THẨM QUYỀN XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH
CHÍNH
NGUYỄN THỊ NHÀN
ThS. Giảng viên khoa Luật Hành chính - ĐH Luật
TP. HCM
Xử phạt vi phạm hành chính là một dạng hoạt động
áp dụng pháp luật hành chính, là quá trình các cơ
quan nhà nước, người có thẩm quyền căn cứ vào
pháp luật, tính chất, mức độ vi phạm, nhân thân
người vi phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ… để
ban hành các quyết định xử phạt. Việc hoàn thiện các
quy định về xử phạt vi phạm hành chính (XPVPHC)
là đòi hỏi cấp thiết trong tình hình hiện nay nhằm
đảm bảo việc xử phạt đúng đắn. Các quy định về
XPVPHC phải được thực thi nghiêm chỉnh từ phía
các cơ quan có thẩm quyền XPVPHC, trong đó việc
xác định thẩm quyền xử phạt có ý nghĩa rất quan
trọng.
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 1995 (Pháp lệnh
năm 1995), và các văn bản khác về XPVPHC như
các Nghị định của Chính phủ, Thông tư của các Bộ
trưởng là cơ sở pháp lý để xác định: cơ quan nào có
thẩm quyền xử phạt; hình thức và biện pháp xử phạt
mà cơ quan đó được áp dụng; cơ quan đó có thẩm
quyền phạt đối tượng thực hiện hành vi vi phạm hành
chính nào; mức phạt được áp dụng là bao nhiêu
v.v…. Từ đó góp phần loại trừ tình trạng hành vi vi
phạm hành chính của cá nhân, tổ chức bị xử phạt bởi
người không có thẩm quyền; người có thẩm quyền áp
dụng hình thức phạt nào đó nhưng lại vượt quá mức
cho phép, thậm chí áp dụng hình thức xử phạt mà
pháp luật không cho phép. Những quy định về thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính là cơ sở để ngăn
ngừa sự lạm quyền trong quá trình xử phạt, đảm bảo
việc xử phạt được tiến hành nhanh chóng, kịp thời,
công minh.
Thực tiễn xử phạt vi phạm hành chính cho thấy
những quy định của pháp luật hiện hành về thẩm
quyền XPVPHC còn nhiều vấn đề bất cập, cần sửa
đổi, bổ sung:
Thứ nhất: Về cơ quan có thẩm quyền XPVPHC Pháp
lệnh năm 1995 đã dành riêng một chương (Từ Điều
26 đến Điều 35) quy định về thẩm quyền xử lý vi
phạm hành chính. Các cơ quan được xác định có
thẩm quyền này bao gồm: UBND các cấp, các cơ
quan quản lý ngành, lĩnh vực (Hải quan, kiểm lâm,
cảnh sát, quản lý thị trường), TAND các cấp, cơ quan
thi hành án. Như vậy, theo Pháp lệnh thì thẩm quyền
xử phạt vi phạm hành chính chủ yếu thuộc về các cơ
quan hành chính Nhà nước, trong đó cơ quan hành
chính Nhà nước có thẩm quyền chung ở địa phương
(Ủy ban nhân dân các cấp) có thẩm quyền xử phạt
đối với mọi vi phạm hành chính xảy ra trên địa bàn
quản lý của mình. Còn các cơ quan quản lý ngành,
lĩnh vực có thẩm quyền xử phạt đối với các vi phạm
hành chính xảy ra trong ngành, lĩnh vực mình phụ
trách.
Việc Pháp lệnh năm 1995 cũng như dự thảo Pháp
lệnh (sửa đổi) tập trung giao quyền xử phạt vi phạm
hành chính cho các cơ quan hành chính (người có
thẩm quyền) là hợp lý. Với tư cách là thiết chế hoạt
động thường xuyên, liên tục, cơ quan hành chính đủ
điều kiện đảm bảo xử lý nhanh chóng, có hiệu quả
các vi phạm hành chính. Hơn nữa, vi phạm hành
chính xảy ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội, mà trên bất cứ địa bàn nào, dù ở cấp cơ sở cũng
đều có sự hiện diện của các cơ quan quản lý. Nhờ đó
mà các cơ quan này có điều kiện phát hiện và xử lý
kịp thời các vi phạm hành chính.
