Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Quan hệ đối ngoại quốc tế giữ vững thế mạnh tài nguyên trong quan hệ kinh tế potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.92 KB, 68 trang )

lời mở đầu
Trong định hướng phát triển kinh tế xã hội theo chính sách mở cửa, đưa nền
kinh tế nước ta hội nhập vào sự phát triển chung của khu vực và thế giới, Đảng và
Nhà nước ta đã khẳng định “Chiến lược phát triển kinh tế Việt nam trong giai đoạn
này là hướng về xuất khẩu, thay thế nhập khẩu”. Việt nam với chính sách đa
phương hố và đa dạng hoá quan hệ quốc tế đã từng bước hội nhập vào nền kinh tế
thương mại khu vực và toàn cầu. Việt nam hiện nay đã là thành viên của ASEAN,
APEC, ASEM... đã ký hiệp định thương mại với Mỹ và cố gắng đến năm 2005 Việt
nam sẽ là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Không thể phủ nhận rằng trong thời gian qua, nguồn vốn đầu tư nước ngồi
đã và đang góp phần quan trọng giúp cho nền kinh tế Việt Nam từng bước chuyển
mình và hội nhập vào với nền kinh tế khu vực và thế giới. Trong đó luồng vốn đầu
tư trực tiếp nước ngồi thơng qua các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tại Việt
Nam đã và đang tăng lên nhanh chóng. Khơng chỉ tính đến nguồn lực về tài chính
mà cả các công nghệ hiện đại cũng được chuyển vào Việt Nam. Trong rất nhiều các
doanh nghiệp nước ngồi đó thì cơng ty TNHH Volex là một điển hình. Đây là một
cơng ty 100% vốn nước ngồi tại Việt Nam, sản xuất xuất khẩu những hàng hoá
thiết bị truyền dẫn, là mặt hàng rất mới phục vụ cho thị trường hàng hố cơng nghệ
thơng tin điện tử mà Việt Nam chưa sản xuất được.
Theo xu hướng phát triển mạng lưới cơng nghệ thơng tin điện tử như hiện
nay thì thị trường Việt Nam cần phải có các mặt hàng đó để đáp ứng cho nhu cầu
của thị trường điện tử viễn thơng. Chính vì vậy, vai trị của cơng ty TNHH Volex là


vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam. Hoạt động sản xuất xuất khẩu
hàng hoá thiết bị điện của công ty trước hết là để phục vụ cho nhu cầu thị trường
trong nước vì đây là sản phẩm mà các công ty trong nước chưa sản xuất được và
tiếp sau đó là để xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Việc nghiên cứu hoạt động
xuất khẩu và đưa ra giải pháp để thúc đẩy hoạt động này phát triển là một vấn đề
mang tính cấp thiết đối với công ty hiện nay. Do vậy em đã quyết định chọn đề tài :
“Thực trạng và giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hố của cơng


ty TNHH Volex Việt Nam trong tiến trình hội nhập Kinh tế Quốc tế” làm đề tài
nghiên cứu cho Chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là dựa trên những cơ sở lý luận về hoạt
động xuất khẩu, cũng như nghiên cứu thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng hố của
cơng ty TNHH Volex để từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển
của hoạt động này trong thời gian tới.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu là hoạt động xuất khẩu hàng hố thiết bị
điện của cơng ty TNHH Volex.
Phương pháp nghiên cứu : Đề tài này có sử dụng các phương pháp nghiên
cứu như là phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh
phương pháp dự báo.
Ngoài lời mở đầu và phần kết luận thì kết cấu nội dung của Chun đề gồm
có 3 chương:
Chương 1 : Những vấn đề lý luận chung về hoạt động xuất khẩu.


Chương 2 : Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng hó của cơng ty TNHH
Volex Việt Nam trong những năm qua.
Chương 3 : Phương hướng, các giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy mạnh hoạt
động xuất khẩu hàng hoá của cơng ty TNHH Volex Việt Nam.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do thời gian có hạn và trình độ nghiên
cứu cịn có nhiều hạn chế nên đề tài sẽ khơng tránh khỏi những sai sót và nhược
điểm. Vì vậy em kính mong thầy cơ và các bạn sẽ có thêm góp ý để đề tài này được
hồn thiện hơn.
chương 1 những vấn đề lý luận chung về hoạt động xuất khẩu
1.1.

Khái quát chung về hoạt động xuất khẩu

1.1.1. Khái niệm về xuất khẩu.

Thương mại quốc tế nói chung và xuất khẩu nói riêng là một trong những hình thức
chủ yếu của hoạt động kinh doanh quốc tế. Đó là hoạt động mua bán, hoặc trao đổi
hàng hoá và dịch vụ vượt qua biên giới các quốc gia. Thương mại quốc tế khác với
nội thương - hoạt động trao đổi diễn ra giữa các vùng, các địa phương, hoặc các
thành phố trong phạm vi một nước. Trao đổi hàng hố là một hình thức của các mối
quan hệ kinh tế xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản
xuất kinh doanh hàng hoá riêng biệt của các quốc gia. Xuất khẩu là lĩnh vực quan
trọng nhằm tạo điều kiện cho các nước tham gia vào phân công lao động quốc tế,
phát triển kinh tế và làm giàu cho đất nước.
Xuất khẩu là một bộ phận của hoạt động thương mại quốc tế trong đó hàng hoá và
dịch vụ được bán, cung cấp cho nước ngoài nhằm thu ngoại tệ. Đây là hoạt động


kinh doanh bn bán trên phạm vi quốc tế, nó không chỉ là một hành vi buôn bán
đơn lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức bên trong
và bên ngồi nhằm mục đích lợi nhuận, thúc đẩy hàng hố sản xuất phát triển,
chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, ổn định và nâng cao mức sống của nhân dân. Mặt
khác hoạt động này dễ đem lại hiệu quả đột biến nhưng có thể lại gây ra thiệt hại
lớn vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể
trong nước tham gia xuất khẩu không dễ dàng khống chế được.
Hoạt động xuất khẩu được diễn ra trong mọi lĩnh vực, mọi điều kiện kinh tế, từ
xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng đến xuất khẩu tư liệu sản xuất, từ máy móc thiết bị
cho đến các máy móc cơng nghệ kỹ thuật cao, từ hàng hố hữu hình đến hàng hố
vơ hình. Tất cả đều nhằm mục tiêu đem lại lợi ích cho các quốc gia tham gia. Nó
diễn ra trong phạm vi rất rộng cả về khơng gian và thời gian, có thể diễn ra trong
một ngày hay kéo dài hàng năm, có thể diễn ra trên phạm vi lãnh thổ một quốc gia
hay nhiều quốc gia khác nhau.

