Tỷ giá hối đoái
- Bãi bỏ hoàn toàn hình thức quy định tỷ giá nhóm hàng trong
thanh toán ngoại thơng giữa ngân sách với các đơn vị kinh tế tham
gia vào hoạt động ngoại thơng. Thay vào đó là việc áp dụng tỷ giá
chính thức do Ngân hàng nhà nớc công bố.
Để hạn chế tác động của các yếu tố phi kinh tế, một mặt chín
phủ đã tăng cờng công tác thông tin, cho công khai hoámột cách
nhanh chóng và chính xác chỉ số kinh tế quan trọng nh tỷ giá chính
thức, tỷ giá thị trờng, chỉ số giá, sự biến động giá vàng Nhờ vậy
hạn chế đợc hoạt động đầu cơ, giải tâm lý hoang mang.
Mặt khác, chính phủ cũng thông quan nhiều hình thức, tốc độ,
mức can thiệp để thể hiện rõ quyết tâm cải cách triệt để nền kinh tế
nói chung và áp dập tắt nguy cơ bùng nổ trở lại lạm phát nói riêng.
Mặt khác, chính phủ cũng cho thấy có sự chú trong tăng cờng
thực lực kinh tế cho hoạt động can thiệp vào tỷ giá bằng cách gia
tăng mạnh mẽ dự trữ ngoại tệ, lập quỹ ổn giá. theo sô liệu báo cáo
thờng niên của Ngân hàng nhà nớc cho thấy, chính phủ thờng
dành một tỷ trọng khá lớn trong tổng lợng tiền cung ứng thêm cho
nền kinh tế để tăng tài sản có ngoại tệ. Những biện pháp can thiệp
trên đã phần nào xoá đi tâm lý găm giữ ngoại tệ, góp phần làm giảm
Dola và tỷ giá đợc ổn định trong những năm tiếp theo.
- Đẩy mạnh hoạt động của trung tâm giao dịch ngoại tệ ( trung
tâm giao dịch ngoại tệ tại trực tiếp Hồ Chí Minh đợc mở cửa từ
tháng 8 năm 1991 ) để cho các đơn vị kinh tế và các tổ chức tín
dụng trao đổi , mua bán ngoại tệ với nhau theo giá tự thoả thuận,
tạo ra môi trờng điều kiện để cung cầu thực sự gặp nhau . Sau đó,
tiến dần tới việc thành lập thị trờng ngoại tệ liên Ngân hàng tháng
9 năm 1994.
Tính đến cuối năm 1992, đầu năm 1993, những biện pháp can
thiệp đã đem lại một kết quả nh mong đợi, nạn đầu cơ ngoại tệ về
Tỷ giá hối đoái
cơ bản đã đợc giải toả, những đồng ngoại tệ đã đợc hớng mạnh
và hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Tình hình cung - cầu
ngoại tệ đã đợc cải thiện với cùng kỳ trong những năm trớc đó,
Dola có xu hớng giảm giá. Mức tỷ giá trên thị trờng chợ đen chỉ
giao động trong phạm vi từ 10200 đến 10400 đồng Việt Nam ăn 1
Đôla Mỹ. Thậm chí có lúc tỷ giá tụt xuống ở mức 1USD =
9750VND. Mặc dù có nhiều ý kiến cho rằng tình hình này phần lớn
là nhờ vào lợng kiều hối vào nhiều (ớc tính trong tháng 1 năm
1993, nhân dịp tết nguyên đán, có trên 60.000 việt kiều về thăm quê
đã đem theo một lợng ngoại tệ khoảng 400 triệu Dola Mỹ). Dĩ
nhiên không thể phủ nhận đóng góp của lợng kiều hối này vào việc
làm ra tăng cung ngoại tệ trên thị trờng. Trên thực tế cho thấy,
lợng kiều hối này tăng giảm hoàn toàn không ổn định qua các năm
và chỉ tập trung vào những thời gian ngắn nhất định trong năm,
trong khi tình hình cung - cầu ngoại tệ và TGHĐ luôn đợc ổn định
trong suốt thời gian dài từ năm 1993 đến đầu năm 1997.
