RỬA TIỀN MỘT TỘI PHẠM QUỐC TẾ ĐIỂN
HÌNH
VŨ DUY CƯƠNG
Giảng viên Khoa luật Quốc tế, Đại học Luật TP.
HCM
Rửa tiền từ những nguồn thu nhập phi pháp là hành
vi đã xuất hiện từ lâu, nhưng trong vòng 20 năm gần
đây mới được nghiên cứu, xem xét và quy định trong
Luật ở một số quốc gia trên thế giới. Cùng với quá
trình toàn cầu hóa và sự phát triển liên tục của công
nghệ thông tin, hành vi rửa tiền ngày càng lớn về mặt
quy mô, đa dạng, tinh vi về cách tiến hành và mang
đậm tính quốc tế hơn bao giờ hết.
1. Về khái niệm “Rửa tiền”:
Theo nghĩa thông thường, hành vi rửa tiền được coi
là “hành vi biến đổi các khoản thu nhập nhằm che
đậy nguồn gốc phi pháp nguyên thủy của chúng”
(theo định nghĩa của FATF - Financial Aciton Task
Force on Money Laundering - đội đặc nhiệm chống
rửa tiền quốc tế), “là một quá trình chuyển đổi doanh
thu từ các hoạt động bất hợp pháp thành các nguồn
vốn hợp pháp” (Giáo sư Byung-Ki-Lee,Viện nghiên
cứu hình sự Hàn Quốc), “là hành vi của bọn tội phạm
biến đổi các đồng tiền bất hợp pháp (tiền bẩn) thành
đồng tiền hợp pháp (tiền sạch)”….
Rửa tiền là hành vi rất nguy hiểm. Nó không chỉ gây
thiệt hại nghiêm trọng cho các nền kinh tế mà còn có
những ảnh hưởng đến an ninh từng quốc gia, tác
động nghiêm trọng đến sự trong sạch và hoàn chỉnh
của hệ thống tài chính toàn thế giới. Hành vi rửa tiền
được xem là một tội phạm “không biên giới” - một
tội phạm quốc tế điển hình vì hành vi này mang 2 đặc
trưng chính:
- Có thể xảy ra từ khi bắt đầu đến kết thúc liên quan
đến nhiều quốc gia.
- Muốn chống lại hành vi rửa tiền hiệu quả, phải có
sự hợp tác quốc tế chặt chẽ giữa các quốc gia.
Hoạt động rửa tiền có thể dựa vào nhiều phương cách
khác nhau. Cách thức thông thường nhất mà bọn rửa
tiền quốc tế hay làm là tiến hành chuyển một lượng
lớn tiền ra nước ngoài bằng con đường hợp pháp
hoặc phi pháp, hợp pháp hóa khoản tiền đó bằng
nhiều cách như gửi tiền vào hệ thống tài chính quốc
gia, đầu tư vào chứng khoán, sòng bạc, xây dựng cơ
sở hạ tầng, mua bán bất động sản, ký hợp đồng thật
mua bán giả… sau đó chuyển ngược lại quốc gia ban
đầu hoặc khắp thế giới nhằm đạt được mục đích của
bọn tội phạm.
Như vậy, chúng ta thấy hoạt động rửa tiền có thể trải
qua 3 bước sau:
- Thâu nhận các khoản tiền từ các hành vi tội phạm.
- Hợp pháp hóa tiền bằng nhiều cách thức khác nhau.
- Sử dụng công khai các khoản tiền đã được làm
sạch.
Thậm chí sau bước thứ ba, từ việc sử dụng các khoản
tiền đã được làm sạch đó, các tổ chức tội phạm quốc
tế lại tiếp tục cung cấp tài chính cho thế giới tội phạm
như buôn bán ma túy, khủng bố, hối lộ… hoặc lũng
đoạn cả nền kinh tế, chính trị của quốc gia với bàn
tay và bộ mặt sạch sẽ. Vì thế toàn bộ quá trình rửa
tiền (dù có lúc bí mật, có lúc công khai) luôn khép
kín trong một vòng tròn lợi nhuận phi pháp.
