SỬ DỤNG CÁC LỌAI VÔI TRONG NUÔI TRỒNG
THỦY SẢN
Trong qúa trình triển khai các mô hình nuôi thủy sản, đặc
biệt là nuôi tôm nước lợ, vôi nói riêng các hóa chất nói
chung được sử dụng với lượng rất lớn.Từ giai đọan cải tạo
ao, xử lí ao, trong qúa trình nuôi, vôi được dùng với nhiều
mục đích khác nhau. Tuy nhiên, việc sử dụng thường xuyên
dẫn đến qúa lạm dụng, đã gây những phản ứng xấu ngay
trong vụ nuôi và để lại hậu qủa cho vụ nuôi tiếp theo. Bên
cạnh đó, do không nắm vững công dụng của từng lọai vôi,
nên người nuôi thường sử dụng sai mục đích, gây ra những
tác dụng ngược, làm môi trường xấu hơn rất khó cải tạo.
Với mong muốn góp phần bảo vệ, gìn giữ môi trường sinh
thái, sử dụng vôi đúng mục đích, mang lại hiệu qủa thiết
thực khi sử dụng. Người sử dụng cần phải nắm công dụng
và vai trò của từng lọai vôi. Hiện nay, có các lọai vôi phổ
biến:
* Lọai thứ nhất là vôi đá,vôi xay, hay còn gọi là vôi nông
nghiệp, là vôi được xay nhuyễn từ đá vôi, lấy ở các núi đá
vôi, thành phần chính là CaCO
3
(Cacbonaccanxi). Vôi này,
khi tiếp xúc với nước có đặc điểm là không sinh nhiệt,
không ăn mòn da tay, có pH khỏang 8.5-10. Khi sử dụng
trong ao nuôi sẽ làm tăng pH (độ phèn) từ từ. Thường được
sử dụng trong quá trình cải tạo, xử lí ao, phổ biến nhất là
trong giai đọan đang nuôi thủy sản, vì tính an tòan. Liều
dùng trong giai đọan cải tạo - xử lí ao là: 7-12 kg/100 mét
vuông ao (tùy thuộc pH nước, đất ao), bón vôi sau khi xả
cạn nước, sên bùn, xảm mọi… bón trực tiếp xuống đáy ao,
triền bờ. Liều dùng trong qúa trình nuôi là 1-2 kg/100 mét
vuông, nhằm mục đích duy trì, ổn định pH. Bón trước và
sau khi mưa, khi độ pH thấp, tảo tàn. Bón trước khi bón
phân bổ xung gây lại màu nước. Bón khi độ cứng, độ kềm
trong ao không ổn định. Vôi được hòa vào nước, tạt đều
quanh ao (triền bờ, mặt nước).
* Lọai thứ hai là vôi nung, hay còn gọi là vôi sống, được
tạo thành khi nung đá vôi ở nhiệt độ cao, để nguội, xay
nhuyễn. Công thức chính của vôi này là CaO, có màu trắng
sáng. Độ pH cao tới hơn 12, khi vôi này tiếp xúc với nước
sinh ra phản ứng tạo nhiệt, ăn mòn da tay nếu người nuôi
tiếp xúc trực tiếp. Lọai vôi này chỉ dùng trong giai đọan cải
tạo, xử lí ao nuôi ban đầu, vì mục đích chính là lợi dụng
phản ứng sinh nhiệt của vôi diệt mầm bệnh và các lọai vi
khuẩn, vi rus có trong ao. Tuyệt đối không dùng trong giai
đọan nuôi tôm-cá vì sẽ làm pH tăng đột ngột trong thời
gian ngắn, gây sốc cho vật nuôi. Liều lượng sử dụng cũng
như lọai vôi trên.
* Lọai thứ ba là vôi trôi, được tạo thành khi tưới nước vào
đá vôi nung để nó hoai thành bột, công thức chính là
Ca(OH)
2
, vôi này có pH lên đến 12. Liều lượng và mục
đích sử dụng như vôi CaO.
* Lọai thứ tư là vôi Dolomite hay còn gọi là vôi đen,
Dolomite xay, vôi được tạo thành từ việc xay nhuyễn đá
Dolomite, công thức hóa học là CaMg(CO
3
)
2
, khi sử dụng
giúp tăng độ kềm, tăng khóang chất là thức ăn cần thiết của
các lòai tảo. Vôi này có pH trung bình 9-10, không tạo
phản ứng sinh nhiệt khi tiếp xúc với nước, không ăn mòn
da tay khi tiếp xúc trực tiếp. Dùng trong giai đọan cải tạo-
xử lí ao và ngay cả trong giai đọan nuôi.
* Lọai thứ năm là vôi Dolomite nung, sản xuất bằng cách
nung đá Dolomite ở nhiệt độ 850-1000 độ C, để nguội, xay
nhuyễn.Công thức hóa học CaMgO
2
, pH cao tới 12, tan
nhanh trong nước, ăn mòn da tay,có phản ứng sinh nhịêt
khi tiếp xúc với nước, chỉ sừ dụng khi cải tạo-xử lí ao.
* Lọai thứ sáu là vôi dòng Zeolite, Neolite, Diatomite là
những dòng vôi được tạo thành từ xác tảo khuê, khóang
phún có nguồn gốc từ Silic thành phần chính là SiO
2
. Các
dòng vôi này chủ yếu được dùng trong giai đọan đang nuôi
thủy sản, khi môi trường nuôi có hiện tượng ô nhiễm, đặc
biệt là ô nhiễm nền đáy. Khi bón xuống đáy ao, các dòng
vôi này sẽ trực tiếp tham gia kích thích các vi sinh vật hữu
ích phát triển mạnh về quầng đàn, với số lượng đông đúc,
chủ động trực tiếp tham gia vào các cơ chế phân giải, phân
hủy, hấp thụ, chuyển hóa, hoặc giảm thiểu các chất độc hại
kể trên, thành những chất ít, không độc hại hoặc triệt tiêu
chúng. Hấp thu các lọai khí độc có trong ao như NH
3
, H
2
S,
NO
2
. Tùy thuộc vào từng mục đích sử dụng mà dùng các
lọai vôi khác nhau, tuy nhiên để tăng tính hiệu qủa của vôi
cần thiết phải có sự phối hợp với những tác động khác.
Trong giai đọan cải tạo-xử lí ao cần phải xả cạn nước, bón
vôi khi trời nắng và phơi ao kỹ nhằm tăng công hiệu diệt
khuẩn của vôi. Trong quá trình nuôi, sử dụng vôi cần hòa
tan kỹ trong nước và tạt đều quanh ao. Khi ao bị ô nhiễm,
trước khi dùng vôi, nếu được nên tiến hành thay bớt lớp
nước đáy, cấp bù nước mới, rồi mới sử dụng vôi, nhằm
tăng công hiệu của vôi. Lưu ý quan trọng nhất là chúng ta
không nên lạm dụng, vôi, thuốc hay bất kỳ lọai hóa chất
nào, nhằm tránh hiện tượng “lờn” thuốc-hóa chất rất khó
cải tạo-xử lí khi tái nhiễm. Quan tâm nhiều và thực hiện tốt
khâu qủan lí-chăm sóc ao nuôi tốt, hạn chế tối đa dịch
bệnh. Nuôi đúng thời vụ, mật độ, quan tâm đến giống-thức
ăn và áp dụng kỹ thuật tiên tiến vào mô hình nuôi.
KS. Lý Vĩnh Phước