứng khoán khi có
sự thay đổi trạng thái tài khoản.
Ngày T+3 nhân viên kế toán lưu kí thực hiện chuyển tiền từ tài khoản tiền gửi của
công ty (tài khoản tự doanh) và tài khoản tiền gửi giao dịch của khách hàng (tài khoản môi
giới) vào tài khoản tiền gửi thanh toán bù trừ của công ty mở tại ngân hàng chỉ định thanh
toán; đồng thời hạch toán chuyển số chứng khoán phải thanh toán từ tài khoản tự doanh
của công ty và tài khoản chứng khoán giao dịch của khách hàng vào tài khoản thanh toán
bù trừ của thành viên lưu kí mở tại TTLKCK.
3.1.4. Hoạt động môi giới trên thị trường phi tập trung (OTC)
Trên thị trường OTC các công ty chứng khoán hoạt động với tư cách là công ty giao
dịch - môi giới, hoặc với tư cách trung gian của các nhà môi giới. Các chứng khoán trên thị

trường OTC được mua bán thông qua việc thỏa thuận giữ hai bên và giá chứng khoán cũng
được hình thành do sự thỏa thuận. Khối lượng mua bán các chứng khoán này thường thực
hiện theo lô có giá trị lớn.
Quy trình nghiệp vụ môi giới trên thị trường OTC:
Bước 1: Tìm kiếm khách hàng và thu thập thông tin
* Tìm kiếm khách hàng: là khâu quan trọng nhất trong hoạt động môi giới trên thị
trường OTC và được thực hiện bởi bộ phận chăm sóc khách hàng và bộ phận marketing.
Việc tìm kiếm khách hàng có thể được triển khai bằng nhiều cách khác nhau như dựa vào
khách hàng thường xuyên giao dịch với công ty, tìm kiếm trên các phương tiện thông tin
như báo chí, mạng internet… Thực tế cho thấy, để việc tìm kiếm khách hàng mang lại hiệu
quả, nhân viên OTC phải đi thực tế nhiều, tiếp cận nhanh chóng nguồn thông tin và nắm
bắt nhanh các nguồn thông tin được tiếp cận.
* Thu thập thông tin: nhân viên môi giới OTC phải thường xuyên cập nhật các
thông tin về giá các chứng khoán OTC hàng ngày để nhập vào hệ thống mạng máy tính của
công ty cho khách hàng của công ty tham khảo, liên tục cập nhật các thông tin về tình hình
hoạt động, tình hình tài chính của các tổ chức phát hành chứng khoán trên thị trường OTC
để nắm rõ các chứng khoán nhằm phục vụ cho khách hàng đồng thời tránh được những rủi
ro do thiếu thông tin gây ra.
Bước 2: kí kết hợp đồng mua bán với khách hàng
Sau quá trình tìm hiểu về các khách hàng có nhu cầu mua bán chứng khoán, nhân
viên môi giới sẽ kí kết với khách hàng hợp đồng mua bán chứng khoán OTC, hướng dẫn
khách hàng đặt cọc tiền mua bán chứng khoán và thực hiện hợp đồng.
Bước 3: Thương lượng để so khớp các lệnh mua bán
Sau khi kí hợp đồng, nếu chứng khoán khách hàng muốn mua hoặc bán mà công ty
không có, công ty phải tìm kiếm nguồn tương đương trong thời hạn hợp đồng. Dù lệnh
giao dịch của khách hàng là lệnh thị trường hay giới hạn…, CTCK có trách nhiệm nghiên
cứu để thực hiện lệnh tại mức giá tốt nhất, bằng cách liên lạc với các CTCK khác có nắm
giữ loại chứng khoán này thông qua hệ thống giao dịch của thị trường OTC để tìm các giá
yết phù hợp, sau đó thông báo cho khách hàng về việc thực hiện lệnh giao dịch. Nếu không
tìm được nguồn hàng phải thông báo với khách hàng vào ngày hết thời hạn của hợp đồng.

