CƠ SỞ PHÁP LÝ VÀ THỰC TIỄN GIẢI
QUYẾT VIỆC
TRẢ THÙ LAO CHO NGƯỜI QUẢN LÝ DI
SẢN
TƯỞNG BẰNG LƯỢNG
Phó Chánh tòa Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao
I. NgưỜi quẢn lý di sẢn và cơ sỞ pháp lý cỦa viỆc
thanh toán công sỨc cho ngưỜi quẢn lý di sản:
Khi một người chết có di sản để lại sẽ phát sinh quan
hệ thừa kế. Thừa kế được mở kể từ thời điểm người
để lại di sản chết. Nhưng trong thực tế ít có trường
hợp ngay khi mở thừa kế đã diễn ra việc chia thừa kế.
Thông thường việc chia thừa kế diễn ra sau đó một
thời gian khá dài. Đặc biệt là các vụ tranh chấp thừa
kế tại Tòa án thì hầu hết thừa kế đã mở từ lâu, có
những vụ thời điểm mở thừa kế cách thời điểm tranh
chấp từ 10 năm đến 30 - 40 năm, cá biệt có vụ còn
lâu hơn, do đó sẽ xuất hiện “người quản lý di sản”.
Tuy pháp luật thừa kế được quy định từ sớm, nhưng
các quy định ban đầu còn rất sơ lược và chung chung,
mới chỉ đề cập đến một vài nguyên tắc cơ bản về thừa
kế chứ chưa đề cập đến việc thanh toán công sức cho
“người quản lý di sản”. Song, qua thực tiễn công tác
xét xử, Tòa án nhân dân tối cao đã có nhiều hướng
dẫn, trong đó phải kể đến Thông tư số 81 ngày
24/7/1981. Trong Thông tư này vấn đề thừa kế được
quy định tương đối có hệ thống và cũng tại đây lần
đầu tiên pháp luật của Nhà nước ta đề cập đến việc
những người “có công nuôi dưỡng, chăm sóc người
để lại di sản và người có công giữ gìn di sản của
người đã chết, cần được chiếu cố” khi chia di sản.
Ngày 30/8/1990 Pháp lệnh thừa kế được ban hành
cũng tiếp tục quy định việc thanh toán “chi phí cho
việc bảo quản di sản; các chi phí khác” (điểm 10
Điều 334 Pháp lệnh thừa kế).
Tuy nhiên các văn bản pháp luật ra đời trước năm
1995 chưa ra thuật ngữ “người quản lý di sản”, chưa
đề cập đến nghĩa vụ và các quyền của họ, khi Bộ luật
Dân sự ra đời, vấn đề này đã được quy định từ Điều
641 đến Điều 643. Tại Điều 686 Bộ luật Dân sự coi
việc thanh toán “chi phí cho việc bảo quản di sản” là
điểm ưu tiên thứ 9.
Vậy Bộ luật Dân sự đã quy định “người” nào được
công nhận là “người quản lý di sản”?
Theo quy định tại Điều 641 thì:
1. Người quản lý di sản là người chỉ định trong di
chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra.
2. Trong trường hợp di chúc không chỉ định người
quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được
người quản lý di sản, thì người đang chiếm hữu, sử
dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho
đến khi những người thừa kế cử được người quản lý
di sản.
3. Trong trường hợp chưa xác định được người thừa
kế và di sản chưa có người quản lý, thì di sản do cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền quản lý”.
Điều 642 Bộ luật Dân sự đã quy định nghĩa vụ của
người quản lý di sản. Đối với người quản lý di sản
được quy định ở khoản 1 và khoản 3 Điều 641 Bộ
luật Dân sự thì Điều 642 có ghi rõ nghĩa vụ là:
1. Người quản lý di sản được quy định tại khoản 1 và
khoản 3 Điều 641 của Bộ luật này có nghĩa vụ sau
đây:
“a) Lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản
của người chết mà người khác đang chiếm hữu, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác;
b) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng
cho, cầm cố, thế chấp và định đoạt tài sản bằng các
hình thức khác, nếu không được những người thừa kế
đồng ý bằng văn bản;
c) Thông báo về di sản cho những người thừa kế ;
d) Bồi thường thiệt hại, nếu vi phạm nghĩa vụ của
mình mà gây thiệt hại;
đ) Giao lại tài sản theo yêu cầu của người thừa kế”.