Nếu xét dưới góc độ các hình thức kinh doanh quốc tế thì xuất khẩu là hình thức cơ
bản đầu tiên mà các doanh nghiệp áp dụng khi bước vào lĩnh vực kinh doanh quốc

tế. Mọi công ty luôn hướng tới xuất khẩu những sản phẩm và dịch vụ của mình ra
nước ngồi và đây được coi là chiến lược quan trọng của cơng ty.
Có nhiều ngun nhân khuyến khích các cơng ty thực hiện xuất khẩu như là :
+ Sử dụng khả năng vượt trội hay những lợi thế của công ty để mở rộng thị trường
tiêu thụ hàng hoá và thu lợi nhuận tối đa.


+ Giảm được chi phí cho một đơn vị sản phẩm do nâng cao khối lượng sản xuất.
+ Giảm được rủi ro do có thể tối thiểu hố sự dao động của nhu cầu.
Tuy nhiên đối với các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu trước khi bước
vào nghiên cứu thực hiện các nghiệp vụ phải nắm bắt được các thơng tin về nhu
cầu hàng hố, thị hiếu, tập quán tiêu dùng, khả năng mở rộng sản xuất, giá cả và xu
hướng biến động của nó. Những điều này luôn nằm trong tư duy của mỗi nhà kinh
doanh xuất khẩu để có thể nắm bắt được các cơ hội kinh doanh trong thương mại
quốc tế.
1.1.2. Một số lý thuyết về thương mại quốc tế.
Các lý thuyết về thương mại quốc tế nhằm giải thích cơ sở hình thành nên
hoạt động thương mại giữa các quốc gia, xác định cơ cấu thương mại và lợi ích mà
mỗi quốc gia thu được khi tham gia vào thương mại quốc tế. Các quốc gia tham gia
vào thương mại với những lợi thế của mình với mục đích thu được thật nhiều
những lợi ích từ thương mại.
1.1.2.1. Quan điểm của trường phái trọng thương :
Quan điểm của trường phái trọng thương về thương mại cho rằng các quốc
gia cần tích luỹ nguồn của cải tài chính, thường là bằng vàng, bằng cách khuyến
khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, được gọi là chủ nghĩa trọng thương. Quan
điểm này cho rằng lượng của cải của một quốc gia là thước đo phúc lợi duy nhất
của quốc gia đó. Các quan điểm trọng thương được biểu hiện như sau :
Các quốc gia có thể tăng lượng của cải của mình bằng cách duy trì mức
thặng dư thương mại - tức khi giá trị xuất khẩu của một quốc gia lớn hơn giá trị



nhập khẩu của quốc gia đó. Thặng dư thương mại có nghĩa là quốc gia thu được
nhiều vàng hơn từ xuất khẩu so với lượng vàng phải thanh toán cho nhập khẩu.
Thâm hụt thương mại là tình huống ngược lại và xảy ra khi giá trị nhập khẩu của
một quốc gia lớn hơn giá trị xuất khẩu của quốc gia đó. Theo quan điểm trọng
thương thì quốc gia cần phải tránh tình trạng thâm hụt thương mại bằng mọi giá.
Các Chính phủ phải tích cực can thiệp vào thương mại quốc tế để duy trì
mức thặng dư thương mại. Quá trình tích luỹ của cải phụ thuộc vào việc gia tăng
mức thặng dư thương mại, chứ không nhất thiết phải dựa vào việc mở rộng quy mô
hoặc gia tăng giá trị thương mại. Chính phủ có thể đạt được điều này bằng cách
cấm nhập khẩu một số mặt hàng, hoặc áp đặt các công cụ hạn chế nhập khẩu như
thuế quan và hạn ngạch. Đồng thời, các ngành công nghiệp trong nước được trợ
cấp để có thể đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Chính phủ cũng thường áp dụng biện
pháp cấm chuyển vàng bạc tới các nước khác.
Các quốc gia theo quan điểm của trường phái trọng thương tìm cách biến
các vùng lãnh thổ kém phát triển (các thuộc địa) thành nơi cung cấp nguồn nguyên
vật liệu thô rẻ tiền, và đồng thời thành nơi tiêu thụ các thành phẩm với giá cao.
Mặc dầu chính sách trọng thương mang lại nhiều lợi ích cho những quốc gia
theo đuổi nó, nhưng chính sách này có rất nhiều mặt hạn chế. Hạn chế chủ yếu của
chủ nghĩa trọng thương là ở chỗ nếu tất cả các quốc gia đều tìm cách ngăn cản nhập
khẩu từ nước ngồi vào thị trường của mình và đẩy mạnh xuất khẩu sang các nước
khác thì thương mại quốc tế sẽ bị thu hẹp một cách ghê gớm. Ngoài ra, việc nhập
khẩu từ các thuộc địa với giá rẻ trong khi xuất khẩu sang các nước đó với giá cao


