Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
40
Trải qua 45 năm xây dựng và trưởng thành, đặc biệt là từ khi được Thủ
tướng Chính phủ ký quyết định công nhận thành phố Thái Nguyên là đô thị
loại II vào năm 2002. Thành phố đã có bước phát triển toàn diện trên các lĩnh
vực kinh tế - xã hội và đô thị, đó là tiền đề quan trọng để Thành phố bước vào
thời kỳ phát triển mới. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ xây
dựng và phát triển Thành phố đang gặp nhiều khó khăn và thử thách.
2.1.2.1. Về xây dựng cơ bản - Quản lý đô thị, đất đai
Thành phố Thái Nguyên đã tăng cường đầu tư xây dựng để xây dựng thành
phố phát triển đúng quy hoạch của Thủ tướng Chính phủ. UBND thành phố Thái
Nguyên đã chủ động phối hợp với các ngành chức năng thực hiện đền bù giải
phóng mặt bằng để đẩy mạnh tiến độ thi công các dự án trên địa bàn do Trung
ương và Tỉnh đầu tư. Triển khai 12/15 dự án do thành phố đầu tư, trong đó có
một số công trình đã được đưa vào sử dụng như: Khu sử lý chất thải rắn, chợ
Đồng quang, Trung tâm giáo dục lao động xã hội, vườn hoa sông Cầu, quy
hoạch thiết kế khu Nam ĐH Công nghiệp, đường Bến tượng, đường Bắc Kạn,
Đài phun nước Trung tâm thành phố… Các dự án kiên cố hoá kênh mương, kiên
cố hoá trường học, nâng cấp đường giao thông nội thị được thực hiện và hoàn
thành.
Công tác quản lý đô thị, quản lý đất đai được tập trung chỉ đạo thực hiện quy
hoạch trung tâm thành phố, quy hoạch các khu dân cư, khu chức năng đô thị, vệ
sinh nước thải, rác thải .
Đến năm 2006 thực hiện quy hoạch dân cư được 189,16 ha, xét giao đất cho
657 hộ thu được gần 359 tỷ đồng, giải quyết cho 4.745 hợp đồng chuyển nhượng sử
dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 8.579 trường hợp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
41
Bảng 2.4 Cơ sở vật chất kỹ thuật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
42
2.1.2.2. Về giao thông
Thành phố Thái Nguyên có một hệ thống giao thông khá hoàn chỉnh và
phân bố hợp lý giữa các đường quốc lộ - tỉnh lộ - huyện lộ và liên phường,
liên xã, toàn thành phố có 487 km đường trong đó quốc lộ 30km, tỉnh lộ 15
km, đường ô vuông thành phố có 42 km, trên 300 km đường dân sinh, đã trải
nhựa và bê tông được 187km. Đường quốc lộ 3 từ Hà Nội lên Cao Bằng qua
trung tâm thành phố là mạch giao thông quan trọng nối Thái Nguyên với các
tỉnh lận cận. Ngoài ra còn có quốc lộ lB nối thành phố Thái Nguyên với tỉnh
Lạng Sơn. Với sự kết hợp này đã tạo nên hệ thống giao thông thuận lợi tạo
điều kiên tốt cho việc giao lưu hàng hoá, phát triển kinh tế xã hội của thành
phố. Ngoài hệ thống đường bộ, thành phố còn có hệ thống đường sắt đi qua
khá thuận lợi.
Như vậy, hệ thống giao thông vận tải của Thành phố phân bố khá hợp lý,
đường giao thông tiến tới sẽ được nhựa hoá, bê tông hoá đến từng ngõ xóm.
Đó là điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp của thành phố phát triển
và cũng là điều kiện để nông sản thực phẩm của thành phố tiêu thụ xa trên thị
trường, chiếm lĩnh các thị trường trong và ngoài nước.
2.1.2.3 Về điện
Các xã, phường của Thành phố đã có điện lưới quốc gia phục vụ trực tiếp
cho sinh hoạt và cho sản xuất của người dân trên địa bàn thông qua mạng lưới
hoàn chỉnh gồm các cấp điện áp: 220KV, 110 KV, 35KV, 20KV, 1OKV,
6KV và 0,4KV.
