Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CỦA PHẠM TRÙ VẬT CHẤT pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.26 KB, 22 trang )

BÀI TIỂU LUẬN
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN CỦA PHẠM TRÙ VẬT CHẤT
MỞ ĐẦU
Việc tìm hiểu để khám phá bản chất và cấu trúc của sự tồn tại thế
giới xung quanh là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu
trong lịch sử nhận thức của nhân loại. Hầu hết các trường phái triết học
bằng cách này hay cách khác điều quan tâm để giải quyết vấn đề này. Vì
vậy, trong triết học vật chất đã được hình thành từ rất sớm. Vật chất với
tư cách là một phạm trù triết học đã có lịch sử đã 2500 năm. Giống như
mọi phạm trù khác, phạm trù vật chất có quá trình phát sinh và phát triển
gắn liền với sự hiểu biết của con người về thế giớ tự nhên ngày càng sâu
sắc. Ngay từ khi mới ra đời, xung quanh phạm trù vật chất đã diển ra
cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ
nghĩa duy vật.
Chủ nghĩa duy tâm tìm mọi cách phủ nhận sự tồn tại của vật chất
họ khẳng định cơ sở tồn tại của thế giới là yếu tố tinh thần hoặc do một
lực lượng siêu nhiên huyền bí nào đó tạo nên, hay đó là ý muốn của chú
trời.
Chủ nghĩa duy vật khẳng định cơ sở tồn tại của thế giới là vật
chất, nó tồn tại vĩnh cửu và tạo nên sự vật cùng với những thuộc tính của
chúng.
Để hiểu rỏ hơn về quan niệm cùng với sự đấu tranh giữa các
trường phái triết học chúng ta đi tìm hiểu đề tài tiểu luận “lịch sử hình
thành và phát triển của phạm trù vật chất”
1
A. CHỦ NGHĨA DUY TÂM
Chủ nghĩa duy tâm có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội, đó là
sự xem xét phiến diện, tuyệt đối hóa, thần thánh hóa một mặt, một đặc
tính nào đó của quá trình nhận thức và thường gắn với lợi ích của các giai
cấp, tầng lớp áp bức bóc lột nhân dân lao động. Mặt khác, chủ nghĩa duy


tâm và tôn giáo thường có mối liên hệ mật thiết với nhau, nương tựa vào
nhau để cùng tồn tại và phát triển.
Trong lịch sử phát triển chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản
là chủ nghĩa duy tâm khách và chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Tuy có sự
khác nhau trong quan niệm cụ thể về cái có trước và về sự có trước,
nhưng cả hai dạng của chủ nghĩa duy tâm đều thống nhất với nhau ở chổ
coi ý thức, tinh thần là cái có trước.
1. Chủ nghĩa duy tâm khách quan
Chủ nghĩa duy tâm khách quan: với quan điểm cho rằng có một
thực thể tinh thần ý thức tồn tại một cách độc lập ở bên ngoài con người
và thế giới vật chất, nó có trước và sản sinh ra toàn bộ thế giới vật chất và
cả con người. Nó quy định và quyết định sự vận động phát triển của thế
giới vật chất. Hai đại biểu lớn của trường phái đó là Platôn và Hêghen.
+ Platôn (427-347 TCN) là một nhà duy tâm trong triết học cổ đại Hy
Lạp, triết học của Platon là chủ nghĩa duy tâm khách quan, thế giới quan
của bộ phận giai cấp chủ nô quý tộc phản động. Theo Platôn về vấn đề
khởi nguyên của thế giới là “ý niệm”, ý niệm là tồn tại chân thực và vĩnh
cửu còn vật chất là không tồn tại. Trong quan hệ với các sự vật cảm tính,
“ý niệm” vừa là nguyên nhân, vừa là hình mẩu, mục đích của cán sự vật
cảm tính. Về vấn đề linh hồn, Platôn coi linh hồn là bất tử linh hồn bị
giam hảm trong thể xác và có thể nhập vào thể xác khác. Về nhận thức,
Platôn coi nhận thức về sự vật là không xác thực, “mờ tối”, chỉ có nhận
2
thức về ý niệm là xác thực, và đạt được bằng sự hồi tưởng của linh hồn
bất tử những gì mà nó đã thấy ở thế giới ý niệm trước đó. Về quan điểm
chính trị Platôn đề cao chế độ quý tộc, chống lại chế độ dân chủ tiến bộ.
+ Tiến bộ hơn các nhà duy tâm trước chỉ nhìn sự vật một cách phiếm diện
cực đoan tôn giáo, Hªghen (1770 -1831) đã hình thành nên một phép biên
chứng khoa học và logic hơn, nhưng vẩn còn mang đậm dấu ấn của chủ
nghĩa duy tâm. Phép biện chứng của ông là một tiền đề lý luận quan trọng

trong triết học Mácxít. Triết học của ông ảnh hưởng rất mạnh đến tư
tưởng của nước Đức và cả Châu Âu đương thời, triết học của ông được
gọi là “tinh thần phồ”. Phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng
duy tâm tức là phép biện chứng về sự vận động và phát triển của các khái
niệm được ông đồng nhất với biện chứng sự vật. Ông viết: “phép biện
chứng nói chung là nguyên tắc của mọi sự vận động, mọi sự sống và mọi
hoạt động trong phạm vi hiện thực.Cái biện chứng là linh hồn của mọi
nhận thức khoa học chân chính”. Luận điểm xuyên suốt trong hệ thống
triết học của Hêghen là: “Tất cả cái gì hiện thực đều là hợp lí và tất cả
những gì hợp lí đều tồn tại”. Hêghen là người đã có công trong việc phê
phán tư duy siêu hình và là người đầu tiên trình bài toàn bộ giới tự nhiên,
xã hội và tư duy một cách biện chứng, có nghĩa là trong sự vận động, biến
đổi và phát triển không ngừng. Trong logic học, Hêghen không chỉ trình
bày các phạm trù triết học như lượng – chất, vật chất – vận động mà còn
đề cặp đến các quy luật khác như lượng biến đổi dẩn đến chất đổi, quy
luật phủ định biện chứng. Nhưng tất cả chỉ là những quy luật vận động,
phạm trù của tư duy, của khái niệm. Khi nghiên cứu xã hội , Hêghen
khẳng định sự phát triển của xã hội là sự đi lên. Quá trình phát triển của
lịch sử có tính kế thừa. Lịch sử là tính thống nhất giửa khách quan và chủ
quan trong hoạt động của con người. Hêghen đã có công xây dựng một hệ
thống các phạm trù và phép biện chứng như những công cụ của tư duy
biện chứng.
3
Trong khi hệ thống triết học của Hêghen chứa đựng những tư tưởng
biện chứng sâu sắc thì cách trình bày của ông lại mang tính tư duy bảo
thủ, thể hiện ở: Sự vận động của xã hội là do sự vận động của tư duy ý
niệm tuyệt đối sinh ra. Do đó mà C.Mác gọi phép biện chứng của Hêghen
là: “Phép biện chứng đi lộn đầu xuống đất” . Vì vậy, cần phải đặt nó
đứng bằng hai chân trên mảnh đất hiện thực, nghĩa là trên quan điểm duy
vật

2. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: với quan niệm cho rằng cảm giác là
cái có trước và tồn tại trong con người. Các sự vật hiện tượng bên ngoài
chỉ là phức hợp của cái cảm giác đó mà thôi. Hai đại biểu của trường phái
duy tâm chủ quan là Hium và Béccli.
+ Béccli đã lợi dụng sự dao động trên lí luận của nhà duy vật Lốccơ
(Lốccơ cho rằng “nhờ ý niệm trong của cảm giác chúng ta tri giác được
chất thứ nhất (đặc tính có trước) và chất thứ hai (đặc tính có sau)”. Ngoài
ra, ông còn coi những chất thứ hai: mùi vị, màu sắc, âm thanh, không có
ý nghĩa khách quan mà chỉ là những cảm giác chủ quan dựa trên cơ sơ kết
hợp những chất thứ nhất theo các cách khác nhau) để chống lại chủ nghĩa
duy vật, bảo vệ chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo. Đồng thời dựa trên duy danh
luận cực đoan của Tômát, Đacanh Béccli đã phê phán thực thể vật chất
của chủ nghĩa duy vật, coi đây là một sự trừu tượng trống rỗng, đầy mâu
thuẩn, vì chỉ có những thuộc tính riêng lẻ của sự vật (tư tưởng) là tồn tại
thôi, chứ chúng ta không thể tri giác được vật chất nói chung. Con người
chỉ tri giác được những tư tưởng (cảm giác) của mình. Từ đó Béccli đã đi
đến kết luận rằng sự tồn tại của vật chất là ở tính có thể tri giác được (tồn
tại có nghĩa là tri giác), sự vật chẳng qua chỉ là phức hợp các cảm giác,
các biểu tượng các tư tưởng mà thôi. Song, khi lý giải về tính liên tục
trong sự tồn tại của sự vật và để tránh chủ nghĩa duy ngã cực đoan Béccli
4
đã chuyển từ chủ nghĩa duy tâm chủ quan sang chủ nghĩa duy tâm khách
quan ở sự thừa nhận sự tồn tại của các “tinh thần khác” và cuối cùng là
“tinh thần vô hạn” của thượng đế.
+ Nếu như bản chất triết học của Béccli là chủ nghĩa duy tâm chủ quan
thì triết học của Hium hướng chủ nghĩa duy tâm chủ quan đó đến bất khả
tri luận. Khi trả lời về vấn đề thế giới có tồn tại hay không? Hium cho
rằng: “Tôi không biết”, vì chính con người không vượt qua khỏi giới hạn
những cảm giác của mình để nhận thức những gì bên ngoài mình. Ông

còn coi kinh nghiệm chỉ là những dòng các ấn tượng và về nguyên nhân
chúng ta không thể biết. Ngoài ra, Hium còn phê phán tôn giáo, song điều
đó cũng không thể thay thế được bản chất triết học Hium là chủ nghĩa
duy tâm chủ quan và bất khả tri luận.
Kết luận: dù trải qua nhiều giai biến cố của lịch sử, cùng với sự phát
triển của nền khoa học kỉ thuật hiện đại, nâng tầm hiểu biết của con người
lên rất nhiều về thế giới xung quanh nhưng đại đa số các nhà duy tâm vẩn
bảo thủ tư tưởng của mình một cách phiếm diện, thiếu khoa học và mang
tính cực đoan tôn giáo. Đó cũng là nguyên nhân tiềm ẩn gây nên các cuộc
bạo loạn tôn giáo,phá vở tính đoàn kết dân tộc làm mất trật tự và an ninh
của xã hội. Vì vậy mỗi người chúng ta nên nhìn nhận mỗi sự việc một
cách khoa học, đi từ thực tế khách quan, tránh sa vào tư tưởng duy tâm
bảo thủ thì công việc mới thành công và lâu bền. Đó cũng là điều mà mỗi
sinh viên chúng em cần phải nắm thật kỉ khi muốn vận dụng triết học vào
cuộc sống thực tiển của bản thân, vì khỏang cách giửa chủ nghỉa duy tâm
và chủ nghĩa duy vật đôi lúc có sự khác biệt rất rỏ, đôi lúc lại mờ ảo khó
phân biệt. Như vậy tùy hoàn cảnh tùy sự việc chúng ta phải nhìn nhận
một cách bao quát, tránh tư tưởng bảo thủ, suy luận thiếu thực tế, không
phải đi từ thực tiển để giải quyết công việc. Tóm lại, khi làm việc chúng
phải suy nghỉ thật kỉ, làm chủ được nhận thức của bản thân, việc nào
5
đúng việc nào sai, và tuyệt đối không nên phủ nhận sạch trơn chủ nghĩa
duy tâm một cách cực đoan tôn giáo, vì đôi lúc chủ nghĩa duy tâm cũng là
một phần bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tôc chẳng hạn như việc thờ
cúng ông bà tổ tiên, hoặc lể hội cổ truyền của các dân tộc…….
3. Những hạn chế và sai lầm của chủ nghĩa duy tâm
Chủ nghĩa duy tâm khách quan có rằng một thực thể tinh thần, ý thức
tồn tại một cách độc lập ở bên ngoài con người và thế giới vật chất. Nó có
trước và sản sinh ra toàn thế giới vật chất và con người. Nó quy định và
quyết định sự vận động phát triển của thế giới vật chất.

Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng cảm giác là cái có trước và tồn
tại sẳn trong con người. Các sự vật hiện bên ngoài chỉ là phức hợp của cái
cảm giác đó mà thôi.
Tuy có sự khác nhau trong quan niệm cụ thể về cái có trước, về sự có
trước nhưng cả hai dạng của chủ nghĩa duy tâm đều thống nhất với nhau
ở chổ coi ý thức , tinh thần là cái có trước, là cái sản sinh ra vật chất và
quyết định vật chất. Chủ nghĩa duy tâm tìm mọi cách phủ nhận sự tồn tại
của vật chất, họ khẳng định cơ sở tồn tại của thế giới là yếu tố tinh thần
hoặc do một lực lượng siêu nhiên hay ý muốn của chú trời.
Về phương diện nhận thức, sai lầm của chủ nghĩa duy tâm bắt nguồn
từ sự xem xét phiếm diện, tuyệt đối hoá, thần thánh hoá một mặt, một đặc
tính nào đó của quá trình nhận thức mang tính biện chứng của con người.
Sự tách rời giửa lao động trí óc với lao động chân tay và địa vị thống
trị của lao động trí óc đối với lao động chân tay trong các xã hội củ đã tạo
ra quan niệm về vai trò quyết định của nhân tố tinh thần. Các giai cấp
thống trị và và những lực lượng xã hội ủng hộ, sử dụng chủ nghĩa duy
tâm làm nền tảng lí luận cho quan điểm chính trị - xã hội của mình.
Chính vì thế giới này phụ thuộc vào ý muốn của lực lượng siêu nhiên,
ý muốn của chú trời nên con người không thể thay đổi được thế giới này
6
v con ngi phi chp nhn vi s phn. Chớnh iu ny ó trit tiờu i
ng lc phn u ca con ngi nhm ci to th gii.

B. CH NGHA DUY VT
I. CC QUAN IM CA CH NGHA DUY VT
TRC MC
1. Ch ngha duy vt cht phỏt thi c i
Phép biên chứng thời cổ đại là phép biện chứng tự phát, ngây thơi và
mang nặng tính trực quan đợc hình thành trên cơ sở quan sát tự nhiên, xã
hội hoặc thông qua kinh nghiệm của bản thân. Ba trung tâm triết học lớn

nhất thời bấy giờ là: Triết học Trung Hoa cổ đại, triết học ấn Độ cổ đại và
triết học Hy Lạp cổ đại. Bên cạnh những đặc điểm chung, do đặc điểm
văn hoá cũng nh hoàn cảnh lịch sử khác nhau nên sự thể hiện t tởng biện
chứng trong học thuyết triết học mỗi trung tâm đều có những đặc điểm
riêng không giống nhau.
1.1 Trung Hoa cổ đại
Triết học Trung hoa cổ đại là một nền triết học lớn của nhân loại, có
tới 103 trờng phái triết học. Do đặc điểm của bối cảnh lịch sử Trung Hoa
lúc đó là xã hội loạn lạc, đời sống nhân dân cơ cực, đạo đức suy đồi nên
triết học Trung hoa cổ đại tập trung vào giải quyết các vấn đề về chính trị
- xã hội. Những t tởng duy vt thời này chỉ thể hiện khi các nhà triết học
kiến giải những vấn đề về vũ trụ quan.
Một trong những học thuyết triết học mang t tởng biện chứng sâu sắc
là Học thuyết Âm - Dơng. Đây là một học thuyết triết học đợc phát triển
trên cơ sở một bộ sách có tên là Kinh Dịch. Một trong những nguyên lý
7
triết học cơ bản nhất là nhìn nhận mọi tồn tại không phải trong tính đồng
nhất tuyệt đối, mà cũng không phải trong sự loại trừ biệt lập không thể t-
ơng đồng. Trái lại tất cả đều bao hàm sự thống nhất của các mặt đối lập -
đó là Âm và Dơng. Âm - Dơng không loại trừ, không biệt lập, mà bao
hàm nhau, liên hệ tơng tác lẫn nhau, chế ớc lẫn nhau. Kinh dịch viết: "C-
ơng nhu tơng thôi nhi sinh biến hoá", "Sinh sinh chi vi dịch". Sự tơng tác
lẫn nhau giữa Âm và Dơng, các mặt đối lập, làm cho vũ trụ biến đổi
không ngừng. Đây là quan điểm thể hiện t tởng biện chứng sâu sắc. Học
thuyết này cũng cho rằng chu trình vận động, biến dịch của vạn vật trong
vũ trụ diễn ra theo nguyên lý phân đôi cái thống nhất nh: Thái cực (thể
thống nhất) phân đôi thành lỡng nghi (âm - dơng), sau đó âm - dơng lại
tiến hành phân thành tứ tợng (thái âm - thiếu âm, thái dơng - thiếu dơng),
tứ tợng lại sinh ra bát quái, và từ đó bát quái sinh ra vạn vật.
Tuy nhiên, học thuyết Âm - Dơng cho rằng sự vận động của vạn vật

diễn ra theo chu kỳ lặp lại và đợc đảm bảo bởi nguyên tắc cân bằng Âm -
Dơng, ở điểm này thì học thuyết Âm - Dơng phủ nhận sự phát triển biện
chứng theo hớng đi lên mà cho rằng sự vận động của các hiện tợng chỉ
dừng lại khi đạt đợc trạng thái cân bằng Âm -Dơng. Hơn nữa, trong học
thuyết Âm - Dơng còn nhiều yếu tố duy tâm thần bí nh quan điểm "Thiên
tôn địa ty" cho rằng trật tự sang hèn trong xã hội bắt nguồn từ trật tự của
"trời đất", họ đem trật tự xã hội gán cho giới tự nhiên, rồi lại dùng hình
thức bịa đặt đó để chứng minh cho sự hợp lý vĩnh viễn của chế độ đẳng
cấp xã hội.
Tóm lại, học thuyết Âm - Dơng là kết quả của quá trình khái quát hoá
những kinh nghiệm thực tiễn lâu dài của nhân dân Trung Quốc thời cổ
đại. Mặc dù còn những tính chất trực quan, chất phác ngây thơ và tồn tại
những quan điểm duy tâm thần bí về xã hội, nhng học thuyết Âm - Dơng
đã bộc lộ rõ khuynh hớng duy vật và t tởng biện chứng tự phát của mình
8
trong quan điểm về cơ cấu và sự vận động, biến hoá của sự vật, hiện tợng
trong tự nhiên và xã hội.
1.2 ấn độ cổ đại
Đây là hệ thống triết học có sự đan xen hoà đồng giữa triết học với
tôn giáo và giữa các trờng phái khác nhau. Các t tởng triết học đợc thể
hiện dới hình thức là một tôn giáo. Theo cách phân chia truyền thống,
triết học ấn Độ cổ đại có 9 trờng phái, thuc hai loi:
+ Chớnh thng cú 6 h thng Mimansa, Vedanta, Samkhuya, Yoga,
Nyaya, Vaisesika.
+ Phỏi khụng chớnh thng hay t giỏo (nastika) cú 3 h thng: Buddha
(pht giỏo), Jaina giỏo, Lokayata.
(Tiờu chun chớnh thng l tha nhn v bo v tớnh ỳng n ca
kinh vờda. Cũn t giỏo l ngc li)
Trong tất cả các học thuyết triết học đó thì học thuyết triết học thể
hiện trong Phật giáo là học thuyết mang tính duy vật và biện chứng sâu