Theo đánh giá gần đây nhất, hoạt động rửa tiền được
xem là có giá trị đứng thứ 3 trên thế giới sau kinh
doanh dầu mỏ và buôn bán vũ khí. Theo đánh giá của
Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) có trụ sở chính tại
Paris, thì doanh số hoạt động rửa tiền lên đến 1.100
tỷ USD/năm, chiếm 2% GDP toàn cầu. Theo bản báo
cáo mới đây của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh
tế (OECD - Organization For Economic Cooperation
And Development) thì doanh số nền kinh tế đen của
Anh chiếm xấp xỉ 7% GDP, ở Mỹ xấp xỉ 9%, Đức
10% trong khi Ý, Hy Lạp, Tây Ban Nha gần 25%
GDP. Ở Nga và các quốc gia Trung, Đông Âu dự
đoán doanh số của nền kinh tế đen lên đến 50% GDP.
Thông thường, có một sự liên hệ chặt chẽ giữa rửa
tiền và tội phạm quốc tế. Hay nói cách khác, những
hành vi phạm tội xảy ra trước đó chính là tiền đề phát
sinh hành vi rửa tiền sau này. Một câu hỏi đặt ra ở
đây là tội rửa tiền được phát sinh từ các hành vi phạm
tội nào? Trước đây pháp luật về chống rửa tiền tại
một số quốc gia trên thế giới đều chỉ nhằm một mục
đích ngăn chặn việc tẩy trắng các khoản thu nhập liên
quan đến hành vi sản xuất và buôn bán ma tuý. Sau
đó, Mỹ và các quốc gia khác đã đi tiên phong trong
việc điều tra, ngăn chặn và truy tố những kẻ rửa các
khoản tiền phi pháp từ các hành vi tống tiền, hối lộ,
tham nhũng và làm hàng giả. Ngày nay, pháp luật các
quốc gia này đã mở rộng phạm vi điều chỉnh hướng
tới các khoản thu nhập từ các hành vi phi pháp mang
tính quốc tế khác như buôn lậu (rượu, thuốc lá, chip
máy tính, vũ khí, vật liệu hạt nhân, kim khí quý, đá
quý…) đưa người nhập cư bất hợp pháp, buôn bán
phụ nữ, trộm cắp, tiêu thụ đồ gian, buôn bán động
thực vật quý hiếm, buôn bán các bộ phận cơ thể
người….
2. Tình hình hợp tác quốc tế về chống rửa tiền:
Trong giai đoạn hiện nay, cộng đồng quốc tế đã có
những nỗ lực thực sự để xúc tiến các biện pháp,
chính sách pháp luật về chống rửa tiền. Tuy nhiên, sự
hợp tác quốc tế giữa các quốc gia đôi khi gặp những
trở ngại rất lớn liên quan đến an ninh và chủ quyền
quốc gia. Trong thực tế đã từng xảy ra những căng
thẳng giữa Mỹ và Mexico liên quan đến việc Mexico
cho rằng chủ quyền và luật pháp của nước họ bị vi
phạm nghiêm trọng bởi hành vi của các nhân viên
điều tra chống rửa tiền Mỹ tiến hành điều tra các
ngân hàng tại Mexico. Thậm chí, khi các quy định về
pháp luật và tài chính không tương xứng tại các quốc
gia khác nhau cũng là nguyên nhân khiến những
khoản tiền bẩn rời những quốc gia này để đi “tẩy,
rửa” tại các quốc gia khác. Lúc đó, việc chống rửa
tiền quốc tế sẽ gặp nhiều khó khăn và sẽ không hiệu
quả khi mà việc tẩy trắng tiền bẩn rất khó thực hiện ở
quốc gia này nhưng lại được thực hiện dễ dàng ở
quốc gia khác.