Đối với người quản lý di sản được quy định ở khoản
2 Điều 641 Bộ luật Dân sự thì chỉ có 4 nghĩa vụ đó
là:
“a) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng
cho, cầm cố, thế chấp và định đoạt tài sản bằng các
hình thức khác;
b) Thông báo về di sản cho những người thừa kế;
c) Bồi thường thiệt hại, nếu vi phạm nghĩa vụ của
mình mà gây thiệt hại;
d) Giao lại di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với
người để lại di sản hoặc theo yêu cầu của người chia
thừa kế”.
Nếu người quản lý di sản đã thực hiện tốt các nghĩa
vụ mà pháp luật đã quy định, thì họ đã có công trong
việc giữ gìn, bảo tồn di sản, làm cho khối di sản
không bị mai một, mất mát theo thời gian. Đây là một
loại lao động có ích và vì lợi ích của các thừa kế. Vì
vậy công sức mà người quản lý di sản đã bỏ ra là cơ
sở cho việc người thừa kế phải trả thù lao cho họ.
Theo quy định tại Điều 643 Bộ luật Dân sự thì người
quản lý di sản “được hưởng thù lao theo thỏa thuận
với những người thừa kế”. Đây là cơ sở pháp lý để
Tòa án trích từ khối di sản một khoản tiền, hoặc hiện
vật để trả công cho người quản lý di sản.
Bộ luật Dân sự không quy định nếu người quản lý di
sản và những người thừa kế không thỏa thuận được
việc trả thù lao thì sẽ giải quyết như thế nào?
Hiện nay đang có các ý kiến khác nhau về việc trả
thù lao cho người quản lý di sản.
Có ý kiến cho rằng đối với trường hợp người quản lý
di sản không khai thác lợi ích của tài sản, thì dù có
thỏa thuận trước hay không có thỏa thuận trước, các
thừa kế đều phải trả thù lao tương xứng với công sức
của người quản lý di sản đã bỏ ra. Nhưng đối với các
trường hợp người quản lý di sản đồng thời là người
chiếm hữu, sử dụng khối di sản đó, ví dụ sử dụng nhà
di sản để cả gia đình ở, hoặc khai thác lợi ích, hoa lợi
của tài sản, ví dụ hàng năm thu hoạch vườn cây ăn
quả v.v… thì không nên buộc các thừa kế phải trả thù
lao cho họ; trừ trường hợp chính họ tự nguyện thỏa
thuận trả thù lao.
Sở dĩ không trả thù lao là vì người quản lý di sản đã
được hưởng lợi từ tài sản mà họ quản lý, ví dụ được
khai thác công dụng của nhà di sản mà không phải trả
tiền thuê nhà. Nếu buộc các thừa kế trả thù lao cho họ
thì họ được hưởng lợi hai lần.
Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng trong mọi trường
hợp, nếu người quản lý di sản yêu cầu thì đều phải trả
thù lao cho họ. Vì nếu nhà đất, vườn cây không có
người ở, người quản lý, trông coi sẽ bị lấn chiếm, mất
đất; nhà không có người ở sẽ nhanh hư hỏng hơn…
Họ có “giữ” thì di sản mới còn nguyên vẹn. Đó là
chưa kể có những giai đoạn, nếu di sản không có
người quản lý, Nhà nước sẽ lấy mất, cấp cho người
khác nếu nhà đất rộng. Vì vậy phải thanh toán thù lao
cho họ. Những quan điểm khác nhau được phản ánh
trong thực tiễn xét xử.
II. ThỰc tiỄn giẢi quyẾt viỆc trẢ thù lao cho ngưỜi
quẢn lý di sẢn:
- Về mặt từ ngữ: Bộ luật Dân sự đã dùng từ “trả thù
lao cho người quản lý di sản”, còn trong thực tiễn xét
xử các Tòa án thường dùng từ trích công sức cho
người quản lý di sản. Đây là hình thức trả công để bù
đắp lao động đã bỏ ra, căn cứ vào thời gian lao động.
