Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Hạn chế khủng hoảng tài chính theo yêu cầu tăng số lượng dự trự kho vận tại các ngân hàng thương mại - 2 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.82 KB, 32 trang )

một quá trình lâu dài. Người gửi tiền khi gửi thường lựa chọn những ngân hàng lâu
đời chứ không phải là những ngân hàng mới thành lập. Ngân hàng lớn thường được
ưu tiên lựa chọn so với các ngân hàng nhỏ. Hình thức bảo hiểm tiền gửi làm tăng
độ an toàn, tăng uy tín của ngân hàng. Một điều quan trọng ở nước ta là hình thức
sở hữu cũng có ảnh hưởng quan trọng tới huy động vốn. Các ngân hàng quốc doanh
bao giờ cũng có độ an toàn cao hơn cho người gửi tiền, uy tín của các ngân hàng
thương mại quốc doanh cao hơn so với các ngân hàng khác. Những ngân hàng có
uy tín luôn chiếm được lòng tin của khách hàng là tiền đề cho việc họ huy động
được những nguồn vốn lớn hơn với chi phí rẻ hơn và tiết kiệm được thời gian.
1.4.2.4. Trình độ công nghệ ngân hàng
Có thể nói công nghệ ngân hàng hiện đại khác xa so với trước đây. Việc áp dụng
máy tính là một cuộc cách mạng trong hoạt động của ngân hàng. Nhờ có hệ thống
tin học hiện đại, ngân hàng có thể thu thập thông tin về khách hàng, về thị trường
tốt. Từ đó, có thể hoạch định ra các hình thức huy động, thời gian huy động, hình
thức trả lãi Mặt khác, nhờ hệ thống thông tin tốt khiến cho ngân hàng có thể nâng
cao hiệu quả huy động vốn.
Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng trở nên phổ biến, đó là
một xu thế tất yếu. Việc thanh toán không dùng tiền mặt sẽ khiến cho các ngân
hàng ngày càng gắn liền với các hoạt động xã hội. Ngoài ra mạng lưới phục vụ cho
việc huy động vốn cũng tác động tới việc huy động vốn của ngân hàng. Mạng lưới
huy động rộng rẫi, tạo điều kiện cho người gửi tiền. Mạng lưới hẹp thì sẽ gây khó
khăn cho khách hàng có tiền nhàn rỗi gửi vào ngân hàng, chi phí giao dịch lớn, mất
nhiều thời gian.

Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Nhìn chung có rất nhiều những yếu tố ảnh hưởng đến việc huy động vốn của ngân
hàng. Các yếu tố này tác động đến mọi hoạt động, ảnh hưởng đến kết quả kinh
doanh của ngân hàng. Mỗi ngân hàng khi hoạt động đều cần phải tiến hành nghiên
cứu, tìm hiểu. Những yếu tố tác động này có tính hai mặt: có thể có tác động tích
cực đồng thời có thể tác động tiêu cực tới ngân hàng. Ngân hàng nào xác định
đúng, chính xác các yếu tố tác động sẽ huy động được vốn lớn với chi phí rẻ, từ đó


nâng cao hiệu quả hoạt động.
chương II: Thực trạng tăng cường vốn dự trữ an toàn tại Hệ thống Ngân Hàng
Thương mại
2.1. khái quát sự hình thành và phát triển Hệ thống Ngân Hàng Thương mại
Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm là một chi nhánh của Ngân hàng Công thương
Việt Nam, có trụ sở tại số 37 Hàng Bồ quận Hoàn Kiếm - Hà Nội. Đây là khu vực
nằm ở trung tâm thủ đô Hà Nội, là trung tâm kinh tế - Văn hoá - Chính trị của thủ
đô, là mơi giao lưu buôn bán nhộn nhịp nhất thành phố. Mặt khác, đây còn là nơi
tập trung của rất nhiều vằn phòng đại diện của các Ngân hàng nước ngoài tại Việt
Nam. Trước đây Ngân hàng là một chi nhánh của Ngân hàng Nhà nước với nhiệm
vụ chính là bảo đảm nhu cầu về vốn cho các đơn vị ngoài quốc doanh và tập thể
trên địa bàn quận. Nhưng do nhu cầu đổi mới kinh tế cùng với sự chuyển đổi chung
của hệ thống Ngân hàng Việt Nam (năm 1988) từ hệ thống Ngân hàng một cấp
sang hệ thống Ngân hàng hai cấp, chi nhánh Ngân hàng quận Hoàn Kiếm cũng
được thay đổi cả về chức năng và nhiệm vụ và trở thành Ngân hàng Công thương
Hoàn Kiếm là một chi nhánh của NHCT Việt Nam với chức năng hoạt động chính
là kinh doanh tiền tệ và thực hiện các dịch vụ Ngân hàng. Và từ đó đến nay Ngân
hàng đã thực sự đi vào hoạt động kinh doanh trên cơ sở tự hạch toán kinh doanh.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

Trải qua quá trình 15 năm hoạt động cho đến nay Ngân hàng đã hoàn toàn
hoà nhập được với hoạt động chung của cả hệ thống Ngân hàng trong cơ chế thị
trường. Không những chỉ đứng vững trong cạnh tranh mà còn không ngừng mở
rộng và phát triển với hiệu quả ngày càng cao. Hiện nay ngân hàng có cơ cấu, tổ
chức như sau:
NHCT Hoàn Kiếm có 227 cán bộ trên tổng số hơn 1,2 vạn cán bộ của toàn bộ
hệ thống NHCT. Trong đó có 40,8% có trình độ đại học và trên đại học, còn lại đều
đã được đào tạo qua hệ cao đẳng, trung học chuyên ngành ngân hàng. NHCT Hoàn
Kiếm có 9 phòng, hoạt động theo chức năng riêng đã được phân công theo sự chỉ
đạo điều hành của Ban giám đốc gồm:

Giám đốc: Nguyễn Hữu Thuỷ: phụ trách về lao động – tiền lương, phòng kinh
doanh đối ngoại, phòng kiểm tra nội bộ .
Phó giám đốc: Phạm Thị Mai: phụ trách phòng kinh doanh kiêm chủ tịch công
đoàn của chi nhánh.
Phó giám đốc: Lê Tuyết Mai: phụ trách phòng kế toán – tài chính, phòng giao dịch
Đồng Xuân, phòng vi tính.
Phó giám đốc: Nguyễn Thị Huy: phụ trách phòng Nguồn vốn, phòng ngân quỹ,
phòng tổ chức – hành chính.
Phòng kinh doanh: Đây là phòng kinh doanh tổng hợp, thực hiện các nghiệp
vụ cho vay đối với các khách hàng là các tổ chức và cá nhân thuộc mọi thành phần
kinh tế, dưới hình thức là các khoản vay ngắn, trung và dài hạn, cho vay uỷ thác,
cho vay theo dự án. Đồng thời cũng thực hiện chức năng giám sát và quản lý việc
sử dụng vốn.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Phòng kinh doanh đối ngoại: thực hiện 2 chức năng chính là thanh toán quốc
tế (thanh toán xuất nhập khẩu bằng các phương thức mở tài khoản, nhờ thu và L/C)
và kinh doanh ngoại tệ (thanh toán, chuyển tiền cho các khách hàng, chủ yếu là
mua bán ngoại tệ để phục vụ cho các doanh nghiệp XNK), hạch toán kế toán các
nghiệp vụ ngoại tệ, làm đầu mối thanh toán séc du lịch, thẻ tín dụng quốc tế, thu chi
tiền mặt ngoại tệ cho các đơn vị, thực hiên việc giải ngân cho một số dự án do
NHCTVN chỉ định.
Phòng giao dịch Đồng Xuân: do trên địa bàn quận Hoàn Kiếm có khu chợ
Đồng Xuân nên NHCTHK đã tổ chức ra một phòng riêng để phục vụ cho các thành
phần kinh tế ngoài quốc doanh. Phòng này hoạt động như một chi nhánh ngân
hàng, tự hạch toán thu chi độc lập và có lãi. Hiện nay phòng giao dịch Đồng Xuân
đang có kế hoạch mở rộng thành một chi nhánh NHCT gần tương tụ như chi nhánh
NHCT Hoàn Kiếm.
Phòng nguồn vốn: cân đối tổng hợp: làm nhiệm vụ xây dựng kế hoạch cân
đối và tổng hợp về nguồn vốn và sử dụng vốn; huy động mọi nguồn vốn tiết kiệm
từ các tổ chức và cá nhân thuộc mọi thành phân kinh tế; thực hiện chế độ thông tin,

lập kế hoạch tài chính, tổng hợp, phân tích, báo cáo về mọi tình hình hoạt động
kinh doanh của NHCTHK theo yêu cầu của Giám đốc NHCT Việt Nam. Hiện nay
chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm có tất cả 11 quỹ tiết kiệm. Mỗi quỹ tiết kiệm đều có 1
bộ máy gồm: Trưởng quỹ, thủ quỹ và kế toán.
Phòng kế toán-tài chính: thực hiện hạch toán kế toán các nghiệp vụ thanh
toán bằng VND, lên cân đối tổng hợp. Phòng có 5 tổ công tác chịu trách nhiệm về
các chức năng riêng biệt: Tổ kế toán nội bộ, Tổ thanh toán viên, Tổ thanh toán liên
ngân hàng, Tổ thanh toán bù trừ và Tổ tiết kiệm.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Phòng ngân quỹ: quản lý tồn quỹ, thực hiện thu chi theo lệnh về tiền mặt
VND và ngoại tệ, bảo quản và phân phối các chứng từ có giá.
Phòng kiểm tra nội bộ: thực hiện kiểm soát nội bộ là nhiệm trọng tâm của
phòng, ngoài ra còn thanh tra các vụ việc có liên quan, các thao tác nghiệp vụ nhằm
ngăn chặn các rủi ro xảy ra từ chính các cán bộ ngân hàng.
Phòng vi tính: quản lý và xử lý các dữ liệu kế toán, kết nối mạng nội bộ, ngoài
ra còn thực hiện việc bảo dưỡng, lắp đặt các máy tính phục vụ cho việc tổng hợp,
cân đối, sao kê cho mạng máy tính phòng kế toán.
Phòng tổ chức-hành chính: thực hiện các công việc về hành chính quản trị như
các doanh nghiệp khác, bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động kinh doanh của các
phòng ban; quản lý, sắp xếp và điều chuyển nhân sự, bảo đảm tiền lương cho cán
bộ nhân viên, tham mưu cho lãnh đạo về xét tuyển và đề bạt cán bộ.
Các phòng trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, phối hợp với nhau để thực
hiện tốt các hoạt động của ngân hàng. Cơ cấu tổ chức của các phòng ban ngày càng
được cải tiến để ngày càng phục vụ tốt hơn cho nhiệm vụ của một ngân hàng đa
năng, hiện đại và ngày càng có nhiều sản phẩm mới, đáp ứng được các nhu cầu của
khách hàng trong cơ chế thị trường.
2.2. Thực trạng tăng cường vốn dự trữ an toàn tại Hệ thống Ngân Hàng Thương
mại
Tất cả các Ngân hàng thương mại để đi vào hoạt động phải cần huy động vốn. Hoạt
động huy động vốn (nghiệp vụ tài sản nợ) trong mỗi Ngân hàng không nằm riêng lẻ

mà cùng với các nghiệp vụ tài sản có và các dịch vụ khác hình thành nên định
hướng hoạt động chung của Ngân hàng. Huy động vốn là cơ sở, tạo cho Ngân hàng
có nguồn vốn kinh doanh để thu được lợi nhuận.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Nhận thức được vấn đề đó, NHCT Hoàn Kiếm đã coi việc huy dộng vốn là nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu. Toàn thể cán bộ công nhân viên của Ngân hàng đã có
những cố gắng vượt bậc để thực hiện mục tiêu trên. Trong những năm qua, nguồn
vốn mà NHCT Hoàn Kiếm huy động được luôn ổn định năm sau cao hơn năm
trước. Nguồn vốn huy động được dồi dào không những đáp ứng được nhu cầu ở chi
nhánh mà còn đựơc điều chuyển về hội sở chính, góp phần điều hoà vốn chung
trong toàn hệ thống. Đội ngũ nhân viên ngân hàng với trình độ chuyên môn cao,
phương pháp làm việc hiện đại, khoa học đã góp phần làm giảm chi phí huy động.
So với các chi nhánh khác, chi phí huy động của Ngân hàng gần như là thấp nhất.
Đồng thời huy động được vốn nhiều nhưng nguồn vốn huy động của chi nhánh vẫn
được đánh giá là có độ an toàn cao. Đây là kết quả của việc đa dạng hoá các hình
thức huy động, linh hoạt về lãi suất, hình thức trả lãi, nâng cao chất lượng các dịch
vụ Ngân hàng. Ngân hàng luôn tích cực tìm kiếm nguồn vốn có chất lượng để phục
vụ cho mục đích kinh doanh của mình.
2.2.1.Tình hình huy động vốn tại NHCT Hoàn Kiếm
Trong những năm qua hoạt động huy động vốn của NHCT Hoàn kiếm đã đạt được
những thành tích xuất sắc. Nguồn vốn của ngân hàng luôn dồi dào, năm nào cũng
hoàn thành vượt mức kế hoạch đặt ra. Ta có thể thấy qua bảng sau:
Bảng2.1.khối lượng vốn huy động theo kế hoạch(đơn vị: triệu đồng)
Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
Nguồn vốn huy động theo kế hoạch 1.753.712 2.803.075 4.500.000
Nguồn vốn thực tế huy động được 2.335.896 4.297.992 5.060.689
Mức chênh lệch tuyệt đối + 582.184 +1.494.917 + 560.689
Mức chênh lệch tương đối 33,19% 51,86% 12,45%
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Nguồn số liệu: phòng Kế toán NHCT Hoàn Kiếm