Thẩm quyền xử phạt của Tòa án nhân dân được quy
định trong một phạm vi giới hạn: Thẩm phán được
phân công chủ tọa phiên tòa có thẩm quyền xử phạt
vi phạm hành chính với hai hình thức phạt cảnh cáo
và phạt tiền đến 100.000 đồng đối với các chủ thể
thực hiện hành vi cản trở hoạt động xét xử.
Tuy xu hướng chung là giảm dần về số lượng các cơ
quan có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính,
nhưng để đáp ứng nhu cầu quản lý nhà nước, phù hợp
với tình hình kinh tế - xã hội, so với Pháp lệnh xử lý
vi phạm hành chính năm 1989 (Pháp lệnh năm 1989),
Pháp lệnh năm 1995 đã bổ sung thêm một số chức
danh có thẩm quyền xử phạt như: Cục trưởng Cục
kiểm lâm, Cục trưởng Cục Thuế, Giám đốc công an
cấp tỉnh…. Tuy nhiên, quy định của Pháp lệnh năm
1995 về các cơ quan có thẩm quyền XPVPHC lại
không còn phù hợp với một số văn bản pháp luật ban
hành sau năm 1995 (Ví dụ: Luật Thương mại năm
1997 có quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính của cơ quan thanh tra thương mại, Nghị
định 78CP ngày 29-11-1996 của Chính phủ về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ và
kiểm dịch thực vật…). Một vấn đề khác cũng đang
gây nhiều tranh luận là hiện có nên tiếp tục trao cho
cơ quan cảnh sát kinh tế, cảnh sát hình sự thẩm quyền
xử phạt vi phạm hành chính hay không? Nếu bỏ thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính của cơ quan này
thì có đảm bảo xử lý nhanh chóng, kịp thời các vi
phạm hành chính không?
Theo quy định của Pháp lệnh năm 1995, Thẩm phán
được phân công chủ tọa phiên tòa có quyền phạt cảnh
cáo, phạt tiền đến 100.000 đồng (khoản 1 Điều 35).
Nhưng nếu hành vi vi phạm còn gây thiệt hại cho Tòa
án, cho người khác như xô đẩy làm hư hỏng bàn ghế;
gây thương tích nhưng chưa đến mức phải truy cứu
trách nhiệm hình sự, …) thì giải quyết như thế nào?
Thứ hai: Về nguyên tắc phân định thẩm quyền xử
phạt
Quy định về các cơ quan có thẩm quyền xử phạt đã
thể hiện rõ việc phân cấp về xử phạt. Cụ thể:
Mỗi người có thẩm quyền XPVPHC được quyền áp
dụng các hình thức phạt, mức phạt khác nhau. Để
đảm bảo việc xử lý không chồng chéo, hoặc có thể
một vi phạm do nhiều người xử lý, do đó vi phạm
nguyên tắc “Một vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt
một lần, cả Pháp lệnh năm 1989 và Pháp lệnh năm
1995 đều dành riêng một điều quy định về nguyên tắc
phân định thẩm quyền xử phạt (Điều18 Pháp lệnh
năm 1989 và Điều 37 Pháp lệnh năm 1995), nhưng
có sự cụ thể hóa và hợp lý khác nhau.
Pháp lệnh năm 1989 không xác định rõ các cơ quan
có thẩm quyền XPVPHC trong lĩnh vực nào, ở phạm
vi nào. Pháp lệnh năm 1995 đã phân định thẩm quyền
xử phạt dựa trên cơ sở loại hành vi, tính chất, mức độ
vi phạm. Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp khác
nhau có quyền áp dụng các hình thức và mức phạt
khác nhau. Tương tự, đối với cơ quan thanh tra cũng
có sự phân định về mức phạt, hình thức phạt. Quy
định này là hợp lý vì các cơ quan quản lý nhà nước,
với vị trí pháp lý khác nhau, phạm vi thẩm quyền
khác nhau thì không thể áp dụng các hình thức phạt,
mức phạt giống nhau.