Hình thức lao động ở đây là hành động giữ gìn, bảo
tồn di sản. Vì vậy, về mặt lý thuyết, nếu số lượng và
chủng loại di sản như nhau thì thời gian phải trông
coi, giữ gìn, bảo tồn di sản càng dài thì thù lao càng
phải lớn.
Bộ luật Dân sự quy định có 4 loại “người” quản lý di
sản, cả 4 loại người này đều được hưởng thù lao theo
thỏa thuận, không có sự phân biệt loại người nào
được hưởng thù lao nhiều, loại nào được hưởng thù
lao ít. Bộ luật này cũng không quy định tỷ lệ hưởng
thù lao với khối di sản mà người đó quản lý. Vì vậy,
khi xét xử, việc quyết định mức thù lao trong từng vụ
cụ thể như thế nào hoàn toàn phụ thuộc vào hội đồng
xét xử. Trong thực tiễn xét xử, Tòa án các cấp tính
thù lao cho người quản lý di sản không thống nhất
theo một tỷ lệ nào. Sự không thống nhất đó còn thể
hiện cùng một vụ án giữa Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa
án cấp phúc thẩm tính công sức rất khác nhau, có khi
tính công sức trả thù lao bằng một suất thừa kế,
nhưng có trường hợp trả thù lao bằng ½ giá trị di sản
thừa kế. Song có vụ không trả thù lao cho người quản
lý di sản, hoặc trả rất ít so với tổng giá trị di sản.
Mặt khác vì dùng từ tính công sức, nên có Tòa án coi
việc trả thù lao cho việc duy trì di sản với việc thanh
toán phần sửa chữa, xây dựng, trồng thêm cây trong
vườn… đều nhập làm một, chứ không tách bạch rõ
ràng. Dưới đây là một số dạng tính công sức trong
các vụ án thừa kế đã được xét xử trong thời gian qua:
1. Có sự nhập nhằng, không tách bạch rõ ràng giữa
tính công sức đóng góp vào khối di sản, với việc tính
công duy trì, bảo quản di sản
Ví dụ: Vụ Trần Điệp Chiến - Trần Quang Mỹ.
Nội dung: Vợ chồng cụ Trần Phúc Anh và cụ Trần
Thị Hợi sinh được hai người con là bà Trần Thị
Nghiêm và Trần Quang Mỹ. Năm 1945 bố mẹ ông
Chiến chết nên cụ Anh (là bác ruột ông Chiến) đón
ông Chiến về nuôi. Ông Chiến ở với vợ chồng cụ
Anh đến năm 1947 đi làm con nuôi người khác. Năm
1949 lại về ở với cụ Anh đến năm 1957 thì đi học
trường trung cấp kỹ thuật. Năm 1960 đi công tác
thoát ly, sau đó lấy vợ ở riêng. Năm 1980 cụ Anh
chết, năm 1997 cụ Hợi chết, hai cụ không để lại di
chúc. Di sản các cụ để lại có một thổ cư trên có nhà
lá hai gian, ông Mỹ đã bán đầu năm 1998 được
250.000.000 đồng. Ông Mỹ trích cho bà Nghiêm
15.000.000 đồng và ông Chiến 5.000.000 đồng. Do
không nhất trí với cách giải quyết của ông Mỹ nên
ông Chiến khởi kiện yêu cầu được hưởng di sản của
vợ chồng cụ Anh vì ông là con nuôi. Phía ông Mỹ, bà
Nghiêm cho rằng ông Chiến chỉ là em con ông chú
nên không được hưởng thừa kế.
Tại bản án sơ thẩm số 44 ngày 16/10/1998 Tòa án
nhân dân huyện Đại Từ quyết định: Buộc ông Mỹ
thanh toán cho ông Chiến số tiền 50.000.000 đồng
tiền thanh toán di sản thừa kế của cụ Trần Thị Hợi.
Giao cho ông Mỹ quản lý số tiền còn lại (gồm kỷ
phần thừa kế của ông Mỹ, của bà Nghiêm và công
sức duy trì tài sản).