Năm 2000. Ngân hàng đặt ra chỉ tiêu huy động vốn tăng 15% so với năm 1999
(1.753.712 triệu đồng). Nhưng trên thực tế chi nhánh đã huy động được 2.335.896
triệu đồng vượt 33,19% kế hoạch đặt ra. Trong năm Ngân hàng đã bước đầu áp
dụng phương thức giao dịch tức thời trên máy vi tính tại một số quỹ, đội ngũ nhân
viên với phong cách phục vụ văn minh, lịch sự, đúng quy trình, tận tình, chu đáo
đãchiếm được lòng tin của số lượng khách hàng ngày càng tăng. Đây là cơ sở giúp
cho Ngân hàng có số dư tiền gửi tăng mặc dù lãi suất huy động của Ngân hàng
thường thấp hơn các Ngân hàng khác trên cùng địa bàn. Năm 2001 Ngân hàng đặt
ra chỉ tiêu huy động vốn tăng 20% so với năm 2000 tức khoảng 2.803.075 triệu
đồng. Trong năm Ngân hàng đã huy động được 4.297.992 triệu đồng, vượt 51,86%
kế hoạch đặt ra. Năm 2002 Ngân hàng đặt ra chỉ tiêu huy động tổng nguồn vốn là
4.500.000 triệu đồng. Trong năm Ngân hàng đã huy động được 5.060.689 triệu
đồng, vượt 12,45% kế hoạch đặt ra.
Qua bảng trên ta thấy nguồn vốn huy động của Ngân hàng năm nào cũng cao hơn
so với kế hoạch đặt ra. Năm 2001 nguồn vốn huy động của Ngân hàng tăng vọt so
với năm 2000 và năm 2002 tăng chậm hơn. Gọi là tăng chậm, song so với các chi
nhánh khác hay các đơn vị khác trên địa bàn, tốc độ tăng trưởng nguồn vốn của
NHCT Hoàn Kiếm là quá lý tưởng. Tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng
thường cao hơn hẳn các đơn vị khác trên điạ bàn quận. Sự tăng trưởng lớn về
nguồn vốn đã khẳng định uy tín và vị thế của Ngân hàng trên thương trường. Ta có
thể thấy rõ sự tăng trưởng qua bảng sau:
Bảng 2.2. Khối lượng vốn huy động(đơn vị: triệu đồng)
Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Tổng vốn huy động 1.524.967 2.335.896 4.297.992 5.060.689
Lượng vốn huy động gia tăng sau mỗi năm +810.929 +1.962.096 +762.697
Tỷ lệ gia tăng năm sau so với năm trước 53,17% 83,99% 17.74%
Nguồn số liệu: Phòng Kế toán NHCT Hoàn Kiếm
Khối lượng vốn huy động của NHCT Hoàn Kiếm có thể nói là ở mức đáng kinh
ngạc. Chỉ sau 2 năm nguồn vốn huy động đã tăng gấp đôi. Năm 2000, khối lượng

vốn huy động của Ngân hàng tăng 53,17% so với năm 1999. Đặc biệt năm 2001, tỷ
lệ trên là 83,99%. Đến năm 2002, khối lượng vốn huy động chỉ tăng 17,74%. Ta có
thể thấy rõ một điều là nguồn vốn năm nào cũng tăng, song không ổn định. Chỉ tính
riêng năm 2001, nguồn vốn huy động đã tăng gần gấp đôi so với năm 2000.
Với tổng nguồn vốn lớn và ổn định, chi nhánh có đủ khả năng đáp ứng mọi nhu cầu
về vốn của khách hàng, đồng thời chuyển vốn về NHCT Việt Nam, góp phần điều
hoà toàn hệ thống và tham gia thị trường vốn. Có thể nói trong lúc việc huy động
vốn gặp rất nhiều khó khăn, sự cạnh tranh lãi suất quyết liệt, lãi suất huy động liên
tục tăng trong khi lãi suất cho vay không thể tăng cùng tốc độ, thì đây là kết quả rất
đáng khích lệ. Có được kết quả trên là vì ngay từ khi nguồn vốn còn dồi dào, Ngân
hàng đã xác định nhu cầu vốn đầu tư cho nền kinh tế là rất lớn, vốn không bao giờ
thừa cho một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, nên đã xác định một chiến
lược tăng trưởng vốn lâu dài.
2.2.1.1. Về nguồn huy động vốn
Một trong những thế mạnh của NHCT Hoàn Kiếm, đó là nguồn huy động vốn rất
đa dạng. Hiện nay NHCT Hoàn Kiếm huy động vốn chủ yếu bằng các nguồn như :
-Tiền gửi của các tổ chức kinh tế (tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn)
-Tiền gửi của đân cư ( tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi không kỳ hạn)
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
-Phát hành các công cụ nợ
- Nguồn đi vay
- Các nguồn huy động khác
Một trong những điều đặc biệt ở NHCT Hoàn Kiếm, đó là trong cơ cấu tiền gửi thì
tiền gửi của tổ chức kinh tế có tỷ trọng khá lớn. Nó thể hiện vai trò, vị thế của chi
nhánh Hoàn Kiếm so với các đơn vị khác trên địa bàn. Khách hàng là các doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế của chi nhánh Hoàn Kiếm là rất lớn. Từ lâu chi nhánh
đã thấy được tầm quan trọng của lượng khách hàng này và đã có những giải pháp
hữu hiệu để thu hút. Nhưng như thế không có nghĩa là tiền gửi của dân cư không
quan trọng. Bên cạnh đó là nguồn phát hành các công cụ nợ, tiền gửi của các tổ
chức tín dụng khác Cơ cấu trong huy động vốn của NHCT Hoàn Kiếm khá đa

dạng và phong phú, thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.3. Cơ cấu nguồn vốn huy động (đơn vị: triệu đồng)
Tiền gửi của các tổ chức kinh tế
Tiền gửi của dân cư
Phát hành các công cụ nợ
Nguồn đi vay
Nguồn vốn khác
Tổng
Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp
Ta thấy qua các năm tiền gửi của tổ chức kinh tế có xu hướng tăng dần và tăng khá
nhanh vào các năm 2001 và năm 2001. Năm 2000, tiền gửi của các tổ chức kinh tế
chỉ chiếm 15,94% tổng nguồn vốn nhưng đến năm 2001 chiếm đến 24,78% . Đây là
cố gắng rất lớn của chi nhánh. Bước vào năm 2001, năm đầu của kế hoạch 5 năm
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
(2001- 2005), nhận thức được những thời cơ và thách thức khi mở cửa, hội nhập
kinh tế với nước ngoài. Ngân hàng đã cùng doanh nghiệp suy nghĩ, tháo gỡ những
khó khăn, đưa ra các loại hình dịch vụ mới, đáp ứng một cách tốt nhất cho doanh
nghiệp về thanh toán, bảo lãnh Chính vì vậy trong con mắt của các tổ chức kinh
tế, Ngân hàng là một người bạn đáng tin cậy, có thể chia sẻ, giúp đỡ doanh nghiệp
trong kinh doanh. Không thụ động ngồi chờ khách hàng tìm đến với mình, Ngân
hàng luôn chủ động tìm kiếm các khách hàng mới. Có rất nhiều các khách hàng lớn
như: Tổng công ty Than Việt Nam, Tổng công ty Điện Lực Việt Nam, Công ty Đầu
tư Phát triển nhà Hà Nội, Công ty Phát triển hạ tầng với số dư tiền gửi ở Ngân
hàng lên tới hàng trăm tỷ đồng. Ngoài ra phần lớn khách hàng là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, các hộ cá thể.
Tiền gửi của khu vực dân cư bao gồm tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi không kỳ hạn.
Nguồn tiền gửi của dân cư qua các năm vẫn tăng song có xu hướng giảm dần về tỷ
trọng. Nếu như năm 2000, số dư tiền gửi là 530 tỷ và chiếm tỷ trong là 22,71% thì
các con số tương ứng trong năm 2001 là 602 tỷ và 14,04%. Như vậy về số tuyệt đối
là tăng gần 1/5 so với năm trước song về tỷ trọng lại giảm gần một nửa. Đây là do