Mức tỷ giá trên thị trờng chính thức cũng không có sự chênh
lệnh nhiều so với tỷ giá trên thị trờng chợ đen, là minh chứng cho
thấy, mặc dù có sự can thiệp mạnh trở lại của nhà nớc, nhng tỷ
giá vấn đợc xác định tơng đối phù hợp với quy luật của thị trờng.
Điều này có thể đợc chứng minh bằng thực tế là tỷ giá của các
Ngân hàng và tỷ giá trên thị trờng chợ đen biến động tơng đối sát
gần nhau.
Một minh chứng nữa là tính từ năm 1993 đến 1996, tình hình
giá cả đồng Dola Mỹ trên thị trờng tiền tệ quốc tế thờng xuyên có
sự biến động mạnh so với hàng loạt các đồng tiền chủ chốt khác
nh: Yên Nhật. Mác Đức, NDT của Trung Quốc Trong khi đó,
đồng Dollar Mỹ lại có sự ổn định trên thị trờng Việt Nam, điều này
cho thấy biện pháp can thiệp của chính phủ mà đặc biệt là Ngân
hàng nhà nớc thật sự phát huy tác dụng một cách mạnh mẽ. Trong
Tỷ giá hối đoái
bối cảnh nến kinh tế thế giới và thị trờng tiền tệ quốc tế đầy biến
động mà nền kinh tế xã hội Việt Nam lại đạt đợc sự ổn định và
tăng trởng cao, điều này đã thể hiện tính hợp lý về cơ bản của các
tỷ số kinh tế vĩ mô và tất yếu là có biến số TGHĐ.Tuy nhiên, khi
đánh giá về mối quan hệ giữa TGHĐ và ngoại thơng của Việt Nam
từ cuối năm 1992 đến đầu năm 1997, tất cả các công trình nghiên
cứu trong những năm gần đây và cũng theo nhận định chung của
các nhà kinh tế thì đây là giai đoạn tăng giá mạnh của đồng tiền
Việt Nam. Các kết luận thờng cho rằng: Chính điều này là nguyên
nhân gây ra tình trạng tham hụt lớn trong ngoại thơng của Việt
Nam. Ví dụ: Nếu ớc tính một cách tơng đối và lấy gốc là năm
1992 thì đầu năm 1997, chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam đã tăng
36.8% trong khi ở Mỹ là 16,5% thì theo thuyết ngang giá sức mua,
nếu tỷ giá chính thức vào đầu năm 1993, là 1 USD = 10500VND thì
đàu năm 1997 tỷ giá phải là 1USD = 103000(1+ 16,5%) =
12095VND. Trong khi đó, tỷ giá chính thức trên thị trờng Việt
Nam thực tế chỉ khoảng 1USD = 1100VND. Nh vậy theo ngang
giá sức mua, đồng Việt Nam đã tăng giá thực tế xấp xỉ 9%. và số
liệu thực tế cho thấy nếu xét về giá trị tuyệt đối bằng tiền tệ thì thâm
hụt trong cán cân thơng mại của Việt Nam đã có sự tăng liên tục
qua các năm (1993 là 547, 1994 là 1170, 1995 là 2345, 1996 là
3150 triệu Dollar Mỹ). Nếu so sánh mức thâm hụt này với tổng kim
ngạch xuất khẩu thì con số cũng có chiều hớng tăng lên (năm 1993
là 8,4% năm 1994 là 12,8% năm 1995 là 18,4% và năm 1996 là
17,7%)
Bên cạnh đó sự thâm hụt trong cán cân thơng mại của Việt
Nam phải đặc biệt nghiêm trọng trong 3 năm liên tiếp 1994,1995,
1996, có thể nói phần lớn là do tác động trực tiếp của việc Trung
Quốc phá giá mạnh của đồng NDT vào đầu năm 1994. Số liệu thực
tế cho thấy, ngay sau cuộc phá giá kim ngạch nhập khẩu từ Trung
Tỷ giá hối đoái