Bước 4: Chuyển nhượng chứng khoán
Sau khi khớp lệnh mua và bán nhân viên môi giới yêu cầu bên bán chứng khoán
chuyển giao các giấy tờ chuyển nhượng quyền sở hữu chứng khoán, yêu cầu bên mua
thanh toán đầy đủ các khoản tiền kí kết theo điều khoản của hợp đồng.
Bước 5: Thanh toán các khoản phí môi giới và dịch vụ, hoàn trả tiền đặt cọc nếu
vi phạm hợp đồng
Sau khi hoàn tất quá trình chuyển nhượng, nhân viên môi giới sẽ tính toán các
khoản phí phát sinh liên quan, nhưng thiệt hại xảy ra đối với khách hàng do công ty làm sai
các quy định của hợp đồng. Phí giao dịch phụ thuộc vào việc công ty chứng khoán là người
đại lí thực hiện lệnh cho khách hàng (phí hoa hồng) hay nhà tạo lập thị trường (chênh lệch
giá mua bán). Phí hoa hồng do CTCK quy định và phải công bố công khai cho khách hàng.
Đối với người bán chứng khoán: các khoản phí sẽ được khấu trừ vào tiền bán chứng khoán,
đối với bên mua sẽ yêu cầu khách hàng thanh toán phần còn thiếu vào tài khoản tiền đặt
cọc. Hoàn trả tiền đặt cọc cho khách hàng nếu không thực hiện được hợp đồng.
Bước 6: Lưu giữ hồ sơ và các giấy tờ liên quan để giải quyết tranh chấp phát sinh
nếu có.
3.2. Tự doanh chứng khoán
3.2.1. Khái niệm và mục đích của nghiệp vụ tự doanh chứng khoán
● Khái niệm tự doanh
Tự doanh là hoạt động tự mua bán chứng khoán cho mình để hưởng lợi nhuận từ
chênh lệch giá chứng khoán. Nói cách khác, tự doanh là hoạt động mua đi bán lại chứng
khoán nhằm thu chênh lệch giá (mua thấp, bán cao).
Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán được thực hiện ở SGD và thị trường
OTC. Tại SGD hoạt động mua bán này cũng được tiến hành như hoạt động của nhà đầu tư
thông thường. Trên thị trường OTC, hoạt động tự doanh có thể được thực hiện trực tuyến
giữa công ty với các đối tác, hoặc thông qua hệ thống giao dịch tự động, hoặc thông qua
hoạt động tạo thị trường.
Giao dịch tự doanh được thực hiẹn theo phương thức giao dịch trực tiếp hay gián
tiếp.
Giao dịch trực tiếp là giao dịch trao tay giữa khách hàng và công ty chứng khoán

theo giá thỏa thuận (giao dịch tại quầy). Các đối tác giao dịch tự tìm đầu mối, họ có thể là
cá nhân hay tổ chức. Thời gian giao dịch không quy định (có thể trong hoặc ngoài giờ hành
chính, ngày hoặc đêm…). Chứng khoán giao dịch rất đa dạng, phần lớn là các chứng khoán
chưa niêm yết hoặc mới phát hành. Các đối tác giao dịch thường trực tiếp thực hiện các thủ
tục thanh toán và chuyển giao. Vì vậy trong loại giao dịch này không có bất cứ một loại phí
nào. Thông thường, doanh số giao dịch trực tiếp lớn gấp bội lần doanh số giao dịch trên sở
(chiếm khoảng 80% - 90% doanh số giao dịch của thị trường). Các hoạt động giao dịch này
không chịu sự giảm sát của SGD nhưng chịu sự giám sát của thanh tra nhà nước về chứng
khoán.
Giao dịch gián tiếp là các giao dịch công ty thực hiện thông qua các nhà môi giới
lập giá, các chuyên gia chứng khóan trên thị trường, hoặc đặt lệnh mua bán giống như lệnh
mua bán của các nhà đầu tư khác. Do giao dịch qua SGD nên CTCK phải chịu các chi phí
môi giới lập giá, chi phí thanh toán bù trừ và lưu kí chứng khoán.
Tác dụng của hoạt động tự doanh: khối lượng tự doanh của CTCK tăng góp phần
làm tăng thêm tính sôi động và tính thanh khoản của thị trường chứng khoán.
Hạn chế của hoạt động tự doanh: khi các CTCKthực hiện các hoạt động bị cấm như
thao túng thị trường, thông đồng với nhau trong hoạt động mua bán làm thay đổi cung cầu
1 cách giả tạo để nâng giá hoặc giảm giá chứng khoán sẽ gây tổn hại đến nhà đầu tư, đặc
biệt là các nhà đầu tư nhỏ.
● Mục đích hoạt động tự doanh
CTCK triển khai hoạt động tự doanh nhằm thực hiện các mục đích sau:
- Tự doanh để thu chênh lệch giá cho chính mình.
CTCK là những tổ chức kinh doanh chứng khoán chuyên nghiệp. Với vai trò và vị
trí của mình họ có nhiều lợi thế về thông tin và khả năng phân tích, định giá chứng
khoán… Vì vậy, khi triển khai họat động tự doanh, khả năng sinh lợi từ hoạt động này của
họ sẽ cao hơn so với các nhà đầu tư khác. Tuy nhiên để đảm bảo sự ổn định và tính minh
bạch của thị trường, pháp luật các nước đều quy định các CTCK phải đáp ứng một số điều
kiện nhất định, như: điều kiện về vốn, về nguồn nhân lực, về cơ sở vật chất phục vụ cho
hoạt động tự doanh…
- Dự trữ để đám bảo khả năng cung ứng