năm 2001, chi nhánh ngoài huy động vốn từ dân cư đã đẩy mạnh thu hút từ nhiều
nguồn khác và đạt được nhiều thắnh lợi. Tiếp đà năm 2001, đến năm 2002. nguồn
vốn huy động vẫn tăng song tỷ trọng lại giảm. Điều này cho thấy đi đôi với việc
tăng tổng nguồn vốn thì cần phải rất chú trọng và cải thiện việc huy động tiền gửi
từ dân cư.
Về phát hành các công cụ nợ. Thực ra việc phát hành này cũng là huy động từ khu
vực dân cư. Ngân hàng phát hành các kỳ phiếu, trái phiếu theo định hướng chung
của NHCT Việt Nam. Đây là khu vực mà có tốc độ tăng ngoạn mục nhất. Năm
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
2000, việc phát hành các công cụ nợ của Ngân hàng chỉ thu được vỏn vẹn 3 triệu
đồng. Một con số quá khiêm tốn. Đến năm 2001 đã nhảy vọt lên 17 tỷ và năm
2002 là hơn một trăm tỷ.
Ngoài ra nguồn vốn đi vay của chi nhánh cũng rất lớn, vào các năm 2000 và 2001
chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn. Song đến năm 2002 nguồn vay này chỉ chiếm
không đáng kể trong tổng nguồn vố. Đây là do trong năm, Ngân hàng có nhiều hợp
đồng tín dụng và nguồn vốn từ các đơn vị khác trong hệ thống do không có đầu ra
nên được điều chuyển về.
Nguồn vốn khác của Ngân hàng cũng rất lớn , trong năm 2000 và năm 2001 chỉ
chiếm vài % nhưng đến năm 2002 chiếm tới hơn 50% tổng nguồn vốn. Ngân hàng
cho vay được nhiều, đầu tư có hiệu quả nên các ngân hàng khác, chi nhánh khác có
nguồn vốn nhiều không cho vay được đã uỷ thác cho Ngân hàng sử sụng. Nguồn
vốn uỷ thác này rất lớn thể hiện được uy tín và vị thế của chi nhánh trên thương
trường.
2.2.1.2. Về kỳ hạn huy động vốn
Xét về mặt thời gian Ngân hàng huy động vốn theo hai loại : không kỳ hạn và có
kỳ hạn. Hình thức có kỳ hạn của Ngân hàng rất đa dạng, đáp ứng được mọi nhu cầu
của người gửi. Năm 2002, chi nhánh mở thêm thời hạn huy động mới là 2 tháng và
hiện nay Ngân hàng đang huy động với các thời hạn sau: 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng,
6 tháng, 9 tháng, 12 tháng và trên 12 tháng. Thời hạn đa dạng đã đáp ứng mọi mục
đích của người gửi tiền: gửi với mục đích sinh lợi, gửi với mục đích thanh toán, gửi

với mục đích an toàn Ngân hàng tạo mọi thuận lợi cho người gửi tiền. Ngân hàng
cũng nhận được sự tán thưởng, đánh giá cao của khách hàng thể hiện qua kết quả
huy động:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Nguồn huy động không kỳ hạn của Ngân hàng qua các năm đều tăng. Tỷ trọng
trong tổng nguồn vốn ngày càng được tăng cường một cách khá đều đặn. Trong cơ
cấu của nguồn tiền gửi không kỳ hạn này thì chủ yếu là tiền gửi của các tổ chức
kinh tế, chiếm khoảng 95%. Nguồn tiền gửi của khu vực dân cư rất ít. Nó phản ánh
đặc điểm của nguồn tiền gửi không kỳ hạn. Nguồn tiền gửi không kỳ hạn chủ yếu
được các tổ chức kinh tế sử dụng với mục đích phục vụ cho việc thanh toán. Còn
đối với dân cư, mục đích chủ yếu là để lấy lãi, nên họ gửi vào các khoản mục có kỳ
hạn.
Bảng 2.4. Nguồn vốn huy động theo kỳ hạn (đơn vị: triệu đồng)
Vốn không kỳhạn 166.108 7,12 353.416 8,22 464.485 9,18
Vốn ngắn hạn 1.785.224 76,42 3.566.086 82,97 3.889.729 76,86
Vốn trung và dài hạn 384.564 16,46 378.490 8,81 706.475 13,96
Tổng 2.335.896 100 4.297.992 100 5.060.689 100
Nguồn số liệu: Phòng nguồng vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp
Trong tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng tính theo thời gian, thì nguồn vốn
ngắn hạn luôn rất lớn, chiếm khoảng 75 - 80% tổng nguốn vốn. Nguồn vốn ngắn
hạn này huy động từ dân cư, doanh nghiệp và được các ngân hàng khác điều
chuyển đến. Ngày nay các doanh nghiệp cũng có xu hướng gửi tiền vào các khoản
mục ngắn hạn: 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng thay vào chỉ gửi vào tiền gửi không kỳ
hạn như trước kia. Các doanh nghiệp đã tính toán kỹ lưỡng chu kỳ kinh doanh của
mình, từ đó tìm ra giải pháp tối ưu để tối đa hoá lợi nhuận.
Khoản tiền huy động từ nguồn trung và dài hạn là quan trọng đối với bất cứ Ngân
hàng nào. Đây là nguồn chủ yếu để Ngân hàng tiến hành cho vay trung và dài hạn.
Lãi suất cho vay trung và dài hạn rất cao, từ đó Ngân hàng kiếm dược nhiều lợi
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
nhuận. Lấy nguồn huy động trung và dài hạn để cho vay trung và dài hạn là một