Quốc (chính ngạch) tăng lên rất nhanh. Nếu nh trong năm 1992
kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc là 31,8% USD, chiếm 1,3%
tổng kim ngạch xuất khẩu thì trong các năm 1994, 1995, 1996, con
số này lần lợt là 144,2% triệu USD chiến 2,7%, 793,9 triệu USD
chiếm 10,5% và 926,5% triệu USD chiếm 8,8%. Thực tế đó cũng đã
chỉ ra rằng sụe điều hành chính sách TGHĐ và chính sách ngoại
thơng của Việt Nam trong giai đoạn từ cuối năm 1993 đến đầu
năm 1997 đôi khi quá thụ động. Sự phá giá mạnh của đồng NDT
vào cuối năm 1993 là một sụ kiịen không có tác động trực tiếp đến
ngoại thơng của Việt Nam nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Nhng có thể thấy rằng trong suốt những năm 1993 đến 1995, hoàn
toàn không có bất kỳ một điều chỉnh nào trong chính sách tỷ giá hối
đoái nhằm phản ánh hay đối phó tình hình này (điều này phản ánh
tính tự chủ trong chính sách tiền tệ nói chung và trong đó có chính
sách tỷ giá hối đoái nói riêng là cha cao). Tỷ giá tính ché trực tiếp
giữa NDT của Trung Quốc và Việt Nam cũng nh hoạt động buôn
bán tiểu ngạch ở các tỉnh biên giới phỉa bắc hầu nh vẫn đợc "thả
nổi".
2.3. Giai đoạn từ tháng 7 /1997 đến ngày 26/2/1999
Ngày 2/7/1997 Thái lan phải "thả nổi" TGHĐ kết thúc gần 14
năm duy trì một chế độ cố định và cũng là ngày đánh dấu làm nổ ra
cuộc khủng hoảng tài chính Đông nam á với một ảnh hởng rộng
khắp trên phạm vi toàn thế giới. Việt nam cũng không thể tránh
khỏi cuộc khủng hoảng. Theo đánh giá chung của các nhà nghiên
cứu cũng nh của các cơ quan thì cuộc khủng hoảng này hoàn toàn
có ảnh hởng ít nhiều đối với nền kinh tế Việt Nam. Xét thêm góc
độ vĩ mô, sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Đông nam á
đối với nền kinh tế Việt Nam tạo nên một cơn sốc rộng khắp thể
hiện trên một số mặt sau:
Thứ nhất, đối với lĩnh vực tài chính Ngân hàng
Tỷ giá hối đoái
- Tạo sức ép giảm giá đồng Việt Nam trên thị trờng ngoại tệ
- Tác động xấu đến hoạt động giai dịch ngoại tệ
- Tăng gánh nặng nợ cho các doanh nghiệp
- Gây sức ép đối với lãi suất đồng tiền Việt Nam và đe doạ sự
mất ổn định của hệ thống Ngân hàng.
-Tác động đến xuất khẩu: tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam
sang khu vực châu á - Thái Bình Dơng chiếm khoảng 70% tổng
kim ngạch, riêng các nớc ASIAN chiếm 23% tổng kim ngạch trớc
khi sảy ra cuộc khủng hoảng nên cuộc khủng hoảng tất yếu sẽ làm
giảm xuất khẩu của Việt Nam.
- Tác động đến nhập khẩu: Sự mất giá của đồng tiền trong khu
vực đã kích thích gia tăng nhập khẩu, trớc hết là nhập khẩu tiểu
ngạch từ Thái lan và hàng trung chuyển từ Campuchia, Lào và Việt
Nam. Thực tế cho thấy, đến cuối năm 1997, hàng loạt các báo đi
đều lên tiếng về tình trạng nhập lậu hàng gia tăng mạnh ở các tỉnh
biên giới tây nam.