Ngày 20/10/1998 ông Mỹ có đơn kháng cáo.
Tại bản án phúc thẩm số 132 ngày 19/11/1998 Tòa án
nhân dân tỉnh Thái Nguyên quyết định:
Buộc ông Mỹ thanh toán cho ông Chiến tiền công sức
đóng góp, xây dựng, duy trì, bảo quản di sản là
20.000.000 đồng. Ông Mỹ đã thanh toán cho ông
Chiến 5.000.000 đồng. Nay phải thanh toán tiếp
15.000.000 đồng. Giao cho ông Mỹ quản lý số tiền
còn lại 230.000.000 đồng trong đó có phần thừa kế
của ông Mỹ, bà Nghiêm và tiền công duy trì, bảo
quản di sản thừa kế.
Tại Quyết định số 199 ngày 20/12/1999 Phó Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án
phúc thẩm trên.
Chúng tôi thấy: Tòa án phúc thẩm xác định ông
Chiến không phải là con nuôi của cụ Phúc Anh và cụ
Hợi là có căn cứ. Riêng về công sức của ông Chiến
trong thời gian ở nhà cụ Phúc Anh và cụ Hợi thấy
rằng: ông Chiến đến ở với hai cụ năm 1945 khi đó
mới 5 tuổi, sau hai năm đi làm con nuôi người khác
đến năm 1949 mới quay lại. Thời gian ở với cụ Anh
và cụ Hợi, ông Chiến vừa đi học vừa phụ giúp hai cụ
làm việc vặt trong nhà. Đến năm 1954 gia đình cụ
Phúc Anh có chuyển nhà lùi phía sau. Theo bà
Nghiêm, lúc chuyển nhà có nhiều người tham gia
trong đó có ông Chiến. Việc san đất nền nhà làm
trong một ngày và diện tích san được không đáng kể.
Còn ông Chiến cho rằng việc san đất làm trong hai
tháng, diện tích san được khoảng 2/3 so với diện tích
đất cũ.
Tòa án cấp phúc thẩm chưa xác minh rõ diện tích đất
do cụ Phúc Anh và cụ Hợi mua là bao nhiêu? Đến
năm 1954 diện tích san thêm được bao nhiêu? Do đó,
chưa có cơ sở xác định công sức đóng góp của ông
Chiến. Mặt khác, ông Chiến đã đi thoát ly khỏi gia
đình cụ Phúc Anh, cụ Hợi từ năm 1960. Toàn bộ tài
sản do cụ Phúc Anh, cụ Hợi, ông Mỹ sử dụng đến khi
bán. Như vậy, ông Chiến không có công duy trì, bảo
quản tài sản của các cụ. Nhưng Tòa án cấp phúc thẩm
khẳng định ông Chiến có công sức đóng góp và duy
trì, bảo quản tài sản (di sản) đáng kể để buộc ông Mỹ
thanh toán 20.000.000 đồng cho ông Chiến là chưa
có căn cứ vững chắc.
Lẽ ra trong trường hợp này Tòa án chỉ xác định ông
Chiến có công sức đóng góp và khối di sản với tư
cách là đồng sở hữu hay không? Nếu có thì thanh
toán tương ứng công sức đóng góp, chứ không thể
thanh toán công duy trì, bảo quản di sản. Bởi lẽ lúc
đó hai cụ còn sống, đang tự quản lý tài sản của mình.
Việc thanh toán công duy trì, bảo quản di sản chỉ đưa
ra sau khi người để lại di sản đã chết.
2. Thanh toán công duy trì, bảo quản di sản khi người
để lại di sản hãy còn sống là không đúng
Vụ Nguyễn Thị Yên – Vũ Thị An.
Nội dung: Cụ Trần Văn Thạch có 3 vợ, vợ thứ nhất là
cụ Nguyễn Thị Thơm (đã chết, không có con chung).
Vợ thứ hai là cụ Hoàng Thị An (chết năm 1951) có 1
con chung là bà Nguyễn Thị Yên. Vợ thứ ba là cụ Vũ
Thị An có một con chung là bà Nguyễn Thị Hòa.