cách để giảm bớt rủi ro thanh khoản và rủi ro lãi suất. Nguồn vốn trung và dài hạn
của Ngân hàng không nhiều, chiếm một tỷ trọng nhỏ. Năm 2001 nguồn này còn bị
giảm sút so với năm 2000 và có tăng trong năm 2002. Tuy nhiên so với các khoản
cho vay trung và dài hạn thì không tương xứng. Tỷ lệ cho vay trung và dài hạn của
chi nhánh ngày càng tăng và đến năm 2002 đạt mức cao hơn so với cho vay ngắn
hạn. Ngân hàng đã áp dụng việc chuyển hoán kỳ hạn nguồn. Đây là một con dao
hai lưỡi và Ngân hàng phải hết sức quan tâm tới an toàn tín dụng.
2.2.1.3. Về chi phí huy động vốn
Trên con đường hội nhập và phát triển, nguồn vốn cần cho đầu tư, phát triển kinh tế
là luôn cần thiết. Trong khi các đơn vị khác, việc huy động vốn gặp khó khăn và để
tăng sức cạnh tranh, họ luôn tăng lãi suất huy động. NHCT Hoàn Kiếm với lãi suất
huy động không cao hơn, song lại huy động được một nguồn vốn lớn, đã chứng tỏ
được uy tín của mình đối với khách hàng, tạo vị thế phát triển vững chắc.
Chi phí huy động bao gồm ngoài phần lãi phải trả còn có những khoản khác như:
lương nhân viên, trang bị máy đếm tiền, máy soi tiền, tiền thuê trụ sở, các chi phí
hành chính khác Trong đó phần lãi phải trả là bộ phận chủ yếu của chi phí huy
động. NHCT Hoàn Kiếm huy động vốn theo khung lãi suất do Tổng giám đốc
NHCT Việt Nam quy định trong từng thời kỳ. Khác với các Ngân hàng cổ phần,
chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, lãi suất luôn được điều chỉnh theo kiểu phá giá.
Lãi suất huy động của chi nhánh không cao hơn song vẫn thu hút được đông đảo
khách hàng. Chi nhánh luôn nghiên cứu tìm ra các biện pháp để giảm các chi phí
khác trong chi phí huy động. Mục tiêu đặt ra là phải làm sao để tốc độ tăng của lợi
nhuận phải lớn hơn tốc độ tăng cuả chi phí. Và Ngân hàng đã thực hiện một cách
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
xuất sắc mục tiêu trên. Kết quả là, năm 2000 lợi nhuận hạch toán là 23 tỷ đồng và
đến năm 2002 là 42,2 tỷ đồng. Ngân hàng xác định thế mạnh trong cạnh tranh sẽ là
ở khâu dịch vụ. Từ đó Ngân hàng nâng cao chất lượng các dịch vụ, hấp dẫn, lôi
cuốn đuợc nhiều khách hàng mới đồng thời luôn quan tâm, giữ chân các khách
hàng truyền thống.
2.2.2. Các hình thức huy động vốn tại NHCT Hoàn Kiếm

2.2.2.1. Huy động vốn từ các quỹ
NHCT Hoàn Kiếm là một trong số 115 chi nhánh trên toàn quốc của NHCT Việt
Nam. Là một Ngân hàng thuộc sở hữu Nhà Nước, NHCT Việt Nam có vốn pháp
định do Nhà Nước cấp. ở cấp chi nhánh song hàng năm NHCT Hoàn Kiếm vẫn có
những khoản vốn huy động được từ chính các quỹ tại đơn vị. Ngân hàng trích lập
các quỹ từ lợi nhuận sau thuế như: quỹ dự trữ bổ xung vốn điều lệ, quỹ dự phòng
tài chính, quỹ phúc lợi, quỹ đào tạo, quỹ khen thưởng Nguồn huy động từ các quỹ
này có ý nghĩa rất lớn. Đây là nguồn của chính đơn vị, đơn vị sử dụng nên không
phải trả lãi như các nguồn huy động khác. Hơn nữa nguồn này còn thể hiện tình
hình hoạt động kinh doanh hiệu quả của đơn vị. Tại chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm,
nguồn vốn huy động từ các quỹ trong các năm qua như sau:
Bảng 2.5. Nguồn vốn huy động từ các quỹ (đơn vị: triệu đồng)
Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
Nguồn vốn huy động từ các quỹ 129 275 417
Lượng vốn gia tăng giữa các năm +146 +142
Tỷ lệ gia tăng giữa các năm (%) 113,17 49,81
Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
So sánh với tổng nguồn vốn huy động, vốn huy động từ các quỹ tại chi nhánh chỉ
chiếm một phần rất nhỏ. Tuy nhiên nguồn vốn này đang ngày càng gia tăng với tốc
độ khá nhanh. Năm 2002, nguồn vốn huy động từ cac quỹ tăng hơn gấp đôi năm
2000 (khoảng 113,17%) . Năm 2002, vốn huy động từ các quỹ lại tăng gấp rưỡi so
với năm 2001. ở đây ta chưa xét đến khía cạnh tuyệt đối mà chỉ nói đến khía cạnh
tương đối. Nó chứng tỏ một điều rằng NHCT Hoàn Kiếm đang kinh doanh rất có
lãi. Bởi nguồn của các quỹ này là từ lợi nhuận sau thuế, Ngân hàng dùng khoản này
để kinh doanh vừa kinh tế lại vừa an toàn cho chính Ngân hàng. Hơn nữa ta thấy
tốc độ gia tăng của các quỹ khác này rất đáng kể. Điều này chứng tỏ ngoài việc cố
gắng hết sức việc huy động vốn từ bên ngoài, Ngân hàng cũng hết sức chú ý việc
phát huy nội lực của chính mình. Đây là một điều đúng với tất cả các doanh nghiệp.
Đặc biệt với Ngân hàng, việc kinh doanh gặp nhiều rủi ro không lường trước được

thì lại càng quan trọng.
2.2.2.2. Huy động vốn từ các khoản tiền gửi
a. Tiền gửi thanh toán
Đứng ở cấp độ một chi nhánh, có thể nói NHCT Hoàn Kiếm là một chi nhánh
đứng hàng đầu trong việc quan hệ với các khách hàng lớn. Đây không phải là ngẫu
nhiên mà là kết quả của một chiến lược huy động vốn lâu dài, trong đó rất coi trọng
đến các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế. Các khách hàng lớn là những tổng công ty,
các tổ chức kinh tế có tình hình tài chính lành mạnh, quy mô làm ăn lớn. Có thể kể
ra như: Tổng công ty Than Việt Nam, Tổng công ty Điện lực Việt Nam, các tổng
công ty 90, 91, công ty đầu tư và phát triển Nhà Hà Nội, Điện lực Hà Nội Ngoài
ra số lượng khách hàng là các công ty vừa và nhỏ rất nhiều: Công ty thương mại và
dịch vụ Thái Dương, HTX bốc xếp Đồng Xuân, Công ty Quyết Thắng CCB, Công
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
ty TNHH Liên Thao Đây là những tổ chức kinh tế đóng góp phần lớn nguồn tiền
gửi không kỳ hạn cho Ngân hàng. Ta xem bảng sau:
Bảng 2.6. Nguồn tiền gửi thanh toán theo đối tượng
(đơn vị: triệu đồng)
Tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh
Tiền gửi thanh toán của dân cư
Cộng
Nguồn số liệu: Phòng kinh doanh NHCT Hoàn Kiếm cung cấp
Qua bảng ta có thể thấy được nguồn tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng hầu như là
của các tổ chức kinh tế. Điều này là phù hợp với đặc điểm của nguônd. Các tổ chức
kinh tế trong quá trình kinh doanh của mình, nguồn tiền đến và đi rất bất chợt, khó
đoán trước. Các tổ chức kinh tế thay vì giữu tiền tại cơ quan, họ mang đến gửi
Ngân hàng. Tại đây họ thực hiện các dịch vụ thanh toán của Ngân hàng, tiết kiệm
thời gian cho mình. Đồng thời họ vẫn được hưởng một khoản lãi nhỏ (hiện nay
Ngân Hàng quy định lãi suất không kỳ hạn đối vơí VND là 0,2%/tháng). Điều này
giải thích vì sao nguồn tiền gửi thanh toán chủ yếu là của các tổ chức kinh tế. Tiền
gửi thanh toán của dân cư chủ yếu là của một số ít hộ dân buôn bán cá thể (các hộ

