ản tin
BỆNH ĐỐM ĐỎ TRÊN CÁ TRẮM CỎ
Nuôi các loài cá nói chung, cá trắm cỏ nói riêng
trong chu kỳ nuôi thường gặp nhiều loại bệnh tấn
công, gây hại. Các loài địch hại, bệnh được biết đến
như vi khuẩn, virus, nấm, giun sán, các loài nguyên
sinh động vật, ký sinh trùng….M
ột trong những bệnh
phổ biến, thường gặp nhất là nuôi cá vào mùa mưa,
mùa đông nhiệt độ môi trường thấp, nuôi trong điều
kiện nguồn nước ao hồ ít được trao đổi, bị ô nhiễm,
tù đọng, thường xảy ra hiện tượng phân hủy hữu cơ
trầm trọng trong ao. Nuôi trong môi trường nuôi mật
độ cao, dư thừa thức ăn quá nhiều. Đôi khi người
nuôi ghép loài cá này với các loài cá có tính ăn thiên
về động vật như cá trê, lóc, rô đồng…nên nh
ững thức
ăn cho các loài cá ăn động vật thường làm ao hồ nuôi
Formatted: Font: 20 pt
dễ dàng ô nhiễm. Cá trắm cỏ là loài cá hiền, sống và
hoạt động chủ yếu ở tầng mặt. Môi trường sống đòi
hỏi hàm lượng oxy cao > 4mg/lít, PH: 6.5-7.5, nhiệt
độ nước từ 27-30 độ C.
Khi nhiễm bệnh, dấu hiệu đầu tiên cá giảm hoặc bỏ
ăn, tập trung nhiều nơi có nguồn
nư ớc mới
chảy vào ao hoặc nổi lờ đờ trên mặt nước, cơ thể gầy
yếu dần, chết từ từ. Quan sát trên cá nhiễm bệnh, cá
chết thấy toàn thân cá xuất huyết, lở loét, vết thương
ăn sâu vào trong, gây ho
ại tử, vảy bong ra từng mảng,
sổ nhớt, mắt lồi to. Trước khi vi khuẩn đốm đỏ trực
tiếp tấn công, có thể cá đã bị các loài trùng ký sinh
Formatted: Centered
Deleted:
như trùng mỏ neo, trùng mặt trời, rận cá…tấn công,
gây ra những vết thương, tạo điều kiện cho vi khuẩn
đốm đỏ xâm nhập. Đôi khi thân xuất hiện những
chấm đỏ, các chấm đỏ này sau lan rộng dần, lở loét,
hoại tử, bưng m
ủ. Do tác nhân chủ yếu gây bệnh đốm
đỏ là vi khuẩn, nên cơ chế tác động và mức độ ảnh
hưởng rất nhanh và nguy hiểm. Đôi khi bệnh phát
triển theo mùa, theo vùng, theo đối tư
ợng cá nuôi, lây
lan nhanh, dễ trở thành những trận đại dịch. Để hạn
chế tối đa bệnh đốm đỏ xâm nhập vào ao nuôi, trước
tiên cần thực hiện biện pháp phòng bệnh. Phòng b
ệnh
hữu hiệu được thực hiện đồng bộ từ khâu cải tạo, xử
lý ao nuôi ban đầu. Trong đó việc sên vét kỹ lớp bùn
đáy ao, dùng vôi sống sát trùng đáy ao với liều lượng
10-12kg/100m2 ao, sau khi bón vôi, tiến hành phơi
nắng từ 5-7 ngày là hiệu quả nhất. Nước được lấy v
ào
ao, xử lý tạp bằng thuốc diệt cá Saponine 1kg/100m2
ao. Trong quá trình nuôi chủ động kiễm soát lượng
thức ăn dư thừa bằng cách dùng sàng, vó ăn, tránh để
thức ăn dư thừa, gây ô nhiễm nước. Chủ động thay
nước định kỳ mỗi tuần nếu có điều kiện, lượng nước
thay từ 30-50%. Khi cá nuôi nhiễm bệnh, để việc
chữa trị hiệu quả cần kết hợp với việc cải thiện môi
trường nuôi, cải thiện nền đáy, loại trừ các loài giáp
xác ký sinh trong ao, thông qua thay nước. Dùng
thuốc kháng sinh, và các thuốc chuyên dụng để tiêu
diệt mầm bệnh, tăng sức đề kháng của cá nuôi. Có
nhiều biện pháp để chữa trị như tắm cá bằng hóa
chất, trộn thuốc trong thức ăn, đánh thuốc thẳng
xuống ao nuôi…Tuy nhiên cần phát hiện sớm và
chữa trị ngay, nhằm rút ngắn thời gian chữa trị, tăng
xác xuất thành công, biện pháp thực hiện đơn giản, ít
tốn thuốc men, công cán. Có thể dùng các loại thuốc
kháng sinh tổng hợp như NTSC, Genta liều lượng 10-
15g/kg thức ăn, kết hợp với VitamineC 1-3g/kg thức
ăn trộn thẳng vào thức ăn (Trong giai đoạn này nên
dùng thức ăn viên để dễ dàng trộn thuốc). Ngoài biện
pháp trên, có thể kết hợp thêm biện pháp đánh thuốc
trực tiếp xuống ao nuôi cá, nhằm diệt các loài trùng
ký sinh. Có thể dùng KVA liều lượng 1lit/100m2,
dùng Formol (Formaline) liều lượng 15-20ml/m3
nước, cũng rất hiệu quả.
Lý Vĩnh Phước