sắc tiêu biểu của nền triết học ấn Độ cổ đại.
Phật giáo hình thành từ thế kỷ VI TCN do Tất Đạt Đa, tên hiệu là
Thích Ca Mầu Ni (563 - 483 TCN) khai sáng. Phật giáo cho rằng vạn vật
trong thế giới không do một đấng thần linh nào đó tạo ra mà đợc tạo ra
bởi hai yếu tố là Danh (tinh thần) và Sắc (vật chất). Trong đó Danh bao
gồm tâm và thức, còn Sắc bao gồm 4 đại (đại địa, đại thuỷ, đại hoả, đại
phong). Chính nhờ t tởng nêu trên mà Phật giáo đợc coi là tôn giáo duy
vật duy nhất chống lại thứ tôn giáo thần học đơng thời. Đồng thời Phật
giáo đa ra t tởng "nhất thiết duy tâm tao", "vô thờng", "vô ngã". "Vô ngã"
nghĩa là "không có cái ta, cái tôi bất biến", theo đó không có cái gì là tr-
ờng tồn là bất biến, là vĩnh hằng, không có cái gì tồn tại biệt lập. Đây là t
tởng biện chứng chống lại đạo Bàlamôn về sự tồn tại của cái tôi - átman
bất biến. "Vô thờng" tức là biến, biến ở đây đợc hiểu nh là sự biến đổi
9
của vạn vật theo chu kỳ: Sinh - Trụ - Dị - Diệt (đối với sinh vật); Thành -
Trụ - Hoại - Không (con ngời). Phật giáo cũng cho rằng sự tơng tác của
hai mặt đối lập Nhân và Duyên chính là động lực cho làm cho thế giới vận
động chứ không phải là một thế lực siêu nhiên nào đó nằm ngoài con ng-
ời, thế giới là vòng nhân quả vô cùng vô tận. Nói cách khác một vật tồn
tại đợc là nhờ hội đủ Nhân, Duyên.
1.3 Hy Lạp cổ đại
Mặc dù hãy còn nhiều tính "cắt khúc", nhng triết học Hy Lạp cổ đại đã
có những phát hiện mới đối với phép biện chứng. Chính trong thời kỳ này
thuật ngữ "biện chứng" đã hình thành. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ về
kinh tế thời kỳ chiếm hữu nô lệ, Hy Lạp cổ đại đã đạt đợc nhiều thành tựu
to lớn về văn hoá, nghệ thuật, mà trớc hết là các thành tựu trong khoa học
tự nhiên nh: Thiên văn học, vật lý học, toán học đã làm cơ sở thực tiễn
cho sự phát triển của triết học trong thời kỳ này. Triết học Hy Lạp cổ đại
đã phát triển hết sức rực rỡ, trở thành nền tảng cho sự phát triển của triết
học phơng Tây sau này.

Một trong những nhà triết học điển hình có t tởng biện chứng là
Heraclit (540 - 480 TCN). Theo đánh giá của các nhà kinh điển Mác -
Lênin thì Heraclit là ngời sáng lập ra phép biện chứng. Ông cũng là ngời
đầu tiên xây dựng phép biện chứng dựa trên lập trờng duy vật.
Phép biện chứng của Heraclit cha đợc trình bày dới dạng một hệ thống
các luận điểm khoa học mà hầu nh các luận điểm cốt lõi của phép biện
chứng đợc đề cập dới dạng các câu danh ngôn mang tính thi ca và triết lý.
T tởng biện chứng của Heraclit đợc thể hiện nh sau:
Một là Quan niệm về sự vận động vĩnh cửu của vật chất. Theo
Heraclit thì không có sự vật, hiện tợng nào của thế giới là đứng im tuyệt
đối, mà trái lại, tất cả đều trong trạng thái biến đổi và chuyển hoá. Ông
nói: "Chúng ta không thể tắm hai lần trên một dòng sông vì nớc mới
không ngừng chảy trên sông"; "Ngay cả mặt trời cũng mỗi ngày một mới".
10
Theo quan điểm của Heraclit thì lửa chính là bản nguyên của thế giới, là
cơ sở duy nhất và phổ biến nhất của tất cả mọi sự vật, hiện tợng. Đồng
thời lửa cũng chính là gốc của mọi vận động, tất cả các dạng khác nhau
của vật chất chỉ là trạng thái chuyển hoá của lửa mà thôi.
Hai là Heraclit nêu lên t tởng về sự tồn tại phổ biến của các mâu thuẫn
trong mọi sự vật, hiện tợng. Điều đó thể hiện trong những phỏng đoán về
vai trò của những mặt đối lập trong sự biến đổi phổ biến của tự nhiên về
"sự trao đổi của những mặt đối lập", về "sự tồn tại và thống nhất của các
mặt đối lập". Ông nói: "cùng một cái ở trong chúng ta - sống và chết, thức
và ngủ, trẻ và già. Vì rằng cái này biến đổi là cái kia; và ngợc lại, cái kia
mà biến đổi thành cái này ". Heraclit đã phỏng đoán về sự đấu tranh và
thống nhất của những mặt đối lập. Lê nin viết: "Phân đôi cái thống nhất
và nhận thức các bộ phận đối lập của nó là thực chất của phép biện chứng.
Điều này chúng ta đã thấy xuất hiện ngay từ nhà biện chứng Heraclit".
Ba là Theo Heraclit thì sự vận động phát triển không ngừng của thế
giới do quy luật khách quan (mà ông gọi là Logos) quy định. Logos khách