buôn bán ở chợ Đồng Xuân, một số cửa hàng vàng, bạc trên địa bàn quận). Các hộ
này cũng có nhu cầu như các tổ chức kinh tế song qua ccác năm, số này nhỏ dần
trong tỷ trọng. Năm 2000 chiếm 4,64% nhưng đến năm 2002 chỉ còn 2%. Trong
khi đó tiền gửi của các tổ chức kinh tế ngày càng tăng, đến năm 2002, chiếm 98%
tổng tiền gửi thanh toán. Đây có lẽ là xu hướng chung cho một nền kinh tế mở cửa,
khi mà quá trình lưu thông hàng hoá giữa các vùng, giữa các nước ngày càng được
mở rộng, thúc đẩy mạnh mẽ.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

Trong cơ cấu tiền gửi thanh toán chủ yếu là đồng nội tệ, đồng ngoại tệ chiếm một
tỷ trọng nhỏ:
Bảng 2.7. Nguồn tiền gửi thanh toán theo loạI tiền
đơn vị: triệu đồng)
1.VND 156.221 94.04 344.485 97,47 455.631 98,09
2.Ngoại tệ 9.887 5,96 8.931 2,53 8.854 1,91
Tổng 166.108 100 353.416 100 464.485 100
Nguồn số liệu: Phòng kinh doanh NHCT Hoàn Kiếm cung cấp
Đồng nội tệ trong tiền gửi thanh toán có xu hướng tăng qua các năm. Về số tuyệt
đối thì tăng khoảng gấp rưỡi, còn về tỷ trọng thì tăng từ 94,04% năm 2000 lên
98,09% vào năm 2002. Đồng ngoại tệ thì ngày càng giảm đi về tỷ trọng từ 5,96%
năm 2000 xuống còn 1.91% vào năm 2002. Điều này đặt ra cho Ngân Hàng một
vấn đề lớn: Ngân Hàng phải tăng cường quan hệ với các công ty liên doanh, công
ty có vốn đầu tư nước ngoài Ngân Hàng cũng phải tìm kiếm, thu hút những doanh
nghiệp XNK. Bởi nếu khách hàng là những người làm ăn với nước ngoài nhiều thì
Ngân Hàng sẽ có một số lượng lớn ngoại tệ trong tay, sử dụng vào các mục đích
của mình. Đây là cách huy động ngoại tệ rấy hay lại đỡ tốn kém hơn các hình thức
khác.
Nguồn tiền gửi thanh toán của chi nhánh ngày càng có vai trò quan trọng. Số lượng
tăng lên rất nhanh. Đó là do các dịch vụ của Ngân Hàng được thực hiện rất tốt.
Việc thanh toán được thực hiện theo phương châm: Nhanh- chính xác- an toàn. Để

nguồn tiền gửi thanh toán tăng trưởng một cách vững chắc , trong thời gian tới
Ngân Hàng cần quan tâm nhiều đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hoàn
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
thiện mọi dịch vụ để thực sự trở thành: "Kho giữ tiền" của mọi doanh nghiệp trên
điạ bàn quận.
b. Tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội
Nguồn tiền gửi này xét về mặt tiện ích thì không bằng tiền gửi thanh toán, song lại
có lãi cao hơn hẳn. Người gửi tiền ở đây khôngđược quyền rút tiền bất cứ lúc nào
mà chỉ được rút tiền khi đến hạn. Các doanh nghiệp, tổ chức xã hội có nhu cầu chi
trả tiền theo một chu kỳ xác định: 1 tháng, 2 tháng Họ có thể gửi vào khoản mục
này vừa đáp ứng cho nhu cầu của mình vừa có lãi cao. Ngày nay các doanh nghiệp
chuyển bớt từ khoản mục tiền gửi thanh toán sang tiền gửi ngắn hạn ngaỳ càng
nhiều. Kết quả là các Ngân Hàng thu được nguồn này rất lớn, cụ thể tại chi nhánh
như sau:
Bảng 2.8. Nguồn tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế theo kỳ
hạn (đơn vị: triệu đồng)
1.Ngắn hạn (dưới12 tháng)
2.Trung, dài hạn (trên12tháng)
Tổng
Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp
Tiền gửi có kỳ hạn, kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao song trong cơ cấu của
nguồn này thì gần như toàn bộ là ngắn hạn. Đây là một điều dễ giải thích. Doanh
nghiệp là doanh nghiệp, có nghĩa là vốn có được phải được dùng để sản xuất kinh
doanh chứ không đơn thuần là chỉ để gửi Ngân Hàng lấy lãi. Tỷ suất lợi nhuận bình
quân trong kinh doanh lớn hơn lãi suất của Ngân Hàng. Các khách hàng của chi
nhánh, ví dụ như tổng công ty Điện Lực Việt Nam gửi ngắn hạn sau đó họ lấy từng
tháng để trả lương. Đây lầ một hình thức vô cùng thuận tiện. Với hình thức này
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Ngân hàng đã khắc phục được yếu điểm của tiền gửi thanh toán. Đó là nguyên nhân
vì sao chỉ sau một năm, từ 2000 đến 2001, nguồn tiền gửi ngắn hạn của doanh

