Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Siêu âm pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.17 KB, 8 trang )

Siêu âm

Siêu âm là một phương pháp khảo sát hình ảnh học bằng cách cho một phần của cơ thể
tiếp xúc với sóng âm có tần số cao để tạo ra hình ảnh bên trong cơ thể. Siêu âm không sử
dụng các phóng xạ ion hóa (như X quang). Do hình ảnh siêu âm được ghi nhận theo thời
gian thực nên nó có thể cho thấy hình ảnh cấu trúc và sự chuyển động của các bộ phận
bên trong cơ thể kể cả hình ảnh dòng máu đang chảy trong các mạch máu.
Siêu âm là một khảo sát y học không xâm lấn (không gây chảy máu) giúp cho các bác sĩ
có thể chẩn đoán và điều trị bệnh.
Siêu âm quy ước tạo ra những hình ảnh các lát cắt mỏng và phẳng của cơ thể. Những tiến
bộ trong kỹ thuật siêu âm bao gồm siêu âm 3 chiều (siêu âm 3D) có khả năng tái tạo lại
dữ liệu thu nhận được từ sóng âm thành hình ảnh 3 chiều. Siêu âm 4 chiều (siêu âm 4D)
là siêu âm 3 chiều có ghi nhận sự chuyển động.

Hình ảnh siêu âm 3 chiều
Siêu âm Doppler cũng có thể là một phần của quá trình khám siêu âm.
Siêu âm Doppler là một kỹ thuật siêu âm đặc biệt giúp đánh giá dòng máu chảy trong các
mạch máu, bao gồm các động mạch và tĩnh mạch chính của cơ thể ở bụng, cánh tay,
chân, và cổ.
Có 3 loại siêu âm Doppler:
 Siêu âm Doppler màu: dùng máy vi tính để chuyển giá trị Doppler thành một
chuỗi các màu sắc để diễn tả tốc độ và hướng đi của dòng máu chảy bên trong các
mạch máu.
 Siêu âm Doppler năng lượng là một kỹ thuật mới nhạy cảm hơn siêu âm Doppler
màu và có khả năng cung cấp thông tin chi tiết hơn về dòng máu, đặc biệt là ở
những dòng máu nhỏ. Tuy nhiên, siêu âm năng lượng không giúp cho các bác sĩ
xác định được hướng đi của dòng máu mà thông tin này có thể trở nên quan trọng
trong một số trường hợp.
 Siêu âm phổ. Thay vì biểu diễn giá trị Doppler theo dạng trực quan, siêu âm
Doppler phổ biểu diễn đại lượng dòng máu dưới dạng biểu đồ dưới dạng khoảng
cách đi được trong mỗi đơn vị thời gian.



Hình ảnh siêu âm Doppler
Những công dụng phổ biến của siêu âm
Siêu âm giúp chẩn đoán được nhiều loại bệnh khác nhau và tiếp cận được những tổn
thương của các cơ quan khi bị bệnh.
Siêu âm giúp các bác sĩ đánh giá được những triệu chứng:
 Đau
 Sưng, phù nề
 Nhiễm trùng
Siêu âm là cách hữu ích để kiểm tra nhiều cơ quan bên trong cơ thể, bao gồm (nhưng
không chỉ giới hạn trong) những cơ quan sau:
 Tim và các mạch máu, bao gồm động mạch chủ bụng và những nhánh chính của
nó.
 Gan
 Túi mật
 Lách
 Tụy
 Thận
 Bàng quang
 Tử cung, buồng trứng và trẻ chưa sinh (thai nhi) ở những thai phụ.
 Mắt
 Tuyến giáp và tuyến cận giáp
 Bìu (tinh hoàn)
Siêu âm cũng được dùng để:
 Hướng dẫn thực hiện các thủ thuật như sinh thiết bằng kim, là thủ thuật đưa kim
vào để lấy một mẫu tế bào từ một khu vực bất thường của cơ thể để đem đến
phòng thí nghiệm kiểm tra.
 Thể hiện hình ảnh của vú để hướng dẫn sinh thiết ung thư vú
 Chẩn đoán nhiều loại bệnh tim và khảo sát những tổn thương sau một cơn đau tim
hoặc một bệnh khác.

Siêu âm Doppler giúp các bác sĩ quan sát và đánh giá:
 Sự tắc nghẽn của dòng máu (chẳng hạn như huyết khối).
 Hẹp các mạch máu (có thể gây ra do mảng vữa).
 Những khối u và dị tật bẩm sinh
Với những thông tin về tốc độ và thể tích của dòng máu thu được từ hình ảnh siêu âm
Doppler, các bác sĩ thường có thể xác định được bệnh nhân có đủ điều kiện để thực hiện
thủ thuật (chẳng hạn như tạo hình mạch máu) hay không.
Chuẩn bị
Bạn nên mặc đồ thoải mái, quần áo lỏng khi khám. Bạn có thể sẽ cần phải cởi bỏ hết tất
cả quần áo và trang sức nằm trong khu vực được khảo sát ra ngoài.
Bạn cũng có thể được yêu cầu mặc áo choàng khi thực hiện thủ thuật.
Những sự chuẩn bị khác tùy thuộc vào từng loại siêu âm. Đối với một số loại siêu âm,
bác sĩ có thể yêu cầu bạn không ăn hoặc uống trong vòng 12 giờ trước khi khám. Đối với
một số loại khác bạn sẽ được yêu cầu uống khoảng 5 ly nước trong vòng 2 giờ trước khi
khám và không đi tiểu để bàng quang chứa đầy nước khi khám.
Hình dạng của thiết bị