Pháp luật kinh doanh chứng khoán ở một số nước có quy định, các công ty môi giới,
các chuyên gia chứng khoán và những nhà tạo lập thị trường có trách nhiệm đảm bảo tính
thanh khoản của thị trường. Điều này có nghĩa là, khi nhu cầu thị trường giảm sút mạnh, thị
trường có thể lâm vào tình trạng kém sôi động hoặc đóng băng đối với 1 hoặc một số loại
chứng khoán nhất định, những nhà tạo thị trường phải có trách nhiệm mua chứng khoán để
kích cầu, trường hợp ngược lại phải bán ra để tăng cung. Để hoàn thành các trọng trách này
các nhà tạo lập thị trường, các CTCK phải tính toán để xác định khối lượng các chứng
khoán cần mua để dự trữ nhằm bảo đảm khả năng cung ứng trong những trường hợp cần
thiết, đồng thời đảm bảo khả năng sinh lợi hợp lí từ những hoạt động này.
- Điều tiết thị trường
Khi giá chứng khoán biến động bất lợi cho tình hình hoạt động cung của thị trường,
các CTCK thực hiện các giao dịch mua bán nhằm ổn định thị trường theo yêu cầu can thiệp
của cơ quan quản lí và tự bảo vệ mình hay bảo vệ khách hàng. Tuy nhiên để làm được điều
này các công ty thường phải liên kết với nhau trong quá trình hoạt động thông qua các tổ
chức như: Hiệp hội chứng khoán.

3.2.2 Yêu cầu đối với hoạt động tự doanh
● Tách biệt quản lí
Khi CTCK đồng thời thực hiện 2 nghiệp vụ tự doanh và môi giới thì phải tổ chức
tách biệt 2 nghiệp vụ này để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong hoạt động. Sự tách
bạch này bao gồm cả yếu tố con người, vốn, tài sản và quy trình nghiệp vụ.
- Phải tổ chức các bộ phận kinh doanh riêng biệt. Các nhân viên tự doanh không
được thực hiện nghiệp vụ môi giới và ngược lại. Ở Thái Lan, nguyên tắc này được gọi là
nguyên tắc phân chia ranh giới.
- Phải tách bạch tài sản của khách hàng với tài sản của công ty.
● Ưu tiên khách hàng
Pháp luật của hầu hết các nước đều yêu cầu CTCK phải tuân thủ nguyên tắc ưu tiên
khách hàng, có nghĩa là lệnh giao dịch của khách hàng phải được ưu tiên xử lí trước lệnh tự
doanh của công ty. Điều này đảm bảo tính công bằng trong giao dịch chứng khoán khi mà
các CTCK có nhiều lợi thế hơn khách hàng về tìm kiếm thông tin và phân tích thị trường.