quan là trật tự khách quan là mọi cái đang diễn ra trong vũ trụ. Logos chủ
quan là từ ngữ học thuyết của con ngời. Logos chủ quan phải phù hợp với
logos khách quan. Ngời nào càng tiếp cận đợc logos khách quan bao
nhiêu thì càng thông thái bấy nhiêu. Lý luận nhận thức của Heraclit mang
tính biện chứng và duy vật sơ khai nhng cơ bản là đúng.
thời cổ đại, xét trong nhiều hệ thống triết học khác không có đợc t t-
ởng biện chứng sâu sắc nh vậy. Chính là những t tởng biện chứng sơ khai
của Heraclit sau này đã đợc các nhà biện chứng cổ điển Đức kế thừa và
các nhà sáng lập triết học Macxít đánh giá cao. C.Mác và Ph.Ănghen đã
đánh gía một cách đúng đắn giá trị triết học của Heraclit và coi ông là đại
biểu xuất sắc nhất của phép biện chứng Hy Lạp cổ đại: "Quan niệm về thế
giới một cách nguyên thuỷ, ngây thơ nhng căn bản là đúng ấy, là quan
11
niệm của các nhà Hy Lạp thời cổ và ngời đầu tiên diễn đạt đợc rõ ràng
quan niệm ấy là Heraclit".
Trong học thuyết về nguyên tử của mình, Đêmôcrit (460 - 370 TCN)
đã kế thừa quan điểm của Heraclit về vận động. Ông cho rằng vận động
của nguyên tử là vĩnh cửu và ông đã cố gắng giải thích nguyên nhân vận
động của nguyên tử là ở bản thân nguyên tử, ở động lực tự thân. Ông cho
rằng còn khoảng trống hay còn "chân không" trong nguyên tử là điều kiện
vận động của nó. Tuy nhiên Đêmôcrit đã không lý giải đợc nguồn gốc của
vận động.
Sau Đêmôcrit là Arixtốt (384 - 322 TCN) ông cho rằngvận động gắn
liền với các vật thể với mọi sự vật, hiện tợng của giới tự nhiên. Ông cũng
khẳng định vận động là không thể bị tiêu diệt "Đã có vận động và mãi
mãi sẽ có vận động". Arixtốt là ngời đầu tiên đã hệ thống hoá các hình
thức vận động thành 6 dạng: Phát sinh, tiêu diệt, thay đổi trạng thái, tăng,
giảm, di chuyển vị trí .
Tuy nhiên Arixtốt lại dơi vào duy tâm vì cho rằng thần thánh là nguồn
gốc của mọi vận động.

Tóm lại, phép biện chứng thời cổ đại về căn bản là đúng vỡ nú ó ly
bn thõn vt cht ca gii t nhiờn gii thớch v t nhiờn nhng chủ yếu
mới dựa trên những phỏng đoán, những trực kiến thiên tài. Phép biện
chứng tự phát thời cổ đại đã nhìn thấy bức tranh chung của thế giới trong
sự tác động, liên hệ của các mặt đối lập, song cha đi sâu vào chi tiết của
bức tranh. Vì vậy, nó không tránh khỏi bị phủ định bởi phép siêu hình
trong thời kỳ cận đại.
2. Ch ngha duy vt siờu hỡnh th k XVII-XVIII
Suốt trong 4 thế kỷ (từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVIII), sự trởng thành
của t tởng biện chứng Tây Âu mang nhiều ý nghĩa độc đáo. Ch ngha
duy vt thi kỳ này phát triển trong thời kỳ thống trị của t duy siêu hình.
12
Sau đêm trờng Trung cổ, triết học là thứ triết học kinh viện giáo điều
gắn với đạo Thiên chúa. Đến thời kỳ Phục hng, triết học thời kỳ này đã
khôi phục lại những t tởng duy vật cổ đại nhng vẫn còn mang tính phiếm
thần, yếu tố duy vật xen lẫn duy tâm. Tuy nhiên phép biện chứng thời kỳ
này vẫn có bớc phát triển nh t tởng về "sự phù hợp của các mặt đối lập"
của Gioocdanơ Brunô (1548 -1600). Theo G.Brunô mọi cái đều liên hệ
với nhau và đều vận động, kể từ các hạt vật chất nhỏ nhất - nguyên tử đến
vô số thế giới của vũ trụ vô tận, cái này tiêu diệt cái kia ra đời. Nếu không
theo nguyên tắc "các mặt đối lập phù hợp với nhau" thì dù là nhà toán
học, nhà vật lý, cả nhà triết học cũng không làm việc đợc.
Một trong những đại biểu của triết học Tây Âu thời kỳ cận đại là
Ph.Bêcơn (1561 - 1626). Ph.Bêcơn khẳnh định vật chất không tách rời vận
động, nhận thức bản chất của sự vật là nhận thức sự vận động của chúng.
Ông đã tiến hành phân vận động thành 19 loại. Tuy nhiên tính chất siêu
hình của ông thể hiện: Ông quy mọi loại vận động về vận động cơ học.
Song cống hiến của ông là ở chỗ coi đứng yên là một hình thức của vận
động, coi vận động là đặc tính cố hữu của vật chất, ông là ngời đầu tiên
nhận thấy tính bảo toàn vật chất của thế giới.

Trong thời kỳ cận đại, khoa học tự nhiên đã phát triển và đi sâu mổ xẻ
phân tích giới tự nhiên thành những bộ phận nhỏ để nghiên cứu. Những
phơng pháp đó đã tạo ra thói quen nghiên cứu xem xét sự vật trong trạng
thái cô lập, tách rời và bất biến. Từ khi Ph.Bêcơn và Lốccơ đem phơng
pháp trong khoa học tự nhiên áp dụng vào triết học thì phơng pháp siêu
hình trở thành phơng pháp thống trị trong triết học.
Phơng pháp siêu hình đó đóng một vai trò tích cực nhất định trong quá
trình nhận thức giới tự nhiên, phơng pháp đó chỉ thích ứng với trình độ su
tập, mô tả giới tự nhiên. Do đó khi khoa học chuyển sang nghiên cứu các
quá trình phát sinh, phát triển của sự vật, hiện tợng thì nó bộc lộ rõ những
13
hạn chế. Vì vậy nó không tránh khỏi bị phủ định bởi phép biện chứng của
triết học cổ điển Đức với đỉnh cao là phép biện chứng Hêghen.
Kt lun: Quan im ca cỏc nh trit hc duy vt trc Mỏc v vt
cht tuy cú nhng u im nht nh trong vic gii thớch c s vt cht
ca s tn ti gii t nhiờn nhng v cn bn vn cũn nhiờu hn ch nh:
khụng hiu chớnh xỏc bn cht ca cỏc hin tng ý thc cng nh mi
quan h gia ý thc vi vt cht; khụng cú c s xỏc nh nhng biu
hin ca vt cht trong i sng xó hi nờn cng khụng cú c s ng
trờn quan im ca ch ngha duy vt khi gii quyt cỏc vn ca xó
hi, Hn ch ú tt yu dn n quan im duy vt khụng trit : khi
gii quyt nhng vn v gii t nhiờn, cỏc nh duy vt ng trờn quan
im duy vt, nhng khi gii quyt cỏc vn xó hi h ó trt sang
quan im duy tõm
II. CH NGHA DUY VT BIN CHNG
Ch ngha duy vt bin chng l hỡnh thc th ba ca ch ngha
duy vt do C.Mỏc v ngghen sỏng lp, c Lờnin v nhng ngi k
tc ụng bo v v phỏt trin. Vi s k tha nhng tinh hoa ca cỏc hc
thuyt trit hc trc ú v s dng trit nhng thnh tu khoa t
nhiờn hc ng thi , ch ngha duy vt bin chng ngay t khi mi ra