Vì vậy, để cuộc đấu tranh chống tội phạm rửa tiền có
hiệu quả luật pháp, chính sách, những kinh nghiệm
thực tiễn về chống rửa tiền đã được nhiều quốc gia
thông qua và thi hành. Năm 1989, các nhóm nước G7
đã thành lập ra FATF (Đội đặc nhiệm chống rửa tiền
quốc tế) và phát triển đến nay với 26 quốc gia thành
viên trải khắp các châu lục. Đây là một tổ chức liên
chính phủ có uy tín và thực lực, đi tiên phong trong
việc điều tra, ngăn cản hoạt động rửa tiền, tư vấn cho
các quốc gia về các biện pháp chống lại nạn rửa tiền
đang ngày càng hoành hành trên thế giới. FATF có sự
hợp tác chặt chẽ với INTERPOL – Tổ chức cảnh sát
hình sự quốc tế.
Một số quốc gia cũng có các đạo luật riêng của mình
như đạo luật chống rửa tiền 1998 của Mỹ quy định
rửa tiền là một tội nghiêm trọng của liên bang. Đây là
một đạo luật rất chặt chẽ với việc quy định cụ thể
như: thế nào là các loại giao dịch có các khoản tiền
đáng ngờ, quyền và nghĩa vụ của các tổ chức tài
chính, ngân hàng và công ty Mỹ trong việc nhận biết,
điều tra và báo cáo về các tài khoản bị nghi ngờ có
thể liên quan đến hoạt động rửa tiền cho các nhân
viên có thẩm quyền của Nhà nước. Rõ ràng, đạo luật
này đã có những bước đột phá mạnh mẽ vào nguyên
tắc đảm bảo bí mật tuyệt đối của hoạt động tiền gửi
tại ngân hàng – một lãnh vực được xem như “bất khả
xâm phạm” theo Luật bí mật Ngân hàng được ban
hành trước đó. Tuy nhiên, một số hoạt động điều tra
của cơ quan pháp luật bị hạn chế là chỉ được thi hành
khi “có các bằng chứng cụ thể và hợp lý” và các ngân
hàng, tổ chức tài chính sẽ được bãi bỏ trách nhiệm
pháp lý nếu họ đã tự nguyện vạch trần các thủ đoạn
rửa tiền tại cơ quan mình hoặc cộng tác chặt chẽ với
các nhân viên chống rửa tiền sau đó. Trong đạo luật
chống rửa tiền 1998, Mỹ đưa ra mức chế tài phạt tù
tối đa 20 năm, phạt tiền tới 500.000 USD hoặc gấp
đôi số tiền được rửa – tịch thu khoản tiền đó.
Các quốc gia ở Trung Mỹ và Châu Mỹ La tinh luôn
được coi là “sân sau”, là “thiên đường” để rửa các
khoản tiền phát sinh từ các hoạt động phi pháp của
các tổ chức tội phạm ở Bắc Mỹ và Châu Âu. Gần
đây, hầu hết các quốc gia này đều đã thông qua các
chính sách, các đạo luật chống tẩy rửa tiền. Quốc gia
vùng Trung Mỹ – Belize, trong luật chống rửa tiền
của mình thậm chí còn quy định cả về trách nhiệm
pháp lý của các nhân viên chuyên trách điều tra về
rửa tiền nếu họ do vô tình hoặc cố ý tiết lộ bí mật
đang điều tra về các vụ rửa tiền.
Tại Châu Á, hầu hết các quốc gia đều chưa có đạo
luật chống rửa tiền, các tổ chức tài chính tại đây cũng
chưa có các quy định hoặc cơ chế giám sát thích hợp
đối với vấn đề này. Lấy ví dụ từ Trung Quốc – các
khoản thu nhập phi pháp từ buôn bán ma túy, buôn
lậu, tham nhũng… được chuyển sang Hồng kông để
sau đó lại tái đầu tư vào Trung Quốc dưới dạng các
khoản đầu tư nước ngoài. Hiện nay, dự thảo Luật
chống rửa tiền sắp được thông qua tại Ấn Độ, Trung
Quốc, Philippin…
Chính sách mở cửa hội nhập với khu vực và thế giới
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội sẽ đặt Việt
Nam ta trước nguy cơ thâm nhập “muôn hình muôn
vẻ” của các tội phạm quốc tế nói chung và bọn tội
phạm rửa tiền nói riêng. Trong thời gian qua, lực
lượng cảnh sát Việt Nam đã phối hợp với
INTERPOL điều tra khám phá nhiều vụ án kinh tế có
quy mô quốc tế, trong đó có liên quan đến hành vi
rửa tiền.