Thứ hai , đối với lĩnh vực đầu t:
Do tỷ giá tăng, lãi suất tăng, thị trờng hàng hoá diễn biến
phức tạp cùng với dự đoán không tốt trong tơng lai tất yếu sẽ là các
doanh nghiệp hạn chế đầu t và Ngân hàng cũng rất dè dặt khi cho
vay. Đầu t nớc ngoài vào Việt Nam đã có xu hớng giảm ngay từ
trớc khi nổ ra cuộc khủng hoảng, sau khi cuộc khủng hoảng, nhiều
dự án đầu t dở dang bị đình lại, nhiều phơng án đầu t mới tạm
hoãn và điều này cũng thật rễ hiểu khi mà các quốc gia bị khủng
hoảng nặng nề lại là những quốc gia đang dẫn đầu danh sách những
quốc gia đầu t nhiều nhất vào Việt Nam.
Thứ ba, đối với thu chi ngân sách nhà nớc.
Tỷ giá hối đoái
Gánh nặng nợ nần và chi phí nguyên liệu tăng lên cùng với sụt
giảm của thị trờng tiêu dùng lẫn thị trờng xuất khẩu đã làm nhiều
doanh nghiệp bị thua lỗ từ đó sẽ ảnh hởng xấu đến nguồn thu ngân
sách. Bên cạnh đó, sự xa sụt của nền kinh tế tất yếu đòi hỏi phải ra
tăng một số khoản chi. Báo cáo của Ngân hàng nhà nớc về hoạt
động tiền tệ, tín dụng Ngân hàng trong 6 tháng đầu năm 1998 đã chỉ
rõ " Thu ngân sách 6 tháng thực hiện đạt 30% so với kế hoạch năm.
Chi ngân sách khó khăn hơn mức bội thu bội chi có xu hớng gia
tăng".
Thứ t , Tăng trởng kinh tế dự trữ quốc gia và nợ nớc ngoài.
Khủng hoảng khu vực đã gián tiếp ảnh hởng đến cán cân
vãng lai, đến đầu t của nớc ngoài.Từ đó, gây ra khó khăn cho sự
phát triển kinh tế nói chung (tốc độ tăng trởng 5,8% trong năm
1998 là mức tăng trởng thấp nhất kể từ năm 1989). Nề kinh tế khó
khăn sẽ tác động suy giảm đến tổng cầu, giảm thu nhập và tiêu dùng
của c dân. thị trờng suy yếu một phần sẽ tác động ngay lập tức
đến các Ngân hàng thơng mại. Dự trữ quốc gia tất yếu sẽ phải
chịu sức ép suy giảm một phần do nguồn cung ngoại tệ giảm bớt,
một phần do đáp ứng nhu cầu ngoại tệ thiết yêú cho nền kinh tế và
hỗc trọ cho đồng Việt Nam vào những lúc cao điểm. Trong bối cảnh
đó, chính sách TGHĐ của Việt Nam về cơ bản không có gì khác so
với giai đoạn từ năm 1993 đến khi nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính
Đông nam á. Nhng là giai đoạn với những điều chỉnh nhỏ, liên tục
trong chính sách TGHĐ, nói chung và công tác quản lý ngoại hối
nói riêng nhằm hạn chế những tác động của cuộc khủng hoangr.
Nếu trong giai đoạn từ cuối năm 1992 dến tháng 7 năm 1997 chỉ có
một lần duy nhất điều chỉnh biên độ giao dịch từ 1% đến 5% vào
ngày 27/2/2997 thì từ tháng 7/ 1997 đến đàu năm 1999 có nhiều lần
thay đổi với các mốc chính nh sau:
Tỷ giá hối đoái
Ngày 13/10/1997 thống đốc Ngân hàng nhà nớc quyết định mở
rộng biên độ giao dịch nên mức 10%. Ngày 16/2/1998 Ngân hàng
nhà nớc quyết định nâmg tỷ giá chính thức từ 1USD = 11175VND
nên mức 1USD = 11800VND, tăng 5,6%, ngày 7/8/1998, Ngân
hàng nhà nớc quyết định thu hẹp biên độ giao dịch xuống còn 7%
đồng thời nâng tỷ giá chính thức lên 1USD = 12998 là 1USD =
12992 VND, ngày 6/11/98 là 1USD = 12989VND ngày 26/11/98 là
1USD = 12987VND cho đến ngày 15/1/99 thì tỷ giá chính thức
chỉ còm ở mức 1USD = 12980VND .