Năm 1968 cụ Thạch và cụ Vũ Thị An được chính
quyền địa phương cấp 132 m2 đất tọa lạc tại 110 Lê
Đồng, phường Âu Cơ, thị xã Phú Thọ. Sau khi được
cấp đất hai cụ cất căn nhà 3 gian lợp lá để ở.
Năm1992 cụ Thạch chết không để lại di chúc, nhà đất
trên do cụ Vũ Thị An và bà Hòa quản lý sử dụng.
Nay bà Yên khởi kiện yêu cầu chia di sản của cụ
Thạch. Về phía cụ An và bà Hòa nhất trí chia di sản
của cụ Thạch thành 3 phần và xin hưởng bằng hiện
vật tương ứng với kỷ phần được chia.
Tại bản án sơ thẩm số 5 ngày 20/5/1997 Tòa án nhân
dân thị xã Phú Thọ quyết định:
- Giao cho bà Hòa sở hữu ½ căn nhà tre lợp lá diện
tích sử dụng 81,1m2 và ½ mảnh đất diện tích 61,5m2
. Tổng trị giá nhà đất là 13.015.000 đồng (phía Đông
giáp đường nhựa, phía Tây giáp nhà ông Chương,
phía Nam giáp nhà đất cụ An, phía Bắc giáp nhà ông
Thịnh). Nhưng chị Hòa phải thanh toán cho cụ An
tiền mai táng, cải táng cụ Thạch 3.000.000 đồng và
phần tài sản thừa kế được chia là 3.338.000 đồng,
thanh toán cho bà Yên phần tài sản thừa kế được chia
là 3.338.000 đồng.
Ngày 28/5/1997 bà Hòa kháng cáo không đồng ý
mua diện tích đất của bà Yên được chia.
Tại bản án phúc thẩm số 56 ngày 18/8/1997 Tòa án
nhân dân tỉnh Phú Yên quyết định: Sửa bản án sơ
thẩm.
- Xác nhận di sản của cụ Thạch là ½ ngôi nhà tre trị
giá 100.000 đồng và 61,2m2 đất trị giá 12.950.000
đồng.
- Trích phần di sản của cụ Thạch để thanh toán cho
các chi phí hợp lý sau:
+ Khoản chi phí mai táng và cải táng cho cụ Thạch là
3.000.000 đồng.
+ Phần công chăm nom cụ Thạch khi ốm là
3.000.000 đồng.
+ Thanh toán công duy trì, bảo quản di sản cho cụ An
là 2.000.000 đồng.
+ Thanh toán công chăm lo nuôi dưỡng và bảo quản
di sản cho bà Hòa là 2.015.000 đồng.
- Xác nhận di sản còn lại là 3.000.000 đồng chia cho
các thừa kế gồm bà Yên, bà Hòa và cụ An mỗi người
được hưởng 1.000.000 đồng
- Giao toàn bộ nhà đất cho cụ An, cụ An có nghĩa vụ
thanh toán cho bà Yên, bà Hòa mỗi người 1.000.000
đồng.
Sau khi xét xử phúc thẩm bà Yên có đơn khiếu nại
cho rằng Tòa án cấp phúc thẩm trích chi phí mai
táng, công chăm sóc và bảo quản di sản là không
đúng.
Chúng tôi cho rằng: Tòa án cấp phúc thẩm xác định
đúng đắn phần di sản và hàng thừa kế của cụ Thạch.