Cả hai Pháp lệnh năm 1989 và Pháp lệnh năm 1995
đều có quy định thống nhất là: nếu vi phạm hành
chính thuộc thẩm quyền của nhiều cơ quan thì việc
xử lý do cơ quan thụ lý đầu tiên thực hiện.
Pháp lệnh năm 1995 và các Nghị định của Chính phủ
về XPVPHC trong các lĩnh vực đã cố gắng thể hiện
sự phân định thẩm quyền xử phạt ngày càng rõ, hợp
lý hơn. Song, thực tế cho thấy: đối với một số cơ
quan thẩm quyền về XPVPHC được Nhà nước trao
chưa thực sự phù hợp.
Ví dụ: Điều 26 - Pháp lệnh năm 1995 quy định Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có quyền phạt đến
200.000 đồng. Xuất phát từ sự khác biệt về kinh tế xã
hội của địa bàn xã, phường, mức phạt trên đối với
Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã là phù hợp. Song, với
Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường, đây là mức phạt
quá thấp, không phù hợp với đặc điểm địa bàn
phường là hoạt động sản xuất – kinh doanh – thương
mại – dịch vụ diễn ra sôi động, tình hình trật tự xã hội
phức tạp.
Trong thực tế, có cá nhân, tổ chức thực hiện nhiều vi
phạm hành chính và bị cơ quan có thẩm quyền phát
hiện vào cùng một thời điểm (Ví dụ: Người sử dụng
lao động vừa vi phạm các quy định về sử dụng lao
động, vừa vi phạm các quy định về văn hóa, về môi
trường…). Tuy nhiên, người có thẩm quyền lập biên
bản rất lúng túng, không biết nên tách riêng từng vi
phạm để chuyển cho cơ quan quản lý chuyên ngành
hay chuyển lên Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Do vậy,
việc xử lý không thể đảm bảo đúng thủ tục cũng như
không thể xác định được việc chuyển hồ sơ vụ vi
phạm cho cơ quan nào đó là đúng hay sai.
Thứ ba: Quá trình XPVPHC của người có thẩm
quyền còn có sự vi phạm về trình tự, thủ tục, hình
thức và mức phạt.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 47 Pháp lệnh năm
1995, nếu người lập biên bản không có thẩm quyền
xử phạt thì phải gửi biên bản đến người có thẩm
quyền xử lý. Song, thực tế cho thấy, người lập biên
bản mà không có thẩm quyền xử phạt thường chậm
trễ trong việc giao biên bản cho người có thẩm quyền
xử phạt, vì pháp luật không quy định nếu chuyển biên
bản thì trong vòng bao nhiêu ngày, kể từ ngày lập
biên bản. Ngay cả người có thẩm quyền xử phạt cũng
không tuân thủ thời hạn ra quyết định xử phạt, đặc
biệt là việc ra quyết định xử phạt đối với các vi phạm
hành chính trong lĩnh vực thương mại, thuế, quản lý
bảo vệ rừng, hải quan, v.v….
Trong thực tế, ở nhiều địa phương, nhiều lĩnh vực đã
xảy ra tình trạng xử phạt tràn lan, không đúng đối
tượng, tính chất, mức độ vi phạm. Có nhiều vi phạm
hành chính, pháp luật quy định chỉ phạt cảnh cáo,
nhưng người có thẩm quyền lại áp dụng hình thức
phạt tiền. Chế tài phạt tiền thường quy định mức phạt
tiền tối thiểu và mức phạt tiền tối đa. Mục đích của
quy định này là để người có thẩm quyền căn cứ vào
tính chất, mức độ vi phạm, nhân thân người vi phạm,
các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ để quyết định hình
thức và mức phạt tiền cho phù hợp. Nhưng trong thực
tế đã xảy ra tình trạng: hoặc là người thụ lý đầu tiên
vụ vi phạm cố tình lựa chọn mức phạt nào thuộc
thẩm quyền của mình để ra quyết định xử phạt mà
không phải chuyển lên cấp trên, nếu Nghị định quy
định về việc xử phạt hành vi đó có quy định về trích
thưởng; hoặc ngược lại, dù mức phạt thuộc thẩm
quyền của người thụ lý đầu tiên, nhưng họ vẫn
chuyển biên bản lên cấp trên với lý do vi phạm không
thuộc thẩm quyền xử lí của mình để đùn đẩy trách
nhiệm. Do vậy, các vụ vi phạm hành chính chuyển
lên cấp trên quá nhiều dẫn đến việc xử lí không đúng
đắn, kịp thời.