Việc Ngân hàng nhà nớc điều chỉnh liên tục tỷ giá chính thức
cùng biên độ trong giai đoạn này có nhiều lý do, do gạt bỏ những lý
do khác và chỉ đứng trên góc độ lựa chọn chế độ tỷ giá thì có thể
thấy. Nếu phân loại chế độ tỷ giá gồm 3 chế độ chính là chế độ tỷ
giá cố định, chế độ tỷ giá thả nổi thuần tuý và nằm giữa hai thái cực
này gọi chung là chế độ tỷ giá bán thẩ nổi hay thả nổ có quản lý, thì
việc có nhiều những điều chỉnh trong tỷ giá chính thức cùng biên độ
tuy không làm thay đổi về cơ bản mà hoàn toàn phù hợp với lý
thuyết về lựa chọn chế độ tỷ giá: "Một chế độ tỷ giá thả nổi sẽ góp
phần hạn chế những cơn sốc và xuất phát từ thị trờng thế giới (đơn
khủng hoàngr tài chính Đông Nam á).
2.4. Giai đoạn 26/2/1999 đến nay.
Trớc ngày 26/2/99 TGHĐ đợc ngân hàng Nhà nớc công bố
hàng ngày và trên cơ sở đó các tổ chức tín dụng đợc phép mua bán
trong một biên độ nhất định. Ngoài ra còn tồn tại một loại tỷ giá là
tỷ giá chợ đen tạo ra một hệ thống đa tỷ giá phức tạp tỷ giá chính
thức của NHNN công bố không đợc xác định theo tín hiệu thị
trờng nên không có ý nghĩa kinh tế. Tuy vậy khi có sự thay đổi của
tỷ giá vẫn có những tác động đến nền kinh tế.
Đến nay khi nền kinh tế vận động mạnh theo cơ chế thị trờng
thì việc xác định tỷ giá nh trên không còn phù hợp với quan hệ
cung cầu trên thị trờng và thông lệ quốc tế. Từ 26/2/99 TGHĐ
Tỷ giá hối đoái
chính thức công bố hàng ngày đợc xác định trên cơ sở bình quân
mua bán thực tế trên thị trờng ngoại tệ liên ngân hàng của ngày
giao dịch gần nhất trớc đó, đồng thời biên độ giao dịch cũng đợc
rút xuống là 0,1%.
(Quyết định 64/1999 QĐ - NHNN7 và 65/1999/QĐ-NHNN7).
Có thể nói đây là một bớc đổi mới rất quan trọng không
những trong quan niệm, trong t duy mà cả trong thực tiễn quản lý,
với cơ chế này làm cho tỷ giá hối đoái trên thị trờng vận động một
cách khách quan phản ảnh đúng hơn các quan hệ cung cầu về ngoại
tệ ở trên thị trờng, đồng thời cũng phù hợp với cơ chế điều hành tỷ
giá của nhiều nớc trên thế giới.
Song song với việc thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá NHNN
Việt Nam cũng đã có quyết định thay đổi cơ chế điều hành lãi suất
(QĐ số 241/2000/QD NHNN1 ngày 2/8/2000 bằng việc bãi bỏ cơ
chế điều hành lãi suất cơ bản thay bằng và tổ chức tài chính đợc
quyền ấn định lãi suất cho vay đối với khách hàng nhng không
đợc vợt qua mức lãi suất cơ bản và biên độ quy định trong từng
thời kì.
Tỷ giá hối đoái
Chơng 3
Một số giải pháp và kiến nghị
1. Một số nhận định chung:
Chính sách tỷ giá hối đoái hiện nay tuy còn một số hạn chế
nhng rõ ràng đã đem lại nhiều kết quả tích cực cho nền kinh tế
phát triển theo hớng mở cửa hội nhập. Xét trên toàn diện các lĩnh
vực, việc vận hành chính sách tỷ giá của Chính phủ đã đợc đánh
giá cao bởi các ý kiến trong và ngoài nớc. Điều đó đặc biệt có ý
nghĩa giữa bối cảnh nền Kinh tế thế giới đầy khó khăn, bởi trong
khi nhiều quốc gia lớn phải vật lộn với thực trạng và nguy cơ suy
thoái thì Việt Nam vẫn đạt mức tăng trởng khá và ổn định. Trong
một hoàn cảnh nh vậy thì việc phá giá mạnh đồng nội tệ để chạy
theo bất kỳ một mục đích nào cũng là điều rất đáng cân nhắc.