Riêng phần trích công sức chăm sóc và bảo quản di
sản cho cụ Vũ Thị An và bà Hòa là chưa hợp lý. Bởi
lẽ, theo lời khai của cụ An thì từ khi cụ Thạch ốm
cho đến khi chết khoảng 6 tháng. Khi cụ Thạch chết,
các con không có trách nhiệm, chi phí chủ yếu do tôi
(An) và anh em chồng lo. Lẽ ra phải trừ vào di sản
của cụ Thạch nhưng tôi không yêu cầu về chi phí đó
(BL số 12, 18). Tại lời khai của bà Hòa cũng thừa
nhận: Bố tôi chết năm 1992 tại nhà của bố tôi lúc còn
sống. Trước khi chết bố tôi không ốm nặng, chết là
do tuổi cao, sức yếu (BL số 11). Mặt khác phần tài
sản (nhà, đất) của cụ Thạch và cụ An từ năm 1992
đến nay không có gì thay đổi. Nhưng Tòa án cấp
phúc thẩm cho rằng cụ An và bà Hòa có công lao
đáng kể trong việc bảo quản, giữ gìn khối tài sản từ
năm 1968 đến nay, đồng thời trích khoản chi phí mai
táng, cải táng cụ Thạch và công chăm lo nuôi dưỡng
cụ Thạch trong thời gian ốm đau, công duy trì bảo
quản di sản cho cụ Vũ Thị An 8.000.000 đồng, trích
cho bà Hòa 2.015.000 đồng là không có căn cứ.
Rõ ràng năm 1968 cụ Thạch vẫn còn sống cùng cụ
An quản lý tài sản. Đến năm 1992 cụ Thạch mới
chết, nên việc lấy năm 1968 là mốc để trích cho cụ
An và bà Hòa công sức bảo quản, giữ gìn khối tài sản
là không hợp lý.
3. Thay đổi mức đền bù công sức duy trì, bảo quản
tài sản không có căn cứ
Vụ Thái Thị Lý, Thái Thị Nét, Thái Gia Tiến – kiện
bị đơn Thái Gia Sửu:
Nội dung: Cụ Thái Gia Nhiễu (chết năm 1957) và cụ
Nguyễn Thị Doan (chết năm 1973). Hai cụ có 4 con
chung là ông Thái Gia Tuấn, ông Thái Gia Sửu (có
con là Bình), bà Thái Thị Nét và bà Thái Thị Tý.
Về tài sản cụ Nhiễu, cụ Doan có 3 gian nhà lá lợp lá
gồi và tôn, bếp, vườn và ao. Ngày 7-2-1956 cụ
Nguyễn Thị Doan được cấp giấy chứng nhận quyền
sở hữu 3 thửa vườn trên diện tích 1 sào 11,5 thước
đất; trong đó đất thổ cư 4 thước (96m2), vườn 7,5
thước, ao 1 sào, tổng diện tích 636m2. Do nhà trên bị
hư hỏng, ngày 7-4-1963 bà Phùng Thị Chung (vợ ông
Sửu) đã làm đơn xin phép sửa chữa lại nhà, được
Phòng nhà đất khu phố Ba Đình cho phép. Thực tế,
gia đình ông Sửu phá nhà cũ, xây dựng nhà mới và có
sửa chữa lại bếp. Năm 1973 cụ Doan chết không để
lại di chúc.
Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xét xử
lần 1 đã thanh toán công sức duy trì bảo quản di sản
cho ông Sửu bằng một kỷ phần thừa kế (64.132.200
đồng), các đương sự không khiếu nại và bản án giám
đốc thẩm không hủy để xét xử lại vấn đề này, nhưng
bản án phúc thẩm số 12 ngày 18-1-1995 của Tòa án
nhân dân thành phố Hà Nội đã giảm tiền công sức
duy trì, bảo quản di sản của ông Sửu xuống còn
10.000.000 đồng là không đúng và vi phạm cả tố
tụng.
Vụ Phạm Thúy Hằng tranh chấp thừa kế với bị đơn
Đỗ Thị Thảo
Cụ Huệ (chết năm 1951) và vợ là Lê Tín (chết năm
1978); hai cụ có 4 con chung và có nhà đất (định giá
năm 1992 là 360.075.000 đồng).
Bản án sơ thẩm lần thứ nhất đã trích công sức cho bà
Xuân, ông Bé 1/2 di sản.
Bản án sơ thẩm lần thứ hai trích công sức và giá trị
cây cối, hoa màu cho bà Xuân, ông Bé hơn 1/3 di
sản.
4. Không trả công duy trì, bảo quản di sản dù có
trường hợp người đó quản lý, sử dụng di sản tới 40
năm
Vụ Lê Văn Bôi – Đinh Duy Bê – Nguyễn Xuân Quân
kiện Lê Văn Dương:
Nội dung: Cụ Lê Văn Chắt và Huỳnh Thị Lụt là cha
mẹ chồng, ông bà nội, ông bà ngoại của chúng tôi.