nghiệp đã tăng 3,38 lần từ 213 tỷ lên 720 tỷ đồng. Năm 2002 nguồn này đạt hơn
1000 tỷ đồng. Có thể khẳng địng đây sẽ là xu hướng trong thời gian tới. Các doanh
nghiệp sẽ vừa kinh doanh, vừa tính toán sao cho đạt được lợi nhuận tối đa với
nguồn vốn của mình. Đây cũng khẳng định uy tín của chi nhánh với các doanh
nghiệp trên địa bàn. Trên quận Hoàn Kiếm, trụ sở của các Ngân Hàng, các chi
nhánh Ngân Hàng khác rất nhiều nhưng các doanh nghiệp vẫn tìm đến với Ngân
Hàng thể hiện qua số dư tiền gửi của doanh nghiệp ngày càng tăng. Năm 2002 so
với năm 2001 tăng 38,86% và so với năm 2000 tăng hơn 5 lần. Quả thật là một con
số trong mơ đối với nhiều chi nhánh, đơn vị khác.
Số dư tiền gửi trung và dài hạn của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội không lớn. Số
dư này chủ yếu là của một số công ty do trong năm không tìm được hướng đầu tư,
để tránh tìng trạng ứ đọng vốn, đã gửi vào Ngân Hàng. Nguồn này tuy cũng tăng
qua các năm song tỷ trọng ngày càng nhỏ dần. Năm 2000 chiếm 0,14% nguồn tiền
gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội. Năm 2001 chiếm 0,05% và
năm 2002 cũng vậy. Đứng ở địa vị Ngân Hàng thì Ngân Hàng mong ngày càng có
nhiều nguồn này. Bởi vì Ngân Hàng có thể sử dụng một cách dễ dàng do kỳ hạn cố
định. Hơn nữa số tiền nay lại ở trong một số ít các công ty, không phức tạp nhỏ lẻ
như tiền gửi tiết kiệm nên có điều kiện làm giảm các chi phí khác trong chi phí huy
động.
Trong các năm qua Ngân Hàng ngày càng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các
doanh nghiệp. Tiền gửi có kỳ hạn có lãi suất cao hơn so với tiền gửi thanh toán. các
doanh nghiệp đã tận dụng điều này và đã nghiên cứu, tính toán chu kỳ kinh doanh
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
của mình để chuyển một phần tiền gửi thanh toán sang tiền gửi có kỳ hạn. Ngân
hàng có một lượng tiền để có thể sử dụng một cách ổn định hơn và doanh nghiệp có
lãi hơn. Đây là một trong nhiều cách thức nhằm đa dạng hoá hình thức huy động,
thu hút thật nhiều nguồn vốn của chi nhánh. Tỷ trọng tiền gửi có kỳ hạn của doanh
nghiệp, tổ chức xã hội trong tổng nguồn vốn huy động tăng lên rất nhanh. Năm
2000 trong tổng nguồn vốn huy động 2.335.896 triệu đồng thì tiền gửi có kỳ hạn
của doanh nghiệp chiếm 9,13%. Năm 2001 con số này là 16,77%, năm 2002 là

19,78%. điều đáng nói ở đây là trong khi tổng nguồn vốn huy động tăng lên gấp
hơn hai lần tử năm 2000 đến năm 2002 thì tỷ trọng cũng tăng lên hơn hai lần. Điều
này càng khẳng định tầm quan trọng của nguồn tiền gửi có kỳ hạn của các doanh
nghiệp, các tổ chức xã hội. Tuy nhiên cũng như tiền gửi thanh toán, nguồn tiền gửi
này lại có sự chênh lệch rất lớn giữa các loại tiền.
Bảng 2.9. Nguồn tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp và tổ chức xã hội theo
loại tiền (đơn vị: triệu đồng)
Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
1.VND 188.368 88,24 690.873 95,84 962.916 96,20
2.Ngoại tệ 25.088 11,76 30.012 4,16 38.118 3,8
Tổng 213.456 100 720.885 100 1.001.034 100
Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp
Trong số khách hàng- doanh nghiệp của chi nhánh, hầu hết là các doanh nghiệp có
môi trường làm ăn ở trong nước. Các khách hàng lớn như tổng công ty Điện lực
Việt Nam cũng ít làm ăn với nước ngoài. Điều này được thể hiện qua tiền gửi có kỳ
hạn của các doanh nghiệp chủ yếu là nội tệ. Tỷ trọng này tăng nhanh trong năm
2001 và dần ổn định ở mức cao trong năm 2002 (96,2%). Ngoại tệ thì ngày càng
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
nhỏ đi từ 11,76% năm 2000 đến 4,16% năm 2001 và 3,8% năm 2002. Để thu hút
nguồn ngoại tệ nhiều hơn nữa, Ngân Hàng phải chú ý đến các đối tượng thuộc
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Một điều thuận tiện cho Ngân Hàng là trên
địa bàn có rất nhiều cửa hàng vàng bạc, rất nhiều khách du lịch nước ngoài. Ngân
Hàng nếu lôi cuốn đựoc hầu hêt số khách này thì chắc hẳn sẽ có một nguồn ngoại tệ
dồi dào dư sức đáp ứng cho các khách hàng là những đơn vị XNK. Đi đôi với tăng
nguồn ngoại tệ thu hút mạnh hơn nữa nguồn nội tệ cũng rất quan trọng. Ngân Hàng
phải đề ra các chính sách về giao tiếp khuếch trương, chính sách về Marketing ngân
hàng. ít nhất Ngân Hàng cũng phải thắng trên sân nhà, tức là phải thu hút được hầu
hết các công ty, doanh nghiệp trên địa bàn làm khách hàng của chi nhánh. Làm
được điều này trong một môi trường có đọ cạnh tranh rất cao như địa bàn Hoàn
Kiếm là rất khó. Song có như vậy Ngân Hàng mới thu hút được khoản tiền gửi có

kỳ hạn của một lượng doanh nghiệp, tổ chức xã hội rất lớn trên địa bàn. Từ đó chi
nhánh có một nguồn vốn dồi dào để thực hiện các hoạt động đầu tư, cho vay, gia
tăng mức lợi nhuận cho mình.
c. Tiền gửi tiết kiệm
Có thể nói nghiệp vụ huy động tiền gửi tiết kiệm là nghiệp vụ có đầu tiên của bất
cứ Ngân hàng nào từ xưa đến nay. Các tầng lớp dân cư đều có khoản thu nhập tạm
thời chưa sử dụng (các khoản tiền tiết kiệm). Trong điều kiện có khả năng tiếp cận
với Ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn
và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn. Nhằm thu hút
ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các Ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư
thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy
động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn (ví dụ
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
như tiền gửi với các kỳ hạn khác nhau, tiết kiệm bằng ngoại tệ, bằng vàng ). Chính
vì vậy đây là khu vực có mức độ cạnh tranh cao nhất giữa các Ngân hàng và các tổ
chức tín dụng khác.
Hiện nay, NHCT Hoàn Kiếm có 11 quỹ tiết kiệm, các quỹ này trực thuộc phòng
Nguồn vốn và được phân bố dải rác trên địa bàn. Ngay từ đầu chi nhánh đã hết sức
coi trọng công tác đặc biệt này. Nó được thể hiện qua việc các quỹ tiết kiệm đều
được ưu tiên trang bị các máy móc thiết bị, môi trường sạch đẹp, khang trang
Ngay trong phòng Nguồn vốn về mặt nhân sự có 54 người thì chỉ có 6 người làm
trên phòng, còn lại tất cả đều xuống các quỹ tiết kiệm. Ngân hàng thường xuyên tổ
chức tập huấn, đào tạo trình độ nghiệp vụ cho các nhân viên ở các quỹ tiết kiệm. Về
các mặt lương thưởng, trợ cấp chi nhánh cũng đều hết sức quan tâm, chú ý. Kết
quả của những việc làm trên là nguồn tiền gửi tiết kiệm ngày càng tăng, phát triển
với một sự vững chắc ổn định qua từng năm.
Bảng 2.10. Tiền gửi tiết kiệm (đơn vị: triệu đồng)
Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
1.Tiền gửi tiết kiệm 358.717 530.686 602.946 625.621
2.Lượng TGTK gia tăng giữa các năm + 171.969 + 72.260 + 22.675