i ó khc phc c hn ch ca ch ngha duy vt cht phỏt thi c
i v ch ngha duy vt siờu hỡnh cn i Tõy u , t ti trỡnh l
hỡnh thc phỏt trin cao nht ca ch ngha duy vt trong lch s. Trờn c
s phn ỏnh ỳng ng hin thc khỏch quan trong mi liờn h ph bin
v phỏt trin, ch ngha duy vt bin chng ó cung cp cụng c v i
cho hot ng nhn thc khoa hc v thc tin cỏch mng.
Mt trong nhng mc lch s quan trng trong ch ngha duy vt bin
chng l s ra i nh ngha vt cht ca Lờnin, nú ó lớ gii cho nhiu
cõu hi, v lm c s cho nhiu lớ lun v cụng trỡnh trit hc duy vt ra
14
đời. Nó ra đời là sự tất yếu và cần thiết để phù hợp với nhận thức ngày
càng cao của con người, đồng thời cũng là minh chứng cho sự đúng đắng
của chủ nghĩa duy vật, đỉnh cao là chủ nghĩa duy vật biện chứng
1. Hoàn cảnh ra đời định nghĩa “vật chất” của Lênin
Trong lịch sử triết học, đã có nhiều quan niệm, quan điểm khác
nhau về vật chất, tuy nhiên chưa có một định nghĩa nào về vật chất mang
tính đầy đủ, khái quát và đúng đắn.
Vào thời đại của mình Mác – Ăngghen đã đưa ra quan niệm về vật chất
như sau: “Vật chất với tính cách là vật chất, là sự sáng tạo thuần tuý của
tư duy, là một điều trừu tượng hoá thuần tuý… khác với những vật chất
nhất định và đang tồn tại. Vật chất với tính cách là vật chất không có sự
tồn tại cảm tính”
Như vậy trong quan niệm của mình về vật chất Mác – Ăngghen đã
khẳng định vật chất tồn tại khách quan trong các sự vật hửu hình, củ thể ở
bên ngoài ý thức. Muốn hiểu được nó cần có sự trừu tượng hoá. Vật chất
không phải là dạng cụ thể nào đó mà bằng cảm tính người ta có thể thấy
được. Tuy nhiên, do khoa học lúc đó chưa có những phát minh lớn về cấu
tạo, cấu trúc của các vật thể vi mô và do điều kiện lịch sử khách quan nên
Mác – Ăngghen chưa đưa ra một định nghĩa mang tính kinh điển về vật
chất.

Đến cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, khoa học tự nhiên phát triển
và những điều kiện lịch sử xã hội đã có những thay đổi lớn lao liên quan
đến vấn đề vật chất và xuất hiện đòi hỏi phải có một quan niệm mới hoàn
chỉnh về vật chất.
+ Về khoa học tự nhiên, đặc biệt trong lĩnh vực vật lý xuất hiện những
phát minh quan trọng đem lại cho con người những hiểu biết mới, sâu sắc
về cấu trúc của thế giới vật chất như:
Năm 1895, Rơnghen (nhà vật lý học,giáo sư vật lý người Đức) phát
hiện ra tia X, một loại sóng điện từ có khả năng đâm xuyên các vật thể.
15
Năm 1896, Béccơren (nhà vật lý học người Pháp) phát hiện ra hiện
tượng phóng xạ. Điều này cho thấy quan niệm về nguyên tử là bất biến đã
lỗi thời, không còn chính xác nửa.
Năm 1897, Tômxơn (nhà vật lý học người Anh) phát hiện ra điện tử,
và chứng minh được rằng điện tử là yếu tố cấu tạo nên nguyên tử. Như
vậy, quan niệm nguyên tử là nhỏ bé nhất không thể phân chia được không
còn chính xác nửa
Năm 1901, Kaufman đã phát hiện ra rằng trong quá trình vận động,
khối lượng của điện tử thay đổi khi vận tốc của nó thay đổi. Điều này
chứng tỏ khối lượng không phải là một đại lượng tỉnh bất biến.
Như vậy trong lĩnh vực khoa học tự nhiên đặc biệt là vật lý học, bằng
những phát minh của mình đã bác bỏ một cách trược điện những quan
điểm siêu hình về vật chất trước đây. Những tính chất như nhỏ bé nhất,
không thể xuyên thấu, bất biến về khối lượng…của vật chất đã không thể
đứng vứng được nửa. Điều này đã gây ra sự hoang mang cho các nhà
khoa học tự nhiên và là xuất hiện cuộc khủng hoản trong lỉnh vực vật lý
học đầu thế kỷ XX
+ Về mặt triết học: những người theo chủ nghĩa duy tâm đã lợi dụng
những phát minh mới của khoa học để tấn công chủ nghĩa duy vật hòng
phủ nhận và bác bỏ triết học mác xít. Họ cho rằng vật chất đã tiêu tan và

như vậy chủ nghĩa duy vật không còn cơ sở để đúng vững và tồn tại. Chỉ
có ý thức mới là cái vĩnh viển và tạo nên vạn vật.
+ Về lịch sử - xã hội: Vào đầu thế kỷ XX trung tâm cách mạng thế giới đã
dịch chuyển từ Tây Âu sang Đông Âu và tập trung ở Nga. Những mâu
thuẩn về dân tộc, về giai cấp, về xã hội được thể hiện rỏ nét và gay gắt ở
nga. Điều kiện khách quan, chủ quan chủ quan của cuộc cách mạng vô
sản đang tiến gần tới cuộc đấu tranh trên bình diện tư tưởng, lý luận
chống chủ nghĩa cơ hội, CNDT bảo vệ chủ nghĩa Mác điển ra một cách
16
gay gắt và quyết liệt, đồng thời đây cũng là quá trình chuẩn bị về lý luận
cho cuộc cách mạng vô sản đang tới gần.
Trong bối cảnh lịch sử như vậy Lênin đã phân tích tình hình phức
tạp ấy và chỉ ra những phát minh có giá trị to lớn của vật lý học cận đại
không hề bác bỏ chủ nghĩa duy vật mà chỉ bác bỏ quan niệm cho rằng
giới tự nhiên là có tận cùng về mặt cấu trúc, rằng nguyên tử hay khối
lượng là giới hạn cuối cùng, bất biến của giới tự nhiên.
Lênin đã chỉ ra rằng, không phải "vật chất tiêu tan" mất, mà chỉ
có giới hạn hiểu biết của con người về vật chất là tiêu tan. Trên cơ sở
phân tích một cách sâu sắc cuộc “khủng hoảng của vật lý học” và phê
phán những quan niệm duy tâm, siêu hình về phạm trù vật chất, Lênin đã
đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về phạm trù vật chất mà cho đến nay
các khoa học hiện đại vẫn thừa nhận:
“ Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác được cảm giác của chúng ta chép
lại, chụp lại phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
Lập luận của Lênin khẳng định vật chất không biến mất, chỉ có
quan niệm cũ xưa lỗi thời về vật chất là không còn phù hợp nữa, cần có
một cách hiểu mới về phạm trù vật chất trên cơ sở khái quát các thành tựu
của khoa học và nhận thức.
Vật chất là một phạm trù Triết học bởi vì đó là sự xác định "góc