● Bình ổn thị trường
Do tính đặc thù của TTCK, đặc biệt là ở các TTCK mới nổi, bao gồm chủ yếu là các
nhà đầu tư cá nhân, nhỏ lẻ nên tính chuyên nghiệp trong hoạt động đầu tư không cao. Điều
này rất dễ dẫn đến những biến động bất thường trên thị trường. Vì vậy các nhà đầu tư lớn
chuyên nghiệp rất cần thiết trong việc làm tín hiệu hướng dẫn cho toàn bộ thị trường. Cùng
với các quỹ đầu tư chứng khoán, các CTCK với khả năng chuyên môn và nguồn vốn lớn
của mình thông qua hoạt động tự doanh góp phần vào việc điều tiết cung cầu, bình ổn giá
cả của các loại chứng khóan trên thị trường.
Thông thường chức năng này không phải là một quy định bắt buộc trong hệ thống
pháp luật của các nước. Tuy nhiên đây thường là nguyên tắc nghề nghiệp do các Hiệp hội
chứng khoán đặt ra, và các thành viên của Hiệp hội phải tuân theo.
Ngoài ra các CTCK còn phải tuân thủ 1 số quy định khác như các giới hạn về đầu tư,
lĩnh vực đầu tư… Mục đích của các quy định này nhằm bảo đảm 1 độ an toàn nhất định
cho các CTCK trong quá trình hoạt động, tránh sự đổ vỡ gây thiệt hại chung cho cả thị
trường.
3.2.3. Quy trình nghiệp vụ tự doanh
Cũng giống như các hoạt động nghiệp vụ khác, hoạt động tự doanh không có một
quy trình chuẩn hay bắt buộc nào. Các CTCK tùy theo cơ cấu tổ chức của mình sẽ có các
quy trình nghiệp vụ riêng, phù hợp. Tuy nhiên trên giác độ chung nhất, quy trình hoạt động
tự doanh bao gồm các bước sau:
Bước 1: Xây dựng chiến lược đầu tư
CTCK phải xác định rõ chiến lược trong hoạt động tự doanh của mình là chủ động,
thụ động hay bán chủ động, đầu tư vào những ngành nghề hay lĩnh vực nào.
Chiến lược đầu tư của một công ty thường phụ thuộc vào:
- Thực trạng nền kinh tế
- Khả năng nắm bắt và xử lí thông tin
- Trình độ và khả năng phân tích
- Khả năng quản trị điều hành của ban lãnh đạo công ty…
Bước 2: Khai thác tìm kiếm cơ hội đầu tư
Theo mục tiêu đã được xác định, công ty sẽ chủ động tìm kiếm mặt hàng, nguồn

hàng, khách hàng, cơ hội đầu tư. Việc khai thác tìm kiếm cơ hội đầu tư được tiến hành cả
ở thị trường phát hành và thị trường lưu thông, cả chứng khoán đã niêm yết và chưa niêm
yết.
Bước 3: Phân tích, đánh giá chất lượng, cơ hội đầu tư
Bộ phận tự doanh phải triển khai và kết hợp với bộ phận phân tích để thẩm định,
phân tích các khoản đầu tư để có các kết luận cụ thể về các cơ hội đầu tư (mặt hàng, số
lượng, giá cả, thị trường nào…).
Bước 4: Thực hiện đầu tư
Sau khi đã đánh giá phân tích các cơ hội đầu tư, bộ phận tự doanh sẽ triển khai các
hoạt động giao dịch, mua bán chứng khoán. Cơ chế giao dịch sẽ tuân thủ các quy định của
pháp luật và các chuẩn mực chung trong ngành.
- Nếu mua chứng khoán trên thị trường sơ cấp, bộ phận tự doanh phải tuân thủ đúng
quy trình đấu thầu, hoặc bảo lãnh phát hành, hoặc thỏa thuận với các tổ chức phát hành
trong các công đoạn chuẩn bị phát hành.
- Nếu mua bán chứng khoán trên thị trường thứ cấp, bộ phận tự doanh phải đặt lệnh
giao dịch theo phương thức khớp lệnh hoặc giao dịch thỏa thuận (trên SGD) hoặc khớp giá
(trên sàn OTC). Sau đó nhân viên tự doanh kết hợp với bộ phận kế toán để xác nhận kết
quả giao dịch, hoàn tất các thủ tục thanh toán chứng khoán và tiền.
Lệnh giao dịch của bộ phận tự doanh sẽ được chuyển từ bộ phận tự doanh của công
ty sang phòng môi giới như lệnh của một khách hàng, trừ việc kiểm tra kí quỹ. Nếu lệnh tự
doanh và lệnh của khách hàng được chuyển cho phòng môi giới cùng một thời gian thì lệnh
của khách hàng được ưu tiên truyền đi trước.
Bước 5: Quản lí đầu tư và thu hồi vốn
Trong khâu này, bộ phận tự doanh có trách nhiệm theo dõi các khoản đầu tư, đánh
giá tình hình và thực hiện những hoán đổi cần thiết, hợp lí cũng như tìm kiếm những cơ hội
đầu tư mới.
Đối với trái phiếu công ty phải thường xuyên theo dõi mọi biến động về lãi suất, tỉ
giá hối đoái, biến động kinh tế để kịp thời điều chỉnh. Công ty cần có những dự đoán về lãi
suất của các trái phiéu theo các kì hạn khác nhau trên cơ sở chu kì kinh tế và triển vọng
kinh tế, từ đó thực hiện những thay đổi phù hợp trong quản lí danh mục trái phiếu.