đã ngăn cản sự phát triển kinh tế ở những nước thuộc địa, từ đó làm giảm sức tiêu
thụ hàng hố ở những nước này. Các quốc gia này cịn cho rằng của cải của thế giới
là có hạn cho nên sự giàu có của một quốc gia chỉ có thể diễn ra khi ít nhất có một
quốc gia khác nghèo đi. Thương mại quốc tế vì vậy được coi là một trị chơi có
tổng lợi ích bằng 0. Nhưng thực tế cho thấy rằng các quốc gia khi tham gia vào

thương mại quốc tế đều có thể thu được lợi ích cho mình, nghĩa là sự giàu có của
các quốc gia khơng chỉ dựa vào lượng vàng được tích trữ ở quốc gia đó mà cịn dựa
trên nhiều nhân tố kinh tế xã hội khác như là văn hoá xã hội, đời sống nhân dân ...
1.1.2.2. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith :
Khác với trường phái trọng thương, Adam Smith cho rằng : “sự giàu có của
mỗi quốc gia phụ thuộc vào số hàng hoá và dịch vụ có sẵn hơn là phụ thuộc vào
vàng”. Khả năng của một quốc gia có thể sản xuất một mặt hàng với hiệu quả cao
hơn bất kỳ quốc gia nào khác được gọi là lợi thế tuyệt đối của quốc gia đó. Nói
cách khác, với nguồn lực có quy mơ như nhau (hoặc nhỏ hơn), một quốc gia có lợi
thế tuyệt đối về một mặt hàng nào đó có thể làm ra lượng sản phẩm nhiều hơn so
với các quốc gia khác.
Ơng lập luận rằng một nước khơng nhất thiết phải sản xuất tất cả các mặt
hàng tiêu dùng trong nước, mà ngược lại mỗi nước có thể tập trung sản xuất những
mặt hàng mà mình có lợi thế tuyệt đối và sau đó bn bán với các nước khác để đổi
lấy những mặt hàng mà mình khơng có lợi thế tuyệt đối. Theo ông, nếu mỗi quốc
gia đều chun mơn hố vào những ngành sản xuất mà họ có lợi thế tuyệt đối, thì
họ có thể sản xuất được những sản phẩm có chi phí thấp hơn so với nước khác để


xuất khẩu, đồng thời lại nhập khẩu những hàng hoá mà nước này không sản xuất
hoặc sản xuất được nhưng có chi phí cao hơn giá nhập khẩu.
Nhờ sự chun mơn hố các nước có thể gia tăng hiệu quả sản xuất của
mình, các sản phẩm cũng có chất lượng tốt hơn bởi vì người lao động sẽ lành nghề
hơn do công việc được lặp lại nhiều lần, họ không mất thời gian trong việc chuyển
sản xuất sản phẩm này sang sản phẩm khác. Ngồi ra, do làm một cơng việc lâu dài
nên người lao động sẽ có nhiều kinh nghiệm, các sáng kiến và các phương pháp
làm việc tốt hơn.
Ông phê phán sự phi lý của lý thuyết trọng thương và chứng minh rằng:
thương mại sẽ giúp các bên cùng giầu có lên nghĩa là cùng thu được lợi ích. Do cả
hai nước đều có lợi từ việc trao đổi nên thương mại quốc tế là trị chơi có tổng lợi

ích lớn hơn 0. Lý thuyết này cũng phê phán quan điểm cho rằng mục tiêu của
Chính phủ là phải sử dụng các chính sách hạn chế thương mại để gia tăng của cải
cho quốc gia. Ngược lại, các quốc gia cần mở cửa và trao đổi thương mại để người
dân của mình có thể mua được nhiều hàng hoá hơn và với giá rẻ hơn.
Mặc dầu cho thấy thương mại là có lợi cho các bên tham gia, nhưng lý
thuyết lợi thế tuyệt đối không trả lời được câu hỏi : điều gì xảy ra nếu một nước
khơng có được lợi thế tuyệt đối về bất kì mặt hàng nào ? Liệu thương mại có mang
lại lợi ích hay khơng, hay thậm chí thương mại có thể diễn ra được hay không ?
Trên thực tế, thương mại quốc tế có thể diễn ra mà khơng nhất thiết địi hỏi các nhà
xuất khẩu phải có lợi thế tuyệt đối so với các đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Để trả


lời những câu hỏi này cần xem xét một khái niệm rộng hơn, cụ thể là khái niệm về
lợi thế so sánh như sau :
1.1.2.3. Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo :
Theo lý thuyết này, nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc
gia khác trong việc sản xuất tất cả các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể
tham gia vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích cho quốc gia mình. Nói cách khác
trong điểm bất lợi vẫn có những điểm thuận lợi để khai thác khi tham gia vào hoạt
động xuất khẩu, những quốc gia có hiệu quả thấp trong việc sản xuất ra các loại
hàng hố sẽ có thể chun mơn hố sản xuất hàng hố ít bất lợi nhất để trao đổi với
các quốc gia khác và nhập về những hàng hoá mà việc sản xuất ra nó gặp rất nhiều
khó khăn và bất lợi. Từ đó tiết kiệm được nguồn lực của mình và thúc đẩy sản xuất
trong nước.
Để thấy được vai trò của lý thuyết lợi thế so sánh trong việc giải thích
thương mại quốc tế, ta có thể xem xét ví dụ sau :
Giả sử rằng quốc gia A có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất cả hai mặt
hàng gạo và chè so với quốc gia B. Bảng dưới đây cho thấy số lượng lao động mà
mỗi nước sử dụng để sản xuất gạo và chè. Quốc gia A chỉ cần 1 lao động để sản
xuất 1 tấn gạo, cần 2 lao động để sản xuất 1 tấn chè. Quốc gia B cần 6 lao động để

sản xuất 1 tấn gạo và 3 lao động để sản xuất 1 tấn chè.
Hiệu quả sản xuất gạo và chè của mỗi quốc gia có thể được biểu thị lại như
sau :
Quốc gia A : 1 lao động = 1 tấn gạo hoặc 1/2 tấn chè.