Hiện nay tại Điều 251 Bộ luật Hình sự 1999 đã có
quy định về “Tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm
tội mà có”. Trong điều luật này đã thể hiện được một
số vấn đề pháp lý về tội “Rửa tiền” như: Hành vi
thông qua các nghiệp vụ tài chính hoặc các giao dịch
khác, tiến hành các hoạt động kinh doanh hoặc hoạt
động kinh tế khác để hợp pháp hóa tiền, tài sản do
phạm tội mà có. Chủ thể là người cụ thể đã thực hiện
hành vi “rửa tiền” hoặc người khác biết được nguồn
gốc bất hợp pháp của tiền, nhưng vẫn giúp sức, tiếp
tay, tạo điều kiện để hợp pháp hóa. Hình phạt tại
khung 1 là phạt tù từ 1 đến 5 năm, tội phạm có 3 tình
tiết tăng nặng tại khung 2 với mức phạt tù tối đa đến
15 năm. Trước đó, tại Điều 19 Luật các tổ chức tín
dụng (12/12/1997) có quy định nghĩa vụ liên quan
đến các nguồn vốn có nguồn gốc bất hợp pháp như
sau:
1. Tổ chức tín dụng và các tổ chức khác có hoạt động
ngân hàng không được che giấu, thực hiện bất kỳ
dịch vụ nào liên quan đến khoản tiền đã có bằng
chứng về nguồn gốc bất hợp pháp.
2. Trong trường hợp phát hiện các khoản tiền có dấu
hiệu bất hợp pháp, tổ chức tín dụng và các tổ chức
khác có hoạt động ngân hàng phải thông báo ngay
cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Có thể xem các quy định trên là những cơ sở pháp lý
cơ bản để xây dựng nên khái niệm pháp lý về “Rửa
tiền” và “Tội rửa tiền” ở nước ta. Tuy nhiên đó là
những quy định còn quá sơ sài, chung chung. Thực
tiễn đấu tranh chống rửa tiền trên thế giới cho thấy hệ
thống các tổ chức tín dụng của quốc gia là nơi tiềm
ẩn những nguy hiểm, mang tính nhạy cảm dễ bị các
tổ chức tội phạm tấn công nhất, nhưng cũng chính là
nơi có thể dễ dàng cho sự khám phá, điều tra, truy tố,
đồng thời các khoản tiền cũng dễ dàng được thu hồi
và tịch thu. Do vậy, trong luật này cần có thêm những
quy định cụ thể để các tổ chức tín dụng trở thành các
phòng tuyến vững chắc đầu tiên chống lại sự xâm
nhập của các khoản tiền bất hợp pháp.
Để theo kịp tình hình kinh tế xã hội hiện nay, nếu
chưa có điều kiện xây dựng Luật chống rửa tiền ở
Việt Nam thì chúng ta cần phải có thêm các quy định
pháp lý có liên quan bổ sung thêm về hành vi “rửa
tiền”, nhất là trong các lĩnh vực như Ngân hàng, bảo
hiểm, đầu tư nước ngoài…, nhằm phù hợp với thực
tiễn phát triển kinh tế. Việc quy định tại Điều 251 Bộ
luật Hình sự cần được cụ thể hóa để phù hợp với yêu
cầu tội phạm hóa các hành vi nguy hiểm cho xã hội,
chống lại hoặc cản trở chính sách kinh tế xã hội của
nhà nước ta, qua đó tạo ra hành lang pháp lý an toàn,
bảo đảm khuyến khích các hoạt động kinh tế tích cực,
hợp pháp ngày càng phát triển. Ngoài ra, sự hợp tác
quốc tế tích cực trong khuôn khổ song phương và đa
phương giữa các quốc gia trong khu vực cũng cần
được đặt ra. Nước ta cần hợp tác chặt chẽ với Tổ
chức cảnh sát ASEAN – ASEANPOL – trong việc
đấu tranh chống, ngăn chặn và hạn chế hành vi rửa
tiền quốc tế.