Đối với cổ phiếu, công ty phải thường xuyên theo dõi danh mục cổ phiếu của mình
trên cơ sở phân tích và dự đoán kinh tế vĩ mô, ngành, thực trạng tình hình các cổ phiếu
đang nắm giữ, định giá chúng để quyết định tiếp tục nắm giữ hay bán đi.




CHƯƠNG 4: BẢO LÃNH PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN

4.1 - Phát hành chứng khoán
4.1.1. Phân loại phát hành chứng khoán
- Dựa vào đối tượng đầu tư
Phát hành chứng khoán ra công chúng (Public offering): là việc chào bán chứng
khoán thông qua các phương tiện thông tin đại chúng kể cả Internet, hoặc chào bán chứng
khoán cho trên 100 nhà đầu từ, trừ nhà đầu tư chuyên nghiệp hoặc chào bán cho một số
lượng nhà đầu tư không xác định.
Phát hành riêng lẻ (Private placement): Là việc phát hành không thực hiện chào bán
chứng khoán ra công chúng.
Đối tượng mua chứng khoán theo phương thức phát hành riêng lẻ phải có dự tính
đầu tư lâu dài vì chứng khoán phát hành theo phương thức này thường bị hạn chế giao dịch
trong một khoản thời gian nhất định. Hình thức phát hành này được sử dụng phổ biến hơn
trên thị trường trái phiếu.
- Dựa vào thời điểm phát hành:
Phát hành lần đầu (Initial Public offering - IPO): Tổ chức phát hành huy động vốn
thông qua chào bán chứng khoán ra công chúng lần đầu và trở thành công ty đại chúng
(Public compali).
Công ty đại chúng là tổ chức phát hành: Thực hiện chào bán chứng khoán ra công
chúng phải có trên 100 nhà đầu tư (nếu dưới 100 nhà đầu tư thì tổ chức phát hành sẽ ngừng
tư cách là công ty đại chúng)
Có chứng khoán niêm yết trên SGD hoặc đăng ký giao dịch tại trung tâm giao dịch

chứng khoán hoặc phải có tài sản đạt mức quy định theo luật hiện hành.
Phát hành bổ sung (Seasoned offcering): Các công ty sở hữu đại chúng phát hành
thêm cổ phiếu để huy động vốn bổ sung.
- Dựa vào bản chất của chứng khoán:
Phát hành sơ cấp (Primary offering): Qua hình thức này các chứng khoán mới được
chào bán và lượng tiền thu được thuộc về chủ thể phát hành.
Phát hành thứ cấp (Secondary offering): Các chứng khoán đang lưu hành được chào
bán và lượng tiền thu được thuộc về các cổ đông hiện tại chứ không phải là chủ thế phảt
hành chứng khoán đó.

- Các hình thức khác.
Phát hành kết hợp (Split offering): Là sự kết hợp giữa phát hành sơ cấp và phát hành
thứ cấp. Theo đó, một số chứng khoán chào bán là chứng khoán mới ro doanh nghiệp phát
hành còn số chứng khoán còn lại là chứng khoán đang lưu hành do cổ đông hiện hữu bán ra.
Phát hành từng phần (Shelf registration offering): Tại một số nước có thị trường vốn
phát triển, các công ty có uy tín thường được phát hành chứng khoan nhiều đợt trong khoản
thời gian nhất định kể từ thời điểm nhận giấy phép phát hành.
Phát hành đặc quyền mua trước (Rights offering): Khi công ty đại chúng chào bán
chứng khoán bổ sung để huy động vốn, sự tham gia của các cổ đông mới có thể khiến cơ
cấu sở hữu hiện tại bị thay đổi dẫn đến những bất lợi cho ban điều hành công ty. Do đó, để
bảo vệ cơ cấu sở hữu hiện tại, thay vì phát hành cổ phiếu mới họ sẽ phát hành đặc quyền
mua trước cho các cổ đông dựa trên lý lẽ nắm giữ cổ phần hiện hữu để phân phối cổ phần
mới.