Quốc gia B : 1 lao động = 1/6 tấn gạo hoặc 1/3 tấn chè.
Như vậy với mỗi lao động được sử dụng thì quốc gia A đều sản xuất được
nhiều gạo và chè hơn quốc gia B, hay nói cách khác quốc gia A có lợi thế tuyệt đối
trong sản xuất cả hai mặt hàng. Mặc dầu không thể sản xuất gạo hoặc chè với hiệu
quả cao hơn so với quốc gia A, nhưng quốc gia B có thể sản xuất chè một cách hiệu
quả hơn so với sản xuất gạo.
Lại giả sử rằng hai nước A và B quyết định trao đổi với nhau theo tỷ lệ 1 tấn
gạo = 1 tấn chè. Quốc gia B có thể sử dụng 1 lao động để sản xuất 1/6 tấn gạo. Thế
nhưng giải pháp tốt hơn là sử dụng lao động đó để sản xuất 1/3 tấn chè và sau đó
trao đổi với quốc gia A lấy 1/3 tấn gạo. Khi đó, nhờ chun mơn hố sản xuất và
trao đổi, quốc gia B có được lượng gạo nhiều gấp đơi so với trường hợp tự sản xuất
lấy gạo. Quốc gia A cũng thu được lợi ích từ thương mại dẫu cho nước này có lợi
thế tuyệt đối kép. Quốc gia A có thể bỏ ra 1 lao động để sản xuất 1/2 tấn chè. Tuy
nhiên, tốt hơn là nước này nên sử dụng lao động đó để sản xuất 1 tấn gạo và trao
đổi với quốc gia B lấy 1 tấn chè. Khi đó quốc gia A cũng có được lượng chè nhiều
hơn hai lần so với trường hợp tự mình sản xuất lấy chè.
Như vậy qua ví dụ trên ta thấy được lợi ích của việc trao đổi sản phẩm giữa
các quốc gia thông qua việc xuất nhập khẩu hàng hố. Sự chun mơn hố sản xuất
những sản phẩm mà mình có lợi thế để xuất khẩu và nhập khẩu về những hàng hố
mà mình ít có lợi thế hơn sẽ giúp cho việc sử dụng tốt nhất và hiệu quả nhất các
nguồn lực của mỗi nước. Khi mỗi quốc gia thực hiện chun mơn hố sản xuất mặt


hàng mà quốc gia đó có lợi thế so sánh thì tổng sản lượng tất cả các mặt hàng của

tồn thế giới sẽ tăng lên, và tất cả các quốc gia sẽ trở nên sung túc hơn.
Nhà nước do đó không nên can thiệp sâu vào hoạt động ngoại thương và
không nên áp dụng các biện pháp ép buộc cứng nhắc cho hoạt động này. Các quốc
gia chỉ nên tìm cách đề ra các biện pháp hợp lý để sử dụng tối ưu nhất các nguồn
lực của mình sao cho khi đem trao đổi thì được lợi nhất, đó chính là nội dung cơ
bản của lý thuyết lợi thế so sánh. Cho đến nay, hoạt động chun mơn hố các mặt
hàng mà mình có lợi thế đã được các quốc gia trên thế giới áp dụng một cách triệt
để và đã thu được những kết quả tốt. Kết quả là thương mại quốc tế hiện nay đã
phát triển rất nhanh và đã đạt được những thành tựu to lớn, đó là sự hình thành các
khu mậu dịch tự do về thương mại để khuyến khích trao đổi thương mại, các liên
minh về thương mại của khu vực và thế giới.
1.1.3. Các hình thức xuất khẩu.
1.1.3.1. Xuất khẩu trực tiếp :
Xuất khẩu trực tiếp là việc xuất khẩu các hàng hoá và dịch vụ mà doanh
nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất khác, sau đó xuất khẩu
những sản phẩm đó cho các khách hàng nước ngồi với danh nghĩa là hàng của
mình.
Hình thức này có ưu điểm là lợi nhuận thu được của các đơn vị kinh doanh
thường cao hơn các hình thức khác. Với hình thức này doanh nghiệp đứng ở thế
chủ động trong hoạt động kinh doanh, mọi lợi nhuận doanh nghiệp được hưởng hết.
Với vai trò là người bán hàng trực tiếp, doanh nghiệp có thể nâng cao uy tín của


mình thơng qua quy cách và phẩm chất hàng hố, tiếp cận thị trường và nắm bắt
được nhu cầu thị hiếu của khách hàng.
Tuy vậy hình thức này địi hỏi doanh nghiệp phải ứng trước một lượng vốn
khá lớn để sản xuất, thu mua hoặc có thể gặp rất nhiều khó khăn, rủi ro như : khơng
xuất được hàng hố, khơng thu mua được hàng hố, bị thanh tốn chậm, thay đổi tỷ
giá hối đối, lạm phát...
Chính vì vậy mà để có thể thực hiện nghiệp vụ này thành cơng thì doanh

nghiệp cần phải có nghiệp vụ ngoại thương cao và có kinh nghiệm xuất khẩu tốt.
Khi doanh nghiệp đã có đủ khả năng và kinh nghiệm để thực hiện nghiệp vụ kinh
doanh này thành cơng thì nguồn lợi mà doanh nghiệp thu về là rất lớn.
1.1.3.2. Xuất khẩu tại chỗ :
Đây là hình thức xuất khẩu mà hàng hố không nhất thiết phải ra khỏi biên
giới quốc gia để đến tay khách hàng. Là hình thức xuất khẩu mà hàng hoá vẫn
trong lãnh thổ quốc gia nhưng vẫn được bán cho các khách hàng nước ngồi.
Hình thức này có nhiều ưu điểm và đang phổ biến rộng rãi ở mọi quốc gia.
Trước hết là do đặc điểm của nghiệp vụ này là hàng hố khơng ra khỏi biên giới
quốc gia nên doanh nghiệp xuất khẩu tránh được nhiều rủi ro vì được thực hiện bán
hàng hố ngay trong mơi trường quen thuộc nhất. Ngồi ra doanh nghiệp cịn giảm
được những chi phí về vận chuyển, về nghiên cứu thị trường mới, về thuê đại lý
phân phối...và bỏ qua được những hợp đồng phụ trợ như hợp đồng vận tải, bảo
hiểm, thủ tục hải quan...