Máy siêu âm
Máy siêu âm bao gồm bộ điều khiển gồm có máy vi tính và nguồn điện, màn hình và đầu
dò được dùng để scan cơ thể và các mạch máu. Đầu dò là một thiết bị nhỏ cầm tay tương
tự như chiếc microphone, được nối với máy bằng một sợi dây. Đầu dò sẽ phát sóng âm có
tần số cao vào cơ thể rồi sau đó lắng nghe sóng dội lại từ các mô trong cơ thể. Nguyên lý
hoạt động của nó tương tự như thiết bị phát hiện tàu ngầm được dùng ở các tàu thuyền
hoặc tàu ngầm trên biển.

Đầu dò siêu âm
Hình ảnh siêu âm sẽ được hiển thị ngay lập tức ở màn hình kế bên tương tự như màn hình
vi tính hoặc màn hình TV. Hình ảnh được tạo ra dựa vào biện độ (độ mạnh), tần số, và
thời gian tín hiệu âm quay trở về đầu dò từ cơ thể người bệnh.
Nguyên tắc hoạt động

Siêu âm dựa trên cùng một nguyên tắc hoạt động của hệ thống định vị ở loài dơi, các tàu
thuyền. Khi sóng âm va vào một vật thể, nó sẽ bị dội trở lại, hoặc phản âm trở lại. Bằng
cách đo những sóng dội này, người ta có thể xác định được độ xa cũng như kích thước,
hình dạng và mật độ (vật thể có tính chất rắn, hay chứa đầy dịch, hoặc cả hai) của vật thể.
Trong siêu âm, đầu dò vừa phát sóng âm vừa ghi nhận sóng dội trở lại. Khi đầu dò được
ấn vào da, nó sẽ truyền những xung nhỏ của các sóng âm có tần số cao không nghe được
đi vào cơ thể. Khi sóng âm dội lại từ các nội tạng bên trong cơ thể, dịch và mô, một
microphone rất nhạy cảm của đầu dò sẽ ghi nhận lại những thay đổi nhỏ trong cao độ và
hướng của âm. Những tín hiệu sóng này sẽ được đo đạc ngay lập tức và thể hiện bằng
máy vi tính bằng cách tạo ra những hình ảnh theo thời gian thực ở màn hình. Một hoặc
nhiều khung hình sẽ được chụp lại làm hình tĩnh.
Siêu âm Doppler, một ứng dụng đặc biệt của siêu âm, dùng để đo hướng và vận tốc của
các tế bào máu khi chúng di chuyển trong mạch máu. Sự chuyển động của các tế bào máu
gây ra sự thay đổi về cao độ của sóng âm phản hồi lại (được gọi là hiệu ứng Doppler).
Máy vi tính sẽ thu thập và xử lý những sóng âm này để tạo ra biểu đồ hoặc hình màu thể
hiện dòng chảy của máu trong các mạch máu.
Cách thực hiện
Trong hầu hết các cuộc khám siêu âm, bệnh nhân sẽ được yêu cầu nằm ngửa trên bàn
khám.
Một chất gel trong suốt sẽ được bôi lên vùng cơ thể cần khảo sát để giúp đầu dò tiếp xúc
chắc chắn với cơ thể và hạn chế không khí chen vào giữa đầu dò và da bệnh nhân. Sau đó
bác sĩ siêu âm sẽ ấn đầu dò vào da bệnh nhân và quét nó về phía sau và ra trước trên
những vùng cơ thể được khám.
Siêu âm Doppler cũng được thực hiện trên cùng một loại đầu dò.
Khi quá trình khám kết thúc, bệnh nhân sẽ được yêu cầu mặc lại quần áo và ngồi đợi bác
sĩ nghiên cứu hình ảnh siêu âm. Tuy nhiên, các bác sĩ siêu âm thường có thể nghiên cứu
các hình ảnh siêu âm trong thời gian thực và bệnh nhân có thể ra về ngay lập tức.
Trong một số kiểu siêu âm, đầu dò sẽ được đưa vào các lỗ tự nhiên của cơ thể. Những
khảo sát này bao gồm:
 Siêu âm tim qua ngã thực quản: đầu dò sẽ được đưa vào thực quản để khảo sát