3.Tỷ lệ gia tăng giữa các năm 47,94 13,61 3,71
Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp
Nguồn tiền gửi tiết kiệm của Ngân hàng là rất quan trọng. Nguồn này đáp ứng phần
lớn cho hoạt động tín dụng. Qua các năm nguồn tiền gửi tiết kiệm của Ngân Hàng
đều tăng song tốc độ tăng chậm dần. Nếu như năm 2000 so với năm 1999 tăng đến
47,94% thì năm 2002 so với năm 2001 chỉ tăng 3,76%. Điều này phản ánh môi
trường huy động tiền gửi tiết kiệm ngày càng khó khăn. Những năm 2000 đổ về
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
trước việc huy động tiền gửi tiết kiệm của Ngân Hàng tương đối dễ dàng, đối thủ
cạnh tranh của Ngân Hàng còn ít. Càng về sau với sự tham gia của nhiều tổ chức
tín dụng trên địa bàn như: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Nông
Nghiệp, chi nhánh Citibank đã làm cho sự cạnh tranh ngày càng tăng. Tốc độ gia
tăng tiền gửi tiết kiệm của chi nhánh có giảm song về số tuyệt đối thì vẫn ở mức
cao. Ngân hàng vẫn khẳng định được vị thế vững chắc của mình trên địa bàn quận
Hoàn Kiếm. Nếu xét về tỷ trọng trong tổng nguồn vốn huy động thì tiền gửi tiết
kiệm có xu hướng ngày càng giảm dần. Năm 2000, tỷ trọng tiền gửi tiết kiệm trong
tổng nguồn vốn là 22,71%. Năm 2001, tỷ lệ này còn 14,02% và năm 2002
là12,36%. Như vậy tốc độ tăng của tiền gửi tiết kiệm không tăng nhanh hơn tốc độ
của nguồn vốn huy động. Đây là một vấn đề cần xem xét lại. Để rõ hơn ta tìm hiểu
về tiền gửi tiết kiệm theo kỳ hạn:
Bảng 2.11. Tiền gửi tiết kiệm theo kỳ hạn (đơn vị: triệu đồng)
1.TGTK không kỳ hạn
2.TGTK từ 1 đến 6 tháng
3.TGTK từ 6 đến 9 tháng
4.TGTK từ 12 tháng trở lên
Tổng
Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp
Kỳ hạn của các khoản tiền gửi mà Ngân hàng đưa ra khá phong phú. Hiện nay tại
chi nhánh có các kỳ hạn sau: tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm có
kỳ hạn 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng, 18 tháng, 24 tháng. Về

tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, thực chất đây là khoản tiền gửi tiết kiệm thông
thường. Nguồn này có số dư không lớn và ít biến động qua các năm ( khoảng 1,5%
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
tiền gửi tiết kiệm). Hầu hết mục đích của người gửi tiền vào đây là để lấy lãi nên họ
gửi với kỳ hạn dài (thời hạn càng dài lãi suất càng cao). Tiền gửi tiết kiệm từ 1- 3
tháng có xu hướng tăng qua các năm. Năm 2000 đạt 14,11% tổng số tiền gửi tiết
kiệm. Năm 2002 đạt khoảng 18,7%. Điều này là kết quả của việc đa dạng các kỳ
hạn gửi tiền. Năm 2001, tiền gửi tiết kiệm không có kỳ hạn 2 tháng. Năm 2002,
Ngân hàng mở thêm kỳ hạn này và đã được khách hàng rất hoan nghênh. Nhờ đó
nguồn tiền gửi tiết kiệm đã tăng lên. Ta thấy tốc độ tăng khá đều đã khẳng định xu
thế của nguồn này sẽ tăng trong tương lai. Đối với tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn 6- 9
tháng thì lại ngược lại, đang có xu hướng giảm dần trong thời gian gần đây. Từ
42,115 trong tổng số tiền gửi tiết kiệm năm 2000 xuống còn 37,04% năm 2001 và
35,03% năm 2002. Tuy vậy số dư của nguồn này vẫn lớn. Hình thức này vẫn đáp
ứng được các nhu cầu của khách hàng.
Chiếm tỷ trọng lớn nhất và là nguồn quan trọng nhất trong tiền gửi tiết kiệm là
nguồn tiền gửi tiết kiệm trung và dài hạn. Đây là nguồn chủ yếu dể dùng cho vay
trung và dài hạn, mang lại lợi nhuận cao. Nguồn này có xu hướng ngày càng tăng.
Huy động được nhiều nguồn này chứng tỏ chi nhánh đã có uy tín cao đối với khách
hàng. Người dân có tin tưởng Ngân Hàng thì họ mới gửi vốn trung và dài hạn, một
bộ phận rất không an toàn do yếu tố làm phát. Để gia tăng nguồn trung và dài hạn
này đòi hỏi Ngân hàng phải phục vụ tốt hơn nữa, mở rộng tuyên truyền, quảng cáo
đến từng người dân để thu hút sự chú ý, lòng tin của họ. Đây là cơ sở cho sự phát
triển vững chắc sau này.
Một trong những sáng tạo của chi nhánh là trong năm qua chi nhánh đã đưa ra hình
thức tiết kiệm dự thưởng. Đây là một hình thức mới đối với ngay cả nhân viên
trong Ngân hàng. Tuy nhiên nó cũng đem lại những thành quả bước đầu:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Tiết kiệm dự thưởng bằng VND (đơn vị: triệu đồng)
+ Kỳ hạn 6 tháng: 20.717

+ Kỳ hạn9 tháng: 447
+ Kỳ hạn 12 tháng: 7.178
Nguồn vốn thu được tuy không nhiều song quan trọng là qua đó, khách hàng biết
đến Ngân hàng nhiều hơn, một hình thức quảng cáo rất tốt. Nhưng trong loại hình
tiết kiệm dự thưởng, kỳ hạn Ngân hàng đưa ra còn chưa đa dạng. Ngay cả đợt tiết
kiệm dự thưởng hiện tại mà Ngân hàng đang mở ra từ 1/4/2003 đến 30/6/2003 cũng
chỉ có kỳ hạn 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng. Ngân hàng có thể mở thêm kỳ hạn hơn
nữa để thu hút khách hàng. Đồng thời với việc tăng thêm kỳ hạn, Ngân hàng có thể
nghiên cứu đưa ra hình thức tiết kiệm dự thưởng bằng USD. Có như vậy mới thu
hút được nhiều nhất tiền gửi tiết kiệm có thể.
Về loại tiền gửi tiết kiệm, năm 2000 chi nhánh đã có một bước đột phá là nhận tiền
gửi bằng EUR. Tiền gửi tiết kiệm bằng EUR có kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng.
Đây là một bước tiến tới đa dạng các đồng tiền Ngân hàng huy động.
Bảng 2.12. TGTK bằng EUR theo thời hạn (đơn vị: triệu đồng)
1.TGTK không kỳ hạn
2.TGTK ngắn hạn
3.TGTK trung và dài hạn
Tổng
Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp
Có thể thấy mục đích chủ yếu của người gửi tiền là để hưởng lãi nên số dư tiền gửi
trung và dài hạn lớn hơn hẳn nguồn ngắn hạn. Thường là gần gấp đôi. Nguồn tiền
gửi tiết kiệm ngắn hạn bằng ngoại tệ có xu hướng tăng dần, năm 2000 chiếm
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×