Tuy nhiên hình thức xuất khẩu này thường khơng chiếm tỷ lệ lớn trong hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp vì lợi nhuận thu được là nhỏ.
Phần lớn doanh nghiệp thực hiện mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu ra nước ngồi nhằm
mở rộng thị trường về khơng gian và tìm kiếm thêm nhiều thị trường mới, bạn hàng
mới...
Đối với doanh nghiệp có chi nhánh ở nước ngồi, thực hiện kinh doanh ngay
tại thị trường đó thì hình thức này lại là phổ biến và hiệu quả. Đó là nhờ vào lợi thế
về vị trí, ở ngay thị trường tiêu thụ sẽ giảm thiểu được những chi phí vận chuyển và
những thủ tục rườm rà. Nhưng bước đầu để thực hiện được thì doanh nghiệp cũng
phải có vốn lớn và có những kinh nghiệm trong việc kinh doanh và chiếm lĩnh thị
trường nước sở tại.
1.1.3.3. Tạm nhập tái xuất :
Đây là hoạt động xuất khẩu những hàng hoá mà đã được nhập khẩu trước đó
nhưng khơng qua một công đoạn gia công, chế biến nào. Hoạt động này nhằm thu

lợi nhuận thông qua chênh lệch giá cả giữa nhập khẩu (mua) và xuất khẩu (bán).
Hình thức này có ưu điểm là ít rủi ro hơn các hình thức khác, dễ thực hiện
thành công hơn. Doanh nghiệp không cần phải bỏ ra lượng vốn lớn mà vẫn có thể
thu được nhiều lợi nhuận. Tuy nhiên hoạt động kinh doanh này thường khơng lâu
dài và có quy mơ nhỏ hẹp vì nó chỉ thực hiện được ở những thị trường thiếu hàng
hóa hoặc khơng thể sản xuất được hàng hố đó, thơng thường hình thức này diễn ra
đối với hàng hoá là nguyên vật liệu.


Doanh nghiệp có thể kết hợp hình thức kinh doanh này với các hình thức
khác để tăng thêm lợi nhuận.
1.1.3.4. Xuất khẩu gia công :
* Xuất khẩu gia công uỷ thác : Theo hình thức này, các doanh nghiệp kinh
doanh hàng xuất khẩu đứng ra nhập nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho các
doanh nghiệp khác gia cơng, sau đó thu hồi thành phẩm để xuất lại cho bên nước
ngoài. Doanh nghiệp sẽ được hưởng phí uỷ thác theo thoả thuận với các doanh
nghiệp trực tiếp chế biến.
Các bước tiến hành của hình thức này như sau :
+ Ký kết hợp đồng gia công với bên nhận gia công.
+ Ký kết hợp đồng gia công với bên đặt gia công và nhập nguyên liệu từ bên
đặt ra công về.
+ Giao ngun vật liệu đó cho bên nhận gia cơng (theo hợp đồng đã thoả
thuận).
+ Nhập lại thành phẩm từ bên gia công và xuất lại cho bên dặt gia công hàng
hố đó.
+ Thanh tốn chi phí gia cơng cho đơn vị gia công (do bên đặt gia công trả)
và được hưởng phí ủy thác gia cơng.
Hình thức này có ưu điểm là không cần bỏ vốn vào kinh doanh những vẫn
thu được lợi nhuận, ít rủi ro, việc thanh tốn được bảo đảm vì đầu ra chắc chắn.
Song hình thức này lại đòi hỏi rất nhiều thủ tục xuất và nhập do phải xuất và nhập



nhiều lần. Do đó để thực hiện tốt hình thức này các doanh nghiệp cần phải có
những cán bộ kinh doanh kinh nghiệm về nghiệp vụ xuất nhập khẩu.
Hình thức xuất khẩu theo đơn đặt hàng của nước ngoài cũng tương tự như
hình thức này, chỉ khác là đơn vị sản xuất phải tự tìm lấy nguồn nguyên liệu để sản
xuất ra các sản phẩm theo đúng yêu cầu của đơn đặt hàng.
* Gia công quốc tế : Đây là hình thức trong đó bên nhận gia cơng nhập
ngun liệu hoặc bán thành phẩm của bên đặt gia công để chế biến ra thành phẩm
theo yêu cầu của bên đặt gia cơng, sau đó xuất khẩu để giao lại thành phẩm và nhận
thù lao gọi là phí gia cơng.
Ưu điểm của hình thức này là giúp bên nhận gia cơng tạo công ăn việc làm cho
người lao động, nhận được các thiết bị công nghệ tiên tiến để phát triển sản xuất.
Đây là hình thức được áp dụng phổ biến ở các nước đang phát triển có nguồn nhân
lực dồi dào. Đối với nước đặt gia công cũng được hưởng lợi vì họ tận dụng được
nguồn nhân cơng với giá rẻ, cũng như tận dụng được nguồn nguyên vật liệu sẵn có
của bên nước nhận gia cơng. Như vậy hình thức này đã góp phần tạo ra sự kết hợp
và chun mơn hố giữa các quốc gia trong q trình sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm, nhờ đó thương mại ngày càng phát triển với trình độ cao hơn.
1.1.3.5. Xuất khẩu uỷ thác :
Trong hình thức này các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu đứng ra
đóng vai trị là trung gian xuất khẩu, làm thaycho các đơn vị sản xuất (bên có hàng)
những thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng và hưởng phẩn trăm theo giá trị hàng
xuất khẩu đã được thoả thuận.


Các bước tiến hành của hình thức này :
+ Ký hợp đồng nhận uỷ thác xuất khẩu cho các đơn vị sản xuất trong nước.
+ Ký hợp đồng với bên nước ngồi, giao hàng và thanh tốn tiền hàng.
+ Nhận uỷ thác xuất khẩu cho các đơn vị trong nước.

Hình thức này có ưu điểm là mức độ rủi ro thấp, ít trách nhiệm, người đứng
ra xuất khẩu khơng phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng, đặc biệt không cần
vốn để mua hàng. Phương thức thanh toán được đảm bảo, có ít thủ tục và thường là
có sự tin cậy lẫn nhau. Tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay thì hình thức này ít được
các doanh nghiệp lựa chọn, bởi vì hình thức này tạo ra sự phụ thuộc của doanh
nghiệp xuất khẩu với các trung gian nhận uỷ thác xuất khẩu do tình trạng thiếu
thơng tin và làm hạn chế khả năng của doanh nghiệp. Hầu hết các dốnh nghiệp sẽ
lựa chọn hình thức xuất khẩu trực tiếp, nhưng trong một số hồn cảnh cụ thể thì
doanh nghiệp có thể sử dụng hình thức xuất khẩu uỷ thác để đảm bảo cho hoạt
động xuất khẩu của mình khi vào một thị trường mới.