Sự vi phạm về thủ tục, hình thức và mức phạt có
nhiều nguyên nhân, song chúng tôi cho rằng nguyên
nhân chủ yếu là do pháp luật hiện hành còn nhiều bất
cập.
Ví dụ: Điều 12 và Điều 13 Pháp lệnh năm 1995 quy
định về các hình thức phạt cảnh cáo và phạt tiền,
song chưa có sự phân biệt thế nào là vi phạm hành
chính nhỏ để áp dụng hình thức phạt cảnh cáo hay
phạt tiền. Quy định về mức phạt tiền tối thiểu và tối
đa có khoảng cách quá xa sẽ dẫn tới tình trạng có
những vi phạm hành chính với tính chất, mức độ như
nhau nhưng các cơ quan có thẩm quyền XPVPHC lại
quyết định các mức phạt khác nhau.
Hiện nay, về cách xác định mức phạt tiền tối thiểu và
tối đa do có liên quan đến các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ…, Pháp lệnh năm 1995 không quy định,
còn các Nghị định về XPVPHC thì không quy định
hoặc quy định không thống nhất. Điều này đã gây sự
lúng túng cho người có thẩm quyền khi cần xác định
mức phạt như thế nào cho phù hợp để đảm bảo vừa
không xâm phạm quyền tự do, dân chủ của dân, vừa
đảm bảo tính nghiêm khắc của chế tài XPVPHC.
Điều 48, Pháp lệnh năm 1995 quy định thời hạn ra
quyết định xử phạt là trong vòng 15 ngày, kể từ ngày
lập biên bản vi phạm hành chính. Nếu có nhiều tình
tiết phức tạp thì thời hạn trên có thể kéo dài hơn
nhưng không quá 30 ngày. Trong trường hợp mức
phạt tiền thuộc thẩm quyền của cơ quan thụ lý đầu
tiên vụ vi phạm, nhưng hình thức tước quyền sử dụng
giấy phép lại thuộc thẩm quyền của cơ quan nhà nước
cấp trên thì cơ quan thụ lý đầu tiên ra quyết định đình
chỉ hành vi vi phạm hành chính và đề nghị cấp trên
quyết định tước quyền sử dụng giấy phép. Quy định
về thời hạn ra quyết định xử phạt trong vòng từ 15 –
30 ngày là không đảm bảo vì đối với các vụ việc
phức tạp (trong lĩnh vực Thương mại; Thuế; Hải
quan …) thì không thể ra quyết định xử phạt dù với
thời hạn tối đa là 30 ngày. Ngay cả việc gửi quyết
định phạt tiền từ 2.000.000 đồng trở lên, quyết định
tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm có giá trị từ
5.000.000 đồng trở lên cho Viện kiểm sát nhân dân
cùng cấp cũng cần quy định rõ thời hạn gửi là bao lâu
kể từ ngày ra quyết định xử phạt. Thực tế có những
cơ quan, sau một thời gian, với một số lượng nhất
định quyết định phạt tiền, quyết định tịch thu phương
tiện, tang vật vi phạm mới gửi cho Viện kiểm sát
nhân dân cùng cấp. Do vậy, VKSND gặp rất nhiều
khó khăn trong việc kiểm tra các quyết định gửi đến.
Thứ tư: Chất lượng đội ngũ những người có thẩm
quyền xử phạt.
Trong thực tế, nhiều người có thẩm quyền xử phạt đã
không tuân thủ các quy định của pháp luật, có người
đã “nhẹ tay có mục đích” khi XPVPHC. Do vậy, việc
XPVPHC chưa bảo đảm tính nghiêm minh, khách
quan, công bằng.