Sinh thời ông Chắt, bà Lụt tạo lập được 1 lô đất
vườn, diện tích 1240m2 tại khóm 1, thị trấn Vạn Giã,
Vạn Ninh. Trên diện tích đất vườn còn có 9 cây dừa,
2 cây vú sữa, 1 cây khế, 1 cây thị, 1 giếng nước là tài
sản các cụ để lại và một số cây khác do ông Dương
trồng. Toàn bộ diện tích đất vườn do ông Dương
quản lý.
Bị đơn ông Dương trình bày: Không đồng ý chia di
sản thừa kế vì nguyên đơn không trông coi, bảo quản,
đóng thuế hàng năm. Tôi đã trồng nhiều cây ăn trái
trên đất này. Nếu phải chia di sản thừa kế thì thanh
toán tiền công bảo quản cho tôi 40 năm qua, cứ mỗi
ngày 10.000 đồng và bồi thường giá trị số cây ăn quả
tôi đã trồng.
Tại bản án phúc thẩm số 29 ngày 16-7-1999 của Tòa
án nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã quyết định:
Căn cứ Điều 677, 678, 680 Bộ luật Dân sự tuyên xử:
…
- Bác yêu cầu của ông Lê Văn Dương đòi các đồng
thừa kế phải thanh toán tiền công bảo quản di sản của
cụ Chắt, cụ Lụt. Buộc ông Lê Văn Dương phải tháo
dỡ nhà tạm làm quán cắt tóc để trả mặt bằng lại cho
ông Bê trên diện tích ông Bê được chia.
Vụ Trần Thanh Nghị và bị đơn Trần Thanh Độ:
Nội dung: Cụ Trần Thanh Ba có hai vợ, vợ cả là cụ
Lũ có 2 con chung là ông Danh và ông Phương; vợ
hai là cụ Nguyễn Thị Xuân có hai con chung là ông
Độ và bà Nghị. Cụ Ba và cụ Lũ có tài sản chung là
căn nhà trên 1166m2 đất tại thôn Long Hải. Giữa cụ
Ba và cụ Xuân không có tài sản chung. Do có mâu
thuẫn với cụ Ba nên năm 1954 cụ Xuân đưa bà Nghị,
ông Độ đi làm ăn ở Buôn Mê Thuột, còn cụ Ba và
ông Phương với ông Danh vẫn ở nhà đất trên. Năm
1961 cụ Xuân lấy chồng khác ở Sông Bé, bà Nghị lấy
chồng ở Bình Định, còn ông Độ về sống cùng cụ Ba.
Ngày 28-3-1988 cụ Ba đã lập di chúc phân chia đất
cho 2 dòng con: Ông Danh, ông Phương được chia
648m2 đất, trên có hai căn nhà, 15 cây dừa và một số
cây trái khác; ông Độ và bà Nghị được chia chung
518m2 đất, trên có căn nhà, 19 cây dừa và cây ăn trái
khác.
Phần nhà đất của ông Phương, ông Danh hai ông đã
nhận và tự phân chia.
Phần nhà đất của ông Độ và bà Nghị do ông Độ quản
lý, sử dụng cho đến nay. Qua quá trình quản lý, ông
Độ đã sửa nhà, xây một số công trình phụ.
Năm 1994 bà Nghị kiện chia thừa kế phần đất nhà
theo di chúc của cụ Ba chia cho bà và ông Độ.
Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đều không trích
công sức cho ông Độ.
Tại quyết định số 526 ngày 28-10-1996, Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án phúc
thẩm với nhận định: “… tuy nhiên, kể từ năm 1961
ông Độ là người trực tiếp quản lý, sử dụng nhà đất,
ông đã có công duy trì, tu bổ tài sản… lẽ ra khi chia
thừa kế phải trích cho ông Độ một phần từ giá trị
khối di sản phù hợp với công sức của ông Độ…”.
Nguyên nhân của việc xét xử khác nhau một phần do
pháp luật quy định chưa chặt chẽ, rõ ràng, mặt khác