1.1.3.6. Buôn bán đối lưu :
Buôn bán đối lưu là phương thức giao dịch mà trong đó xuất khẩu kết hợp
chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng trao đổi có
giá trị tương đương với giá trị lơ hàng đã xuất. Mục đích xuất khẩu khơng phải là
thu lợi nhuận mà nhằm thu về một lượng hàng tương đương với giá trị của lơ hàng
đã xuất. Ngồi ra cịn là nhằm tránh các rủi ro do sự biến động của tỷ giá hối đoái
trên thị trường ngoại hối.


Có rất nhiều loại hình bn bán đối lưu như sau :
+ Hình thức hàng đổi hàng là việc hai bên trao đổi trực tiếp với nhau những
hàng hố có giá trị tương đương, việc giao hàng diễn ra hầu như đồng thời. Trong
nghiệp vụ hàng đổi hàng hiện đại như ngày nay thì người ta có sử dụng tiền để
thanh tốn một phần tiền hàng, hơn nữa lại có thể thu hút tới 3 - 4 bên tham gia. Ưu
điểm cảu hình thức này là các bên khơng cần phải thông qua các giai đoạn trung
gian bán hàng- nhận tiền- mua hàng mà có thể đổi hàng lấy hàng mà mình cần thiết
ln. Tuy nhiên, hình thức này thường chỉ áp dụng khi các bên tham gia trao đổi đã
có sự tin tưởng lẫn nhau hoặc đã tạo được uy tín cho nhau về sản phẩm đem trao
đổi, chính vì vậy mà hình thức này cịn có nhiều hạn chế.

+ Hình thức bù trừ là hai bên trao đổi hàng hoá với nhau trên cơ sở ghi trị
giá hàng giao và hàng nhận, đến cuối kỳ hạn hai bên mới đối chiếu sổ sách, so sánh
giữa giá trị hàng giao với giá trị hàng nhận. Nếu sau khi bù trừ tiền hàng như thế
mà cịn số dư thì số tiền đó được giữ lại để chi trả theo yêu cầu của bên chủ nợ về
những khoản chi tiêu của bên chủ nợ tại nước bị nợ.
Đây là hình thức phát triển nhanh nhất của buôn bán đối lưu. Hợp đồng bù
trừ thường được ký kết cho thời gian dài ( có khi tới 10 hoặc 20 năm).
+ Hình thức bn bán có thanh tốn bình hành ( clearing) là việc hai chủ thể
của quan hệ buôn bán thoả thuận chỉ định ngân hàng thanh toán. Ngân hàng này
mở tài khoản, gọi là tài khoản clearing để ghi chép tổng giá trị hàng giao nhận của
mỗi bên. Sau một thời hạn quy định, ngân hàng mới quyết toán tài khoản clearing


và bên bị nợ (tức nhận nhiều mà giao ít) sẽ phải trả khoản nợ bội chi mà mình đã
gây ra.
+ Hình thức mua đối lưu là hình thức một bên sẽ ký kết hợp đồng có thanh
tốn và cam kết, sau đó một khoảng thời gian nhất định sẽ bán cho bên kia một
lượng hàng hoá khác và cũng được nhận tiền thanh toán. Giá trị của hai hợp đồng
này không nhất thiết phải bằng nhau, việc trao đổi hàng hố trong khn khổ mua
đối lưu được thực hiện trong một thời gian không dài (thường từ 1 đến 5 năm).
+ Hình thức chuyển nợ (switch) là bên nhận hàng chuyển khoản nợ về tiền
hàng cho một bên thứ ba để bên thứ ba này trả tiền. Hình thức này đảm bảo cho các
công ty, nếu nhận hàng không phù hợp với lĩnh vực kinh doanh của mình thì có thể
bán hàng đó đi.
+ Hình thức giao dịch bồi hồn (offset) là việc đổi hàng hố và/hoặc dịch vụ
và ưu huệ (như ưu huệ trong đầu tư hoặc bán sản phẩm). Giao dịch bồi hoàn hiện
nay chiếm gần 1/4 số hợp đồng bn bán đối lưu. Nó thường xảy ra trong lĩnh vực
buôn bán những ký thuật quân sự đắt tiền trong việc giao những chi tiết và cụm chi
tiết trong khuôn khổ hợp tác công nghiệp.
+ Trong việc chuyển giao công nghệ, người ta thường tiến hành nghiệp vụ

mua lại sản phẩm (buy-backs) trong đó một bên cung cấp thiết bị tồn bộ và/hoặc
sáng chế hoặc bí quyết kỹ thuật cho bên khác, đồng htời cam kết mua lại những sản
phẩm do thiết bị hoặc sáng chế hoặc bí quyết kỹ thuật đó chế tạo ra.
1.1.3.7. Xuất khẩu theo nghị định thư :


Hình thức này thường áp dụng cho xuất khẩu hàng hố, thường là những
hàng trả nợ, được kí theo nghị định thư giữa hai Chính phủ. Xuất khẩu theo hình
thức này có ưu điểm là khả năng thanh tốn được đảm bảo (do Nhà nước trả cho
các đơn vị sản xuất), giá cả tương đối cao nhưng hình thức này ngày nay ít được áp
dụng.
1.1.4. Vai trị của hoạt động xuất khẩu.
* Đối với nền kinh tế quốc dân :
Xuất khẩu có vai trị đặc biệt quan trọng trong q trình phát triển kinh tế của từng
quốc gia. Các lý thuyết về tăng trưởng và phát triển đều chỉ ra rằng, để tăng trưởng
và phát triển kinh tế, mỗi quốc gia cần có bốn điều kiện là nguồn nhân lực, tài
nguyên, vốn và khoa học công nghệ. Song không phải quốc gia nào cũng có đầy đủ
những điều kiện đó. Hiện nay, các nước đang phát triển đang thiếu vốn và kỹ thuật
công nghệ nhưng lao động và nguồn tài nguyên lại rất dồi dào. Các nước phát triển
thì lại dồi dào về vốn và khoa học công nghệ nhưng lại thiếu lao động và tài
nguyên thiên nhiên. Để giải quyết tình trạng này, họ buộc phải nhập từ bên ngoài
những yếu tố sản xuất trong nước chưa sản xuất hoặc gặp khó khăn trong sản xuất,
có nghĩa là cần phải có một nguồn ngoại tệ chính là khoản ngoại tệ thu về từ xuất
khẩu. Xuất khẩu là hoạt động chính tạo ra tiền đề cho nhập khẩu, tạo điều kiện cho
quy mô và tốc độ tăng trưởng của nhập khẩu.
Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân thể hiện qua một số khía cạnh
sau :