hình ảnh của tim.
 Siêu âm qua ngã trực tràng: đầu dò sẽ được đưa vào trực tràng của bệnh nhân nam
để quan sát tiền liệt tuyến.
 Siêu âm qua ngã âm đạo: đầu dò sẽ được đưa và âm đạo của bệnh nhân nữ để
quan sát tử cung và buồng trứng. Cách khám này chỉ được thực hiện khi có sự
đồng ý của bệnh nhân.
Hầu hết những đợt khám siêu âm sẽ hoàn thành trong khoảng từ 30 phút đến 1 giờ.
Những gì bệnh nhân sẽ cảm thấy trong lúc siêu âm và sau khi siêu âm
Hầu hết các thủ thuật siêu âm đều không đau, nhanh chóng và dễ dàng.
Sau khi bạn nằm trên giường theo đúng tư thế, bác sĩ sẽ bôi một ít gel ấm lên da và đặt
đầu dò lên cơ thể, di chuyển nó ra sau và ra trước trên khu vực được khám cho đến khi
ghi nhận được hình ảnh mong muốn. Thường không có sự khó chịu nào khi bác sĩ ấn đầu
dò lên vùng cơ thể được khám.
Nếu siêu âm ở khu vực nhạy cảm, bạn có thể cảm thấy áp lực hoặc bị đau nhẹ do đầu dò.
Những khảo sát siêu âm cần phải đưa đầu dò vào những lỗ tự nhiên của cơ thể có thể gây
ra một chút khó chịu.
Nếu được siêu âm Doppler, bạn sẽ có thể thật sự nghe thấy những âm thanh như mạch
đập thay đổi cao độ khi dòng máu đang được theo dõi và đo đạc.
Sau khi siêu âm, gel sẽ được lau sạch khỏi cơ thể bệnh nhân.
Sau khi siêu âm, bạn có thể quay trở lại những sinh hoạt hằng ngày của mình.
Ai sẽ phân tích kết quả siêu âm
Các bác sĩ thuộc chuyên khoa chẩn đoán hình ảnh, là những bác sĩ được đào tạo để quan
sát và phân tích các khảo sát hình ảnh học, sẽ là người phân tích hình ảnh và gửi kết quả
đến các bác sĩ trực tiếp điều trị cho bạn. Trong một số trường hợp, các bác sĩ chẩn đoán
hình ảnh sẽ thảo luận kết quả với bạn khi kết thục cuộc khám.
Những ích lợi và nguy cơ của siêu âm
Ích lợi
 Hầu hết các phương pháp siêu âm đều không xâm lấn (không dùng kim cũng như
không cần phải tiêm thuốc) và thường không gây đau.
 Siêu âm được sử dụng rộng rãi, dễ dàng và ít tốn kém hơn những phương tiện

hình ảnh khác.
 Siêu âm không dùng tia xạ ion hóa
 Siêu âm có thể cho thấy hình ảnh rõ ràng của các mô mềm vốn thể hiện không tốt
trên hình X quang.
 Siêu âm không gây ra những vấn đề nào về sức khỏe và có thể thực hiện lập đi lập
lại ở mức độ cần thiết.
 Siêu âm là phương pháp khảo sát hình ảnh ưa thích để chẩn đoán và theo dõi ở
những phụ nữ mang thai và thai nhi.
 Siêu âm cung cấp hình ảnh theo thời gian thực nên trở thành một công cụ tốt để
hướng dẫn cho các thủ thuật xâm lấn tối thiểu chẳng hạn như tiêm cortisone, sinh
thiết bằng kim, dùng kim hút các dịch trong khớp hoặc ở những nơi khác trên cơ
thể.
Nguy cơ
 Đối với siêu âm chẩn đoán cơ bản thì vẫn chưa tìm thấy những tác dụng có hại
của nó trên con người.
Những giới hạn của siêu âm chẩn đoán
Sóng siêu âm bị cản trở bởi hơi hoặc không khí, do đó siêu âm không phải là phương tiện
chẩn đoán hình ảnh lý tưởng cho ruột và những cơ quan bị ruột che khuất. Trong hầu hết
các trường hợp, khảo sát với barium, CT scan, và MRI là những phương pháp được lựa
chon ở tình huống này.
Sóng siêu âm không đi qua được không khí, do đó khảo sát dạ dày, ruột non, và ruột già
có thể bị giới hạn. Khí ở ruột non có thể ngăn không quan sát được những cấu trúc nằm
sâu hơn như tụy và động mạch chủ. Những bệnh nhân có khổ người lớn siêu âm khó
khăn hơn do các mô làm suy giảm (làm yếu đi) sóng âm khi nó đi sâu hơn vào cơ thể.
Sóng âm khó xuyên thấu được xương và do đó chỉ có thể nhìn thấy được mặt ngoài của
các cấu trúc xương chứ không nhìn được những gì nằm bên trong. Để quan sát được
những cấu trúc bên trong của xương và một số khớp, các bác sĩ thường dùng một phương
tiện chẩn đoán hình ảnh khác, chẳng hạn như MRI.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×