4.1.2. Qui trình phát hành chứng khoán ra công chúng
Thông thường tổ chức phát hành thường phối hợp với các bên liên quan (UBCKNN,
Tổ chức BLPH tổ chức kiểm toán…) theo các bước sau: (9 bước)
Bước 1: Tổ chức họp Đại hội cổ đông để xin ý kiến chấp thuận của Đại hội đồng cổ
đông về việc chào bán chứng khoán.
Bước 2: Thành lập Ban chuẩn bị cho đợt chào bán chứng khoán lần đầu ra công

chúng.
Bước 3: Lựa chọn tổ chức bảo lãnh phát hành và kí hợp đồng bảo lãnh sợ bộ và các
văn bản ghi nhớ cần thiết khác
Bước 4: Tổ chức PHCK nộp hồ sơ đăng kí phát hành lên UBCKNN
Bước 5: Kí hợp đồng bảo lãnh chính thức và các văn bản có liên quan
Bước 6: Công bố thông tin về đợt chào bán
Bước 7: Tổ chức BLPH phối hợp với doanh nghiệp CPH tổ chức bán đấu giá CP ra
bên ngoài.
Do tính đặc thù của TTCK Việt Nam bên cạnh cổ phiếu của công ty cố phần mới
thành lập, còn có cổ phiếu của các DNNN cổ phần hoá được chuyển thành công ty đưa sở
hữu. Quy trình các DNNN thực hiện cổ phần hoá có thể bán cổ phần lần đầu như sau:

Theo văn bản hiện hành thì BLPH trong trường hợp bán cổ phần làn đầu của DNNN
cổ phần hoá là việc tổ chức nhận bảo hành đảm bảo thực hiện phương án bán cổ phần của
DNNN cổ phần hoá cho các đối tượng bên ngoài theo hình thức đấu giá. Trường hợp
không bán hết CP tổ chức nhận bảo lãnh phải mua số CP còn lại theo giá khởi điểm.
Nếu tổ chức BLPH được chỉ định làm tổ chức thực hiện đấu giá ra bên ngoài, tổ
DN c


ph

n hoá

Bán cổ phần ra
ngoài

Không có tổ
ch


c b

o lãnh

Có tổ chức bảo
lãnh HP

nhờ một tổ chức tài
chính trung gian bán
đầu giá
Nhờ các
đại lí phân
phát bán
Bán CP
theo kiểu
đấu giá
Tổ chức tài chính
trung gian không là
TTGDCK
Đấu giá qua TTGDCK
(tổ chức tài chính trung
gian là TTDGCK)
Đấu giá
không qua
TTGDCK
Tự tổ chức
đấu giá
chức BLPH sẽ cùng doanh nghiệp CPH tiến hành tổ chức đấu giá theo quy trình sau:
(1)Thành lập hội đồng đấu giá (HĐ ĐG)
(2) Xây dựng và đệ trình quy chế đấu giá lên HĐ ĐG:

(3) Thông báo về việc bán đấu giá cổ phần của doanh nghiệp CPH
(4) Nhận phiếu đăng ký tham gia đấu giá
Phiếu tham dự có đánh số thứ tự, ghi rõ họ tên và địa chỉ cá nhân, tổ chức tham dự,
số lượng CP đăng ký mua, số tiền đặt cọc.
(5) Tiến hành kiểm tra điều kiện tham dự đấu giá, thông báo cho các cá nhân, pháp
nhân có đủ điều kiện
Bước 8: Tổ chức BLPH thực hiện cam kết của mình, phân phố chứng khoán và
thanh toán
Bước 9: Báo cáo kết quả của đợt PHCK lên UBCKNN Các bên liên quan sẽ tiến
hành hoàn tất một số công việc: Thanh lí toàn bộ các hợp đồng liên quan, hợp đồng
bảo lãnh, hợp đồng tư vấn kiểm toán….
4.2 Khái niệm và vai trò của bảo lãnh phát hành
a. Khái niệm
Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành
thực hiện các thủ tục trước khi chào báo chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán,
nhận mua một phần hay toàn bộ chứng khoán còn lại chưa phân phối hết và giúp ổn giá
chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành.
b. Vai trò
● Đối với tổ chức phát hành
- Thứ nhất, qua hoạt động tư vấn tài chính, tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành
xem xét lại công tác quản lí tài chính, phát hiện ra các mặt tích cực cũng như các yếu kém,
từ đó tư vấn cho tổ chức phát hành các biện pháp hoàn thiện công tác quản lí tài chính,
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn huy động được từ đợt phát hành. Mặt khác với các doanh
nghiệp đang muốn niêm yết chứng khoán trên SGDCK hay phát hành chứng khoán ra công
chúng thường được yêu cầu áp dụng mô hình quản trị kinh doanh hiện đại, trong đó có
quản trị tài chính doanh nghiệp, do đó kết quả của hoạt động tư vấn tài chính không chỉ là
tài liệu hữu ích giúp cải thiện tình hình tài chính hiện tại mà còn giúp cho việc hoạch định
chiến lược tài chính dài hạn của tổ chức phát hành.
- Thứ hai, nâng cao khả năng thành công của đợt phát hành. Các nhân viên của tổ
chức bảo lãnh phát hành là những người có kiến thức chuyên môn về lĩnh vực kinh tế tài