Các nguyên nhân làm tăng tỷ giá thời gian qua là :
- Thứ nhất, đó là hậu quả của nhiều năm điều hành chính
sách tỷ giá tách rời quy luật thị trờng trong một thời kỳ đóng cửa
quá dài. Do đó đồng nội tệ bị đánh giá cao hơn giá trị thực của nó.
- Thứ hai, sự mất cân đối giữa cung - cầu về ngoại tệ do giá
USD tăng phổ biến trên thị trờng quốc tế (cho đến cuối năm 2001)
gây sức ép mạnh mẽ lên tỷ giá trong nớc ; hoạt động XK bị ảnh
hởng bởi sự suy thoái chung của toàn cầu.
- Thứ ba, tình hình thâm hụt cán cân thanh toán cha đợc
cải thiện: XK gặp nhiều khó khăn về thị trờng . Nhu cầu nhập khẩu
máy móc thiết bị phục vụ sản xuất là rất cao.
- Thứ t, cơ chế quản lý nền Kinh tế còn nhiều bất cập:
Chính phủ cha làm tốt công tác hớng dẫn thị trờng; dự trữ ngoại
tệ quá mỏng, cha đủ để điều tiết thị trờng ngoại hối trong nớc.
Tỷ giá hối đoái
Nớc ta có điểm xuất phát thấp , tụt hậu nhiều năm trên con đờng
hội nhập nên những khó khăn khi thực hiện mở cửa nền kinh tế
không phải chỉ là vấn đề của riêng tỷ giá, thế và lực của ta còn rất
yếu.
- Thứ năm, đô la hoá ngày càng diễn biến phức tạp do nhiều
nguyên nhân , đặc biệt là tâm lý găm giữ đồng USD chờ tiếp tục lên
giá của dân chúng và tâm lý sợ rủi ro tỷ giá, đây là thói quen có tính
chất lịch sử do nhiều năm tiền VND liên tục mất giá để lại.
Do vậy, việc phá giá Đồng Việt Nam không phải là phơng
thuốc hữu hiệu cho sự phát triển chung của nền Kinh tế vì một số lý
do sau:
- Một là, phá giá đồng Việt Nam sẽ không cải thiện đợc
cán cân thanh toán . Do chế độ tỷ giá hiện nay không còn là trở ngại
chính của XK, các nhà xuất khẩu cần có những cải tiến trong chất
lợng sản phẩm, mẫu mã, hạ giá thành và xâm chiếm thị trờng tiêu
thụ trớc khi đòi hỏi ở cơ chế tỷ giá . Vì cơ chế tỷ giá chỉ phát
huy tác dụng tích cực khi có hàng loạt các yếu tố đó hỗ trợ. Hơn thế,
phá giá mạnh lại gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong nớc
vốn trong tình trạng tài chính yếu kém lại phải nhập khẩu nhiều
máy móc, thiết bị để hiện đại hoá dây truyền sản xuất. Nói cách
khác, phá giá thì XK lợi bất, NK đã cập hại
- Hai là, các khoản nợ nớc ngoài của Chính phủ, theo một cơ
chế tơng tự, sẽ tăng lên khi quy đổi ra nội tệ nếu tiến hành phá giá.
- Ba là, phá giá mạnh trong điều kiện cha có sức ép thực sự
dữ dội từ phía thị trờng sẽ gây tâm lý bất ổn và các xáo trộn toàn
diện về Kinh tế.
- Bốn là, chính sách phá giá nhằm chuyển dịch cơ cấu nền
Kinh tế, nâng cao tính cạnh tranh chỉ thực sự có hiệu quả khi đi
cùng hàng loạt điều kiện khác nh: T duy đúng đắn về chính sách