Từ những quy định pháp luật hiện hành về thẩm
quyền XPVPHC và thực tiễn thực hiện thẩm quyền
này, thiết nghĩ việc sửa đổi Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính cần quán triệt một số nội dung sau:
Một là, cần quy định hợp lý hệ thống các cơ quan có
thẩm quyền XPVPHC. Vấn đề không phải ở chỗ càng
nhiều cơ quan có thẩm quyền XPVPHC thì càng tốt.
Ví dụ: Bộ Thương mại chưa thành lập cơ quan thanh
tra chuyên ngành thương mại, và cơ quan quản lý thị
trường được Chính phủ giao chức năng thanh tra
chuyên ngành thương mại nên cần tiếp tục giao cho
cơ quan quản lý thị trường thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính. Điều này bảo đảm cho công cuộc
đấu tranh, xử lý các hành vi buôn lậu, kinh doanh trái
phép, buôn bán hàng giả,… thu được nhiều kết quả.
Nhà nước không nên giao quyền XPVPHC cho cơ
quan cảnh sát kinh tế, cảnh sát hình sự để đảm bảo
cho các cơ quan này tập trung vào việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ chính của mình, tránh tình trạng
hành chính hóa các quan hệ hình sự.
Đối với Tòa án nhân dân, để đảm bảo việc xử lý vi
phạm hành chính được nhanh chóng, kịp thời, cần
tiếp tục quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính của cơ quan này. Tuy nhiên, không dừng ở
mức độ quy định Thẩm phán được phân công chủ tọa
phiên tòa chỉ có quyền phạt cảnh cáo, phạt tiền mà
còn có thẩm quyền áp dụng các hình thức xử phạt
khác như tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm,
buộc bồi thường thiệt hại….
Việc quy định về các cơ quan có thẩm quyền
XPVPHC phải dựa trên cơ sở: bất cứ hành vi vi phạm
hành chính ở lĩnh vực nào cũng cần có chủ thể xử lý
kịp thời, nhanh chóng, đúng pháp luật. Người có
thẩm quyền quản lý ngành, lĩnh vực nào thì có thẩm
quyền xử lý các vi phạm hành chính phát sinh trong
ngành, lĩnh vực đó. Cần xác định chủ thể ra quyết
định xử phạt là cá nhân có thẩm quyền để bảo đảm
xử lý đúng đắn các vi phạm hành chính. Đồng thời
quy định rõ trách nhiệm của họ trong việc ra quyết
định xử phạt. Cần loại trừ tình trạng quyết định
XPVPHC được ban hành dưới dạng như: TM. Ủy
ban nhân dân; TM. Ban thanh tra…. Trong trường
hợp những quyết định này có sự vi phạm về thời hạn
ra quyết định xử phạt, mức phạt không tương xứng
với tính chất, mức độ vi phạm… thì việc xác định
trách nhiệm của chủ thể ra quyết định xử phạt sẽ rất
khó khăn.
Pháp lệnh mới cần được xây dựng theo hướng khắc
phục nhược điểm của Pháp lệnh năm 1989 và Pháp
lệnh năm 1995 về việc xác định thẩm quyền xử phạt
đối với trường hợp một người thực hiện nhiều vi
phạm hành chính. Xuất phát từ thẩm quyền, từ chế độ
hoạt động của Ủy ban nhân dân, nên quy định: Nếu
một cá nhân, tổ chức thực hiện nhiều hành vi vi phạm
hành chính mà các hành vi vi phạm thuộc thẩm
quyền xử phạt của nhiều cơ quan khác nhau thì hồ sơ
vụ vi phạm được chuyển tới Chủ tịch Ủy ban nhân
dân để ra quyết định xử phạt.