độ" của việc xem xét để tránh nhầm lẫn giữa quan niệm của Triết học về
bản chất của vật chất với các quan niệm của khoa học tự nhiên về cấu trúc
và những thuộc tính cụ thể của các đối tượng vật chất khác nhau.Với tư
cách là một phạm trù Triết học, phạm trù vật chất phải thể hiện thế giới
khách quan và hướng đến sự giải quyết vấn đề cơ bản của Triết học là
mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại.
Vật chất là một phạm trù rộng lớn nhất khái quát nhất nên không
17
thể định nghĩa bằng cách thông thường trong logic học, đem quy khái
niệm cần định nghĩa về khái niệm rộng hơn. Vật chất chỉ có thể định
nghĩa bằng cách đặt nó trong quan hệ đối lập với ý thức, xem cái nào có
trước, cái nào quyết định cái nào.
Vật chất là thực tại khách quan ở ngoài, độc lập với ý thức và
quyết định ý thức (Thí dụ như: khi tôi nhìn thấy cái áo đẹp cái áo đã phản
ánh vào bộ não và nảy sinh ý thức tôi muốn mặc nó). Vật chất là vô cùng
vô tận, nó có vô vàn các thuộc tính khác nhau rất đa dạng và phong phú
mà khoa học ngày càng phát triển thì càng tìm ra, phát hiện thêm những
thuộc tính mới của nó. Trong tất cả các thuộc tính của vật chất thì thuộc
tính thực tại khách quan (tức là sự tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức
con người) là thuộc tính chung, vĩnh hằng với mọi dạng, mọi đối tượng
khác nhau của vật chất, chính vì vậy V.I Lênin xem thực tại khách quan
là thuộc tính duy nhất của vật chất. Thuộc tính tồn tại khách quan ở ngoài
và độc lập với ý thức chính là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất cái
gì không phải là vật chất cả trong tự nhiên lẫn trong đời sống xã hội. Tất
cả những cái gì tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức của con người đều
là những dạng khác nhau của vật chất. Ví dụ: những quan hệ kinh tế - xã
hội, quan hệ sản xuất của xã hội tuy khôngtồn tại dưới dạng vật thể,
cũng không mang thuộc tính khối lượng, năng lượng, cũng không có cấu
trúc phân tử, nguyên tử những chúng tồn tại khách quan, có trước ý thức
và quyết định ý thức, bởi vậy chúng chính là vật chất dưới dạng xã hội.

Thuộc tính này cũng là tiêu chuẩn để khẳng định thế giới vật chất có tồn
tại thật sự, tồn tại do chính nó hay không. Bởi vậy thuộc tính đó là cơ sở
khoa học để đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm.
Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm
giác chúng ta chép lại chụp lại, phản ánh nghĩa là vật chất tồn tại khách
quan nhưng không phải tồn tại trừu tượng mà là tồn tại hiện thực, cụ thể,
cảm tính. Khi vất chất tác động lên các giác quan của con người thì gây ra
18
cảm giác ở con người, đem lại cho con người sự nhận thức về chính nó,
như vậy khả năng nhận thức của con người đối với vật chất chính là xuất
phát từ thuộc tính tồn tại cảm tính tức là sự tồn tại của bản thân vật chất.
Như vậy về nguyên tắc đối với vật chất, thì chỉ có cái con người
chưa nhận thức được chứ không thể có cái con người không thể nhận
thức được. Đó chính là cơ sở để khoa học đấu tranh chống lại "thuyết
không thể biết".Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác tức
là nó là nguồn gốc, nguyên nhân của cảm giác, của ý thức, nó có trước ý
thức và tạo nên nội dung của ý thức. Còn cảm giác hay ý thức là sự chép
lại chụp lại, phản ánh, nó có sau so với vật chất. Rõ ràng vật chất là tính
thứ nhất, ý thức là tính thứ hai, vật chất quyết định ý thức.
2. Ý nghĩa của định nghĩa vật chất
1. Bảo vệ chủ nghĩa Mác, đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm khách
quan chủ nghĩa duy tâm chủ quan cùng những thuyết không thể
tưởng.
2. Đấu tranh khắc phục triệt để tính trực quan siêu hình, máy móc và
những biến tướng của nó trong quan niệm về vật chất của các nhà
triết học tư sản hiện đại. Do đó, định nghĩa vật chất này cũng đã
giải quyết được sự khủng hoản trong quan điểm về vật chất của các
nhà triết học và khoa học theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật
siêu hình.
3. Khẳng định thế giới vật chất khách quan là vô cùng, vô tận, luôn

vận động và phát triển không ngừng, nên đã có tác động cổ vũ,
động viên các nhà khoa học đi sâu nghiên cứu thế giới vật chất, tìm
ra kết cấu mới, những thuộc tính mới và những quy luật vận động
của vật chất để làm phong phú thêm kho tàng tri thức của nhân loại
19
Do vậy, định nghĩa này đã có tác dụng đưa khoa học tự nhiên và nhất
là vật lý học thoát khỏi khủng hoảng vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 để
tiếp tục tiến lên. Cho đến nay, mặc dù khoa học đã tiến lên một bước rất
dài so với định nghĩa vật chất của Lênin (được viết trong tác phẩm Chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán được Lênin viết năm
1908 và xuất bản năm 1909) nhưng nó vẫn còn nguyên giá trị . Định
nghĩa này vẫn là tiêu chuẩn để phân biệt thế giới quan duy vật và thế giới
quan duy tâm.
=> SỰ KHÁC BIỆT GIỬA CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ
CHỦ NGHĨA DUY TÂM
Tổng kết toàn bộ lịch sử triết học, đặc biệt là lịch sử triết học cổ điển
Đức, Ăngghen đã khái quát: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc
biệt là triết học hiện đại, là mối quan hệ giửa tư duy với tồn tại”; giữa ý
thức và vật chất, giữa tinh thần và giới tự nhiên. Vấn đề cơ bản của triết
học có hai mặt. Thứ nhất, giửa vật chất và ý thức: cái nào có trước cái nào
có sau? Cái nào quyết định cái nào?. Thứ hai, con người có khả năng
nhận thức được thế giới hay không?. Từ việc giải quyết hai vấn đề cơ bản
đó chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm hình thành.
Về quan niệm theo các nhà duy tâm thì bản chất của thế giới là ý
thức; ý thức quyết định vật chất, còn các nhà duy vật thì xem bản chất của
thế giới là vật chất; vật chất là tính thứ nhất ý thức là tính thứ hai; vật chất
là cái có trước quyết định ý thức. Chủ nghĩa duy tâm có nguồn gốc nhận
thức và nguồn gốc xã hội, đó là: sự xem xét phiến diện, tuyệt đối hóa,
thần thánh hóa một mặt, một đặc tính nào đó của quá trình nhận thức và
thường gắn với lợi ích của các giai cấp, tầng lớp áp bức bóc lột nhân dân