+ Xuất khẩu đảm bảo cho khả năng phát triển kinh tế : ở những nước đang phát

triển, một trong những vật cản chính của q trình tăng trưởng kinh tế là sự thiếu
vốn. Nguồn vốn huy động từ nước ngoài được coi là chủ yếu nhưng mọi cơ hội tiếp
nhận đầu tư vay nợ nước ngoài chỉ tăng lên khi chủ đầu tư hay người cho vay nợ
nhận thấy khả năng xuất khẩu của nước đó vì đây là nguồn chính đảm bảo khả
năng trả nợ.
+ Xuất khẩu thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát
triển. Thực tế cho thấy rằng xuất khẩu góp phần làm dịch chuyển nền kinh tế của
các quốc gia đang phát triển từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành cùng có điều kiện và cơ hội phát triển.
Chẳng hạn như là khi ngành điện tử viễn thông phát triển, các ngành liên quan như
linh kiện điện tử, sản phẩm truyền dẫn... cũng phát triển theo.
Xuất khẩu mở rộng thị trường sản phẩm, tạo lợi thế nhờ quy mô. Xuất khẩu là
phương tiện tạo vốn và thu hút kỹ thuật công nghệ mới từ các nước phát triển nhằm
hiện đại hoá nền kinh tế nội địa, tạo năng lực sản xuất mới.
Xuất khẩu thúc đẩy q trình chun mơn hoá, tăng cường hiệu quả sản xuất của
các quốc gia bởi khi khoa học công nghệ ngày càng phát triển thì phân cơng lao
động ngày càng sâu sắc. Có những sản phẩm mà việc sản xuất từng bộ phận được
thực hiện ở những nước khác nhau, vì vậy để có những sản phẩm hồn chỉnh thì
hoạt động xuất khẩu là cần thiết. Mặt khác, thông qua xuất khẩu một nước có thể
tập trung vào sản xuất mặt hàng mình có lợi thế để trao đổi lấy thứ mình cần một
cách có hiệu quả hơn.


+ Xuất khẩu cịn góp phần tạo cơng ăn việc làm, giải quyết thất nghiệp ở các nước
đang phát triển nhằm giảm thiểu tệ nạn xã hội, cải thiện đời sống cho nhân dân. Vì
hoạt động xuất khẩu ln thu hút hàng triệu lao động và tạo thu nhập ổn định cho
người lao động. Mặt khác xuất khẩu còn tạo ra nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng
tiêu dùng đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng và phong phú của nhân dân.
+ Xuất khẩu cũng là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy phát triển các mối quan hệ kinh
tế đối ngoại vì xuất khẩu và các hoạt động kinh tế đối ngoại có mối liên hệ phụ

thuộc và tác động lẫn nhau. Xuất khẩu là hoạt động chủ yếu, thể hiện mối liên kết
trên toàn thế giới, từ đó thúc đẩy các mối quan hệ khác như du lịch quốc tế, bảo
hiểm quốc tế, tín dụng quốc tế...phát triển theo.
+ Ngân sách nhà nước cũng có thêm một nguồn thu từ thuế xuất khẩu. Tuy nhiên,
trong thời gian tới thì xu hướng hội nhập được mở rộng thì thuế quan sẽ được cắt
giảm, nguồn thu từ thuế quan sẽ khơng cịn nhiều nhưng các quốc gia sẽ thu được
nhiều lợi ích lớn hơn thơng qua tiến trình hội nhập và hợp tác phát triển.
* Đối với doanh nghiệp thì hoạt động xuất khẩu có một số vai trị như sau :
Thơng qua hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước sẽ có cơ hội để tham
gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường nước ngoài cả về giá cả, chất lượng và mẫu
m• sản phẩm. Từ đó doanh nghiệp sẽ tự mình tìm hiểu và phải học hỏi thêm kinh
nghiệm, trên cơ sở đó doanh nghiệp sẽ phát triển tới một mức độ cao hơn.
Hoạt động xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng thị trường, mở rộng
quan hệ với nhiều bạn hàng cả trong và ngồi nước. Từ đó doanh nghiệp tăng
doanh thu và lợi nhuận cũng tăng lên, các rủi ro được chia sẻ, uy tín của doanh


nghiệp cũng được nâng cao. Trên cơ sở đó doanh nghiệp có thể mở rộng hoạt động
sản xuất xuất khẩu của mình ở nhiều thị trường khác nhau, thành lập các chi nhánh
hoạt động ở nhiều nơi, mở rộng hơn nữa sự phát triển của doanh nghiệp. Đặc biệt
trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay thì hoạt động xuất khẩu thực
sự có nhiều thuận lợi và sẽ ngày càng phát triển hơn, do đó các doanh nghiệp sẽ có
thêm nhiều cơ hội mới thơng qua hoạt động kinh doanh xuất khẩu của mình.
1.2.

Nội dung chính của hoạt động xuất khẩu.
Hoạt động xuất khẩu là một quy trình kinh doanh bao gồm nhiều cơng đoạn

khác nhau, mỗi cơng đoạn lại mang những đặc trưng riêng. Vì vậy, hoạt động xuất
khẩu phức tạp hơn nhiều so với hoạt động thương mại trong nước.

1.2.1. Nghiên cứu tiếp cận thị trường.
Nghiên cứu thị trường là việc quan trọng trong chu kì sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Đối với các đơn vị ngoại thương thì việc nghiên cứu thị trường quốc
tế lại càng có ý nghĩa hơn bởi vì nó liên quan trực tiếp đến việc tiến hành giao dịch,
thâm nhập thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp.
Thị trường là yếu tố sống còn và là yếu tố vận động khơng ngừng, vì vậy bất kỳ
doanh nghiệp nào cũng phải nỗ lực tìm hiểu, nghiên cứu để chỉ ra phương thức hoạt
động sao cho phù hợp khi xâm nhập vào từng thị trường khác nhau.
Hoạt động nghiên cứu thị trường có thể được chia thành như sau :
* Nghiên cứu môi trường : Nghiên cứu môi trường kinh tế, văn hố xã hội, mơi
trường chính trị luật pháp và môi trường công nghệ.