Hai là, thẩm quyền xử phạt không chỉ thể hiện ở việc
xác định cơ quan nào có quyền phạt mà trước hết thể
hiện ở hình thức và mức phạt. Quy định về hình thức,
mức phạt mà người có thẩm quyền áp dụng phải phù
hợp với đặc thù quản lý ngành, lĩnh vực, với tình hình
thực tế. Lĩnh vực quản lý nào càng quan trọng, càng
phức tạp, hành vi vi phạm trong lĩnh vực đó càng
nguy hiểm, mức phạt phải càng cao thì mới bảo đảm
tác dụng răn đe, trừng phạt, phòng ngừa.
Pháp lệnh mới cần quy định giá trị tang vật, phương
tiện bị tịch thu cho phù hợp, nếu không sẽ vi phạm
nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính: “… phải căn
cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, nhân thân, các tình
tiết tăng nặng, giảm nhẹ để quyết định hình thức, biện
pháp xử lý thích hợp”. Nếu Pháp lệnh không quy
định rõ về mức tịch thu tang vật, phương tiện vi
phạm (một phần, toàn bộ hay giá trị bao nhiêu…) sẽ
dẫn đến tình trạng khó xác định ranh giới tịch thu
trong quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội và tịch thu trong quá trình truy cứu
trách nhiệm hành chính đối với cá nhân, tổ chức vi
phạm hành chính.
Một điểm dễ nhận thấy là: Trong các văn bản về xử
phạt vi phạm hành chính hiện nay, chức vụ của người
có thẩm quyền xử phạt càng cao thì thẩm quyền về
mức phạt của họ cũng tăng lên. Điều này cần được kế
thừa trong các văn bản sau này về XPVPHC. Cũng
cần tăng mức phạt tiền cho người có thẩm quyền để
phù hợp với tình hình kinh tế – xã hội hiện nay. Ví
dụ: cần tăng mức phạt tiền của thanh tra chuyên
ngành, của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp. Đó
cũng là điều kiện bảo đảm xử lí đúng đắn, kịp thời
các vi phạm hành chính.
Ba là, quy định của pháp luật về hình thức phạt tiền
cho thấy mức phạt tối thiểu và tối đa có khoảng cách
khá xa. Để việc áp dụng mức phạt tiền được đúng
đắn, trong các văn bản về XPVPHC cần cụ thể hóa
hơn nữa các dấu hiệu của vi phạm hành chính. Cần
chia nhỏ khung phạt tiền để tránh tình trạng: Các vi
phạm hành chính có tính chất, mức độ như nhau
nhưng người có thẩm quyền áp dụng các mức phạt rất
khác nhau.
Cuối cùng, về thủ tục xử phạt, nơi nộp phạt cũng cần
quy định theo hướng: phải có đủ thời gian để người
có thẩm quyền xem xét kỹ, xử lý đúng các vi phạm
hành chính. Quy định về nơi nộp tiền phạt cũng cần
tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, tổ chức nộp phạt
tại chỗ nếu cá nhân, tổ chức vi phạm bị phạt đến
100.000 đồng,… Quy định này sẽ khắc phục được
tình trạng do nơi nộp phạt xa kho bạc nhà nước mà
người bị xử phạt hối lộ cho người có thẩm quyền xử
phạt với suy nghĩ “đôi bên cùng có lợi”.
Hoàn thiện các quy định về XPVPHC, trong đó có
các quy định về thẩm quyền XPVPHC là nhu cầu cấp
thiết hiện nay vì vi phạm hành chính xảy ra rất phổ
biến, gây nhiều tác hại về kinh tế – xã hội. Việc xử lý
đúng đắn các vi phạm hành chính phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, một trong các yếu tố đó là những quy
định đúng đắn về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính. Cùng với việc hoàn thiện các quy định pháp
luật là trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến các văn
bản về xử phạt vi phạm hành chính, nhằm tác động
đến nhiều chủ thể gồm người có thẩm quyền xử phạt
cũng như các tổ chức, cá nhân. Những quy định về
thẩm quyền XPVPHC càng có điều kiện thực hiện tốt
trên thực tế khi có một đội ngũ những người có thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính có phẩm chất,
trình độ, năng lực và ý thức, trách nhiệm cao trong
quá trình thực thi chức trách được giao.