chính, cộng với việc họ là các nhà kinh doanh chứng khoán chuyên nghiệp, được chuyên
môn hóa trong lĩnh vực bảo lãnh phát hành chứng khoán, nên họ có lợi thế hơn trong việc
nắm bắt các nhu cầu của thị trường. Nhờ đó họ có thể đưa ra lời tư vấn đáng giá cho tổ
chức phát hành nên phát hành loại chứng khoán nào vừa phù hợp với nhu cầu huy động
vốn, vừa phù hợp với nhu cầu đầu tư trên thị trường. Trong quá trình phân phối chứng
khoán, do là nhà phân phối chuyên nghiệp, tổ chức bảo lãnh phát hành có sẵn một mạng
lưới phân phối và các mối quan hệ từ trước với các đại lí phát hành, với các nhà đầu tư,
nhất là các tổ chức đầu tư lớn, do vậy việc phân phối chứng khoán chắc chắn sẽ có nhiều
thuận lợi hơn so với trường hợp tổ chức phát hành tự phân phối chào bán chứng khoán.
- Thứ ba, hạn chế và chia sẻ rủi ro. Nếu tự phát hành , tổ chức phát hành sẽ phải
gánh chịu mọi rủi ro của đợt phát hành. Còn nếu phát hành qua tổ chức bảo lãnh, sẽ có sự
chia sẻ rủi ro giữa hai bên khi có rủi ro. Các đơn vị bảo lãnh trong tổ hợp cũng có thể chia
sẻ rủi ro cho nhau.
Tuy nhiên phát hành chứng khoán qua tổ chức bảo lãnh cũng có những nhược điểm
nhất định, đó là: (1) tổ chức phát hành phải trả cho tổ chức bảo lãnh một khoản phí bảo
lãnh, phí này thường khá lớn và trong một số trường hợp, tùy thuộc vào hợp đồng kí kết,
phí bảo lãnh không phụ thuộc vào số vốn huy động được từ đợt phát hành; (2) Do không
trực tiếp phân phối chứng khoán nên tổ chức phát hành khó kiểm soát được thành phần cổ
đông mới; (3)Nếu trình độ chuyên môn nghiệp vụ của tổ chức bảo lãnh phát hành không
tốt, đợt phát hành không thành công có thể gây thiệt haị cho tổ chức phát hành.
● Đối với tổ chức bảo lãnh
- Tăng thu nhập cho doanh nghiệp,
- Nâng cao vị thế uy tín của doanh nghiệp,
- Tạo điều kiện để phát triển các dịch vụ khác.
4.3. Các hình thức bảo lãnh phát hành
Việc bảo lãnh phát hành thường được thực hiện theo một trong các phương thức sau:
a. Bảo lãnh theo phương thức cam kết chắc chắn (Fifm commitment): Là phương
thức bảo lãnh phát hành mà tổ chức BLPH cam kết với tổ chức PH sẽ mua hết lượng chứng
khoán ở một mức giá thoả thuận và phân phối lại cho công chúng tại mức giá chào bán ra
công chúng (POP). Giá chào bán ra công chúng POP không được thay đổi trong suốt quá

trình chào bán. Mức giá thoả thuận còn được gọi là mức giá chiết khấu (Discount) và
chênh lệch giữa giá mua chứng khoán của tổ chức bảo lãnh và giá bán ra công chúng được
gọi là hoa hồng chiết khấu (Underwrting spread).

×