* Nghiên cứu giá cả hàng hoá : do xu hướng giá cả trên thị trường là rất phức tạp
và ln biến động vì phải chịu sự chi phối cuả những nhân tố lạm phát, chu kì,
cạnh tranh về giá cả.
* Nghiên cứu về sự cạnh tranh như là ai là đối thủ cạnh tranh của công ty ? Họ có
thế mạnh gì ? Cần phải có những giải pháp ra sao để cạnh tranh thành công?
* Nghiên cứu về nhu cầu thị trường, thị hiếu tiêu dùng, tập quán...
1.2.2. Lựa chọn đối tác kinh doanh.
Để có thể thâm nhập vào thị trường nước ngồi thành cơng thì buộc các doanh
nghiệp phải lựa chọn được đối tác phù hợp để có thể hỗ trợ và giúp đỡ nhau cùng
phát triển thông qua các quan hệ làm ăn lâu dài và có uy tín, tin tưởng lẫn nhau.
Các bạn hàng này có thể là những bạn hàng trước đây của cơng ty (các bạn hàng
quen) hoặc là các bạn hàng mới, thơng qua sự tìm kiếm và xây dựng quan hệ làm
ăn dựa trên những uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Việc lựa chọn đúng đối
tác để giao dịch tránh cho doanh nghiệp những phiền toái, rủi ro, mất mát thường
gặp trong quá trình kinh doanh trên thị trường quốc tế, đồng thời có điều kiện để
thực hiện thành cơng các kế hoạch kinh doanh của mình.
Là người xuất khẩu trực tiếp thì với các bạn hàng kinh doanh như vậy doanh

nghiệp sẽ không phải chia sẻ lợi nhuận. Tuy nhiên trong trường hợp hồn tồn mới
thì cách tốt nhất là doanh nghiệp nên thông qua các đại lý hoặc các công ty uỷ thác
xuất khẩu để giảm bớt chi phí cho việc thâm nhập vào thị trường. Để có thể tìm
hiểu chính xác được bạn hàng làm đối tác, ngoài việc dựa trên những mối quan hệ
bạn hàng có sẵn, đã hiểu biết và có uy tín kinh doanh với nhau thì cần phải thơng


qua các công ty tư vấn, các sở giao dịch, phịng Thương mại và Cơng nghiệp các
nước có quan hệ.
1.2.3. Đàm phán và kí kết hợp đồng.
Đàm phán và kí kết hợp đồng xuất khẩu là một trong những khâu quan trọng của
hoạt động xuất khẩu. Nó quyết định đến khả năng, điều kiện thực hiện thành công
hợp đồng xuất khẩu. Đồng thời nó cũng thể hiện khả năng của doanh nghiệp trong
lĩnh vực tìm kiếm bạn hàng và quan hệ bạn hàng tốt. Chính vì vậy mà doanh
nghiệp cần phải có những cán bộ có năng lực trong đàm phán để có thể đàm phán
thành cơng.
Năng lực đàm phán là yếu tố có ảnh hưởng quyết định đến tiến trình và kết quả
đàm phán. Nói tới năng lực đàm phán, người ta thường kể tới : tư chất, chức vụ của
người đàm phán, các quan hệ xã hội, uy tín cá nhân, sự hiểu biết, lịng tự tin, khả
năng thuyết phục, tính kiên nhẫn và có chiến thuật đàm phán thích hợp. Tựu chung
lại, nhà đàm phán ít nhất phải có được ba loại năng lực cơ bản đó là năng lực
chuyên môn, năng lực về am hiểu pháp lý và năng lực mạo hiểm.
1.2.4. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Sau khi kí kết thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương doanh nghiệp xuất khẩu
với tư cách là một bên kí kết, phải thực hiện hợp đồng đó. Việc này địi hỏi phải có
sự tn thủ của luật quốc gia và luật quốc tế, cũng như các tập quán quốc tế. Đồng
thời phải đảm bảo được quyền lợi của quốc gia cũng như quyền lợi và uy tín của
doanh nghiệp.
1.2.4.1.


Xin giấy phép xuất khẩu hàng hoá :


Đây là vấn đề quan trọng đầu tiên về mặt pháp lý để tiến hành các khâu khác
trong quá trình xuất khẩu hàng hoá. Với xu hướng mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế
như hiện nay thì Nhà nước luôn tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sản xuất
kinh doanh hàng xuất khẩu.
Việc xin giấy phép xuất khẩu hàng hoá bao gồm :
+ Đơn xin phép.
+ Phiếu hạn ngạch (nếu hàng hố thuộc đối tượng có hạn ngạch).
+ Bản sao hợp đồng đa kí với bên nước ngoài.
1.2.4.2.

Chuẩn bị hàng xuất khẩu :

Thực hiện sản xuất theo đơn đặt hàng hoặc chuẩn bị đủ lượng hàng để thực hiện
xuất khẩu hàng hoá đúng như thoả thuận giữa các bên trong hợp đồng.
Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu để đảm bảo chất lượng hàng hoá khi vận chuyển,
tạo điều kiện nhận biết và phân loại hàng hoá, có thể gây được ấn tượng tốt cho
người mua. Có nhiều loại bao bì khác nhau như là hịm, hộp, kiện, túi nilon...
1.2.4.3.

Kiểm tra chất lượng hàng hoá xuất khẩu :

Đây là khâu vô cùng cần thiết nhằm đảm bảo quyền lợi của nhà nhập khẩu cũng
như là tạo sức cạnh tranh cho hàng hố xuất khẩu, tạo uy tín cho nhà xuất khẩu trên
thị trường.
Trước khi xuất khẩu, các nhà xuất khẩu phải có nghĩa vụ kiểm nghiệm và kiểm
dịch hàng hoá. Việc kiểm tra chất lượng hàng hoá do hai bên tự chịu trách nhiệm
thông qua hợp đồng. Cơ quan Nhà nước có chức năng kiểm tra chất lượng hàng

hố xuất khẩu, có quyền thu hồi giấy phép về tự kiểm tra hàng hoá đối với doanh


×