PHƯƠNG PHÁP CHỌN TẠO GIỐNG MÍA
4.1. Tuyển chọn từ tập đoàn giống mía tư liệu
Đây là phương pháp tuyển chọn giống nhanh, có thể
tiến hành ở các cơ sở
nghiên cứu chưa có điều kiện tạo giống mới bằng các
phương pháp khác. Đồng
thời, phương pháp tuyển chọn cũng là giai đoạn cuối
của các phương pháp tạo
giống mới.
Phương pháp này có những ưu điểm là:
+ Rút ngắn thời gian nghiên cứu, không đòi hỏi phải
có điều kiện nghiên cứu
cao, trang thiết bị phức tạp, do đó giảm nhiều chi phí
nghiên cứu.
+ Tiếp thu được những thành tựu nghiên cứu của các
nước khác và của các cơ
sở khác trong nước. Tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế về
lĩnh vực này.
Tuy nhiên, đây là phương pháp chọn lọc - bồi dục
giống, đánh giá và khu vực
hoá giống mà bản thân nó không nhằm tạo ra giống
mới.
4.2. Phương pháp lai hữu tính đối với cây mía
Cho đến nay, đây là phương pháp tạo giống mía chủ
yếu, nhiều giống mía nổi
tiếng thế giới, cho năng suất cao, phẩm chất tốt đã
được tạo bằng phương pháp này.
Những giống mía lai đã thực sự tạo cuộc cách mạng
trong công nghệ sản xuất mía
đường.
Các giống mía lai nổi tiếng đều là kết quả của
phương pháp lai nhiều lần, kết
hợp lai tích luỹ, lai trở lại và các tổ hợp lai đầu tiên
thường là lai khác loài kể cả lai
khác chi trong tộc Saccharinea để sử dụng gen tốt của
cả các loài dại.
4.2.1. Lai khác loài
Điển hình thành công của phương pháp lai này giống
POJ. 2878.
♀
Black
Cheribon
(S.offcinaru
Glagah
(S.spon
t)
♂ ♀
Bandijermasin
Hitam
(S.offcinarum)
Loethers
(S.officinar
um)
♂ ♀
Labaina
(S.robustu
m)
Fidji
(S.officinar
um)
♂
Kassa
er
POJ.1
00
EK-2
♂ ♀ ♂ ♀
POJ.1
00
♀
EK-
28
♂
POJ.28
Đầu tiên người ta tạo giống mới từ 3 cặp lai của 6
giống, trong đó 4 thuộc S.
officinarum, 1 thuộc S. spontaneum và 1 là S.
robustum. Như vậy trong 3 cặp lai
này có 2 cặp là lai khác loài (giữa 1 loài giống và 1
loài dại). Sau đó tiến hành lai
nhiều lần giữa các con lai nhằm củng cố tính tốt của
loài S. officinarum. Giống POJ.
2878 được tạo bằng phương pháp này là giống vượt
hơn hẳn các giống đang trồng
lúc bấy giờ về nhiều tính trạng nông học.
4.2.2. Lai xa khác chi
Lai xa giữa các chi trong và ngoài phức hệ
Saccharum nhằm mục đích phát
triển và củng cố cơ cấu di truyền của các giống mía.
Ở các tổ hợp lai này, cây mẹ
thường là S. officinarum. Các chi khác thường được
chọn làm cây bố.
Tính đa bội thể rất phổ biến trong chi Saccharum là
kết quả của lai xa trong tự
nhiên đồng thời cũng là điều kiện để chi này dễ dàng
lai với các chi khác trong
Gramineae.
Những kết quả nghiên cứu cho thấy lai giữa chi
Saccharum (mẹ) và chi
Shorgum (bố) đã cho kết quả khả quan hơn cả, con
lai có thời gian sinh trưởng chỉ 6
tháng tuổi. Đây là hướng tạo chọn giống mía cực
ngắn ngày.
4.2.3. Kỹ thuật lai
Chuẩn bị tổ hợp lai: khi chọn tổ hợp lai, phải kiểm
tra khả năng hữu thụ của
hạt phấn bằng dung dịch Lugon (1g Iod + 1gKI +
100ml nước). Nếu tỉ lệ hữu thụ
của hạt phấn đạt > 50% thì dùng làm dòng bố; nếu <
50% thì dùng làm dòng mẹ.
Giao phấn trong lồng vải: (phương pháp INICA,
1982).
+ Dùng 1 lồng vải trùm lên 1/3 cây mẹ (trùm kín cả
bông cờ).
+ Cắt 2/3 thân cây bố (gồm cả bông cờ), trồng trong
dung dịch dinh dưỡng
(hoặc bó bầu cho cây bố). Đưa cờ của cây bố vào
cùng lồng với cây mẹ. Nếu nhiều
cây bố (tạp giao hỗn hợp) thì cũng đưa tất cả vào
lồng vải.
+ Thời gian giao phấn 15 - 20 ngày. Có thể thay cây
bố 2 - 3 lần (5 - 7 ngày
thay một lần).
Thu hoạch hạt: thời gian hạt chín (từ giao phấn
đến khi thu hoạch bông)
khoảng 35 - 45 ngày. Cắt riêng từng bông, cho mỗi
bông vào 1 túi vải phơi ở nơi
râmmát khoảng 5 - 7 ngày.
Gieo hạt: hạt thu hoạch, phơi khô nên gieo ngay.
Nếu chưa gieo được thì
phải bảo quản lạnh ở 2 - 40C.
4.2.4. Tuyển chọn cây lai
Gieo hạt lai thành từng dòng để theo dõi. Cần tiến
hành theo dõi 2 vụ liên tiếp
(1 vụ mía tơ và 1 vụ mía gốc).
Sau khi nhận xét con lai ở F1, tiến hành nhân ngay
những dòng triển vọng bằng
phương pháp nhân vô tính (bằng hom) để đưa vào
các thí nghiệm khảo nghiệm, so
sánh giống và khu vực hoá.