lao động. Mặt khác, chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo thường có mối liên hệ
mật thiết với nhau, nương tựa vào nhau để cùng tồn tại và phát triển. Đối
20
lập với chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa duy vật và sự tồn tại, phát triển có
nguồn gốc từ sự phát triển của khoa học và thực tiển, đồng thời thường
gắn với lợi ích của giai cấp và lực lượng tiến bộ trong lịch sử. Nó là kết
quả của quá trình đúc kết khái quát hóa những tri thức của nhân loại về
nhiều lĩnh vực để xây dựng nên hệ thống quan điểm lý luận chung, đồng
thời định hướng cho các lực lượng trong xã hội tiến bộ trong hoạt động
nhận thức và thực tiển của mình. Trên cơ sở phát triển của khoa học và
thực tiển, chủ nghĩa duy vật đã phát triển qua các hình thức của nó, trong
đó chủ nghĩa duy vật biên chứng là hình thức phát triển cao nhất của chủ
nghĩa duy vật trong lịch sử
Các học thuyết, các trường phái triết học dù khác nhau đến đâu thì câu
hỏi trước hết cần phải giải quyết là: thế giới bên ngoài tồn tại như thế nào
và tư duy con người có khả năng nhận biết được thế giới này hay không?.
Những tri thức con người được bắt nguồn từ đâu. Đồng thời việc giải
quyết mối quan hệ giửa vật chất và ý thức vừa là điểm xuất phát vừa là cơ
sở giải quyết mọi vấn đề trong triết học, đặc biệt là những vấn đề thuộc
lịch sử về đời sống xã hội của con người. Cuối cùng thông qua việc giải
quyết mối quan hệ giửa vật chất và ý thức để có sự phân định về sự khác
nhau giửa các hệ thống triết học trong lịch sử.
C. KẾT LUẬN
Trên cơ sở quan điểm về bản chất của thế giới, bản chất năng động sáng
tạo của ý thức và mối quan hệ biện chứng giửa vật chất và ý thức. Chủ
nghĩa duy vật nói chung và chủ nghĩa duy vật biện chứng nói riêng đã
xây dựng nên một phương pháp luận cơ bản chung nhất đối với mọi hoạt
động nhận thức và thực tiển của con người. Nguyên tắc đó là trong mọi
hoạt động nhận thức và thực tiển đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế khách
21

quan, đồng thời phát huy tính năng động chủ quan. Tức là mọi hoạt động
nhận thức của con người chỉ có thể đúng đắng thành công và có hiệu quả
khi thực hiện đồng thời giửa việc xuất phát từ thực tế khách quan, tôn
trong thực tế khách quan với với phát huy tính năng động chủ quan; phát
huy tính năng động chủ quan phải là trên cơ sở và trong phạm vi điều
kiện khách quan, chống chủ quan duy ý chí trong nhận thức và thực tiển.
Cụ thể là:
+ Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng chủ quan là xuất phát từ
tính khách quan của vật chất, có thái độ tôn trọng hiện thực khách quan,
mà căn bản là tôn trọng quy luật, nhận thức và hành động theo quy luật;
tôn trọng vai trò quyết định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh
thần của con ngưởi, của xã hội. Điều đó đòi hỏi trong nhận thức và hành
động của con người phải xuất phát từ thực tế khách quan để xác định mục
đích, đề ra đường lối chủ trương, chính sách kế hoạch biện pháp; phải lấy
thực tế khách quan làm phương tiện; phải làm ra nhân tố vật chất, tổ chức
những nhân tố ấy thành lực lượng vật chất để hành động.
+ Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực, năng
động sáng tạo của ý thức và vai trò của nhân tố con người trong việc vật
chất hóa tích cực, năng động sáng tạo ấy. Điều này đòi hỏi con người
phải tôn trọng tri thức khoa học; tích cực học tập nghiên cứu để làm chủ
tri thức khoa học và truyền bá nó vào quần chúng để nó trở thành tri thức,
niềm tin của quần chúng, hướng dẩn quần chúng đến hành động. Mặt
khác, phải tự giác tu dưỡng rèn luyện để hình thành, củng cố nhân sinh
quan cách mạng , tình cảm, nghị lực cách mạng để có sự thống nhất giửa
tính khoa học và tính nhân văn trong định hướng hành động.
Đồng thời thực hiện nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính
năng động chủ quan trong nhận thức và thực tiển đòi hỏi phải phòng
chống bệnh chủ quan duy ý chí; đó là những hành động lấy ý chí áp đặt
cho thực tế, lấy lấy ảo tưởng thay thế cho hiện thực, lấy ý muốn chủ quan
22

làm chính sách, lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược. Đây
cũng phải là quá trình thống nhất chủ nghĩa kinh nghiệm, xem thường tri
thức khoa học, xem thường lý luận, bảo thủ, thụ động trong hoạt động
nhận thức và thực tiển.
Sinh viên:
Nguyễn Tấn Thành
Tài liệu tham khảo:
1. GIÁO TRÌNH TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN (nxb chính trị quốc
gia)
2. GIÁO TRÌNH NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ
NGHĨA MÁC-LÊNIN (nxb chính trị quốc gia)
3. HỎI ĐÁP MÔN NHỮNG NGHUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA
CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN (nxb chính trị quốc gia).
4. HƯỚNG DẨN ÔN THI MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
(nxb đại học quốc gia Hà Nội).
5. TÀI LIỆU TRUY CẬP TỪ INTERNET
23

×