2.1.2.4. Về thuỷ lợi
Cho đến nay thành phố có hơn 500 công trình thuỷ lợi lớn nhỏ, ngoài
nguồn nước sông Cầu cung cấp nước tưới cho các vùng phía Đông và phía
Nam của thành phố còn có sông Công cung cấp nước tưới cho các xã ở phía
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
43
Bắc. Song hệ thống kênh mương nội đồng từ trước không được chú trọng, đặc
biệt từ khi giao ruộng cho nông dân, chủ yếu là mương đất, khi sử dụng hệ
thống tưới tiêu bơm nước thì lượng nước tiêu hao lớn, giá thành điện lại cao
nên dễ xảy ra hiện tượng để ruộng trắng. Điều đó ảnh hưởng đến đời sống,
năng suất chất lượng lúa của nông dân. Do địa hình không bằng phẳng, không
tập trung, việc đầu tư nâng cấp các hệ thống kênh nội đồng còn gặp nhiều khó
khăn, đòi hỏi phải có sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước (Bảng 2.4)
2.1.3. Tình hình phát triển kinh tế nông thôn của thành phố Thái Nguyên
2.1.3.1. Về nông nghiệp
Tổng giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2006 của Thành phố đạt 512.002
triệu đồng, bình quân năm 2004-2006 tăng 3,22 %. Trong đó ngành trồng trọt
chiếm 61,83%, ngành chăn nuôi chiếm 22,44%, ngành dịch vụ nông nghiệp
chiếm 13,73% (Bảng 2.5). Mặc dù diện tích đất nông nghiệp của thành phố
ngày càng bị thu hẹp do tốc độ đô thị hoá nhanh. Nhưng do được đầu tư các
giống mới và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào canh tác sử dụng hợp lý
cho nên đã đưa sản lượng lúa lên cao.
Cùng với việc ngành trồng trọt phát triển đã thúc đẩy ngành chăn
nuôi phát triển mạnh, đảm bảo cung cấp phân bón sức kéo cho trồng trọt,
cụ thể như ngành chăn nuôi năm 2006 tăng so với năm 2004 là 5,6%,
trong đó tổng đàn trâu tăng 1,4%, đàn bò tăng 18,4%, đàn lợn tăng 0,8%,
đàn gà tăng 2,2%, đàn vịt, ngan, ngỗng tăng 5,5%.
2.1.3.2. Về công nghiệp
- Những năm vừa qua, công nghiệp được đầu tư cơ cấu lại, sự phục hồi
của công nghiệp Trung ương và sự bứt phá của công nghiệp địa phương, công
nghiệp đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá. Giá trị sản xuất công nghiệp nông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
44
Bảng 2.5 Kết quả sản xuất ngành nông nghiệp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
Bảng 2.6 Diện tích, năng suất, sản lươngj một số cây trồng chủ yếu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
46
2.7 KQ SX 1 số ngành nông thôn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47
thôn trên địa bàn (theo giá cố định năm 1994) năm 2006 đạt 103.542 triệu
đồng, tốc độ tăng bình quân hàng năm 14,65% (Bảng 2.7).
- Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tăng nhanh về số lượng doanh
nghiệp và đầu tư mở rộng sản xuất, đến nay trên địa bàn thành phố đã có trên
1000 doanh nghiệp dân doanh, do vậy giá trị sản xuất tăng tương đối cao bình
quân hàng năm tăng lên.
2.l.3.3. Về dịch vụ và thương mại
Hoạt động dịch vụ và thương mại trong những năm qua đã có bước tăng
trưởng, chất lượng phục vụ đã được nâng cao. Cơ sở hạ tầng dịch vụ - thương
mại đã được đầu tư nâng cấp từng bước, mạng lưới bưu chính viễn thông đã
được hiện đại hoá cơ bản, nhiều phương tiện thông tin hiện đại đạt tiêu chuẩn
quốc tế đã được đưa vào phục vụ, ngành dịch vụ vận tải như vận tải taxi, xe
buýt mới phát triển nhưng đã tăng nhanh về số lượng, chất lượng phục vụ
cũng được tập trung đầu tư nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển; dịch vụ ngân
hàng cũng có những đổi mới quan trọng đáp ứng đủ vốn phục vụ đầu tư phát
triển. Cơ sở hạ tầng dịch vụ thương mại đã được tăng cường đầu tư đến cuối
năm 2006 thành phố đã có 108 khách sạn, nhà nghỉ trong đó có 3 khách sạn 3
sao và một số điểm phân phối hàng hoá hiện đại ngày càng đáp ứng yêu cầu
tiêu dùng của nhân dân và khách du lịch trong và ngoài nước.
2.1.3.4. Văn hoá xã hội và an ninh quốc phòng
- Về giáo dục ngày càng được quan tâm đầu tư phát triển toàn diện về cơ
sở vật chất trường lớp và chất lượng dạy và học. Tỷ lệ các cháu vào trường
mầm non tăng, phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập THCS vẫn
được duy trì và giữ vững, 100% các cháu trong độ tuổi đến lớp, tỷ lệ học sinh
thi tốt nghiệp và học sinh giỏi các cấp đều tăng so với khoá học trước. Làm
tốt công tác chuẩn bị phục vụ các kỳ thi đại học, cao đẳng tổ chức trên địa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
48
bàn, chuẩn bị tốt các điều kiện phục vụ hoạt động hè cho thanh, thiếu niên và
bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ quản lý và giáo viên.
Về y tế và chăm sóc sức khoẻ của nhân dân. Tổ chức thực hiện tốt các
chương trình y tế quốc gia, công tác khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế trên
địa bàn cơ bản đáp ứng được yêu cầu của nhân dân. Triển khai học tập pháp
lệnh vệ sinh an toàn thực phẩm, phối hợp tổ chức tuyên truyền, giáo dục nâng
cao y đức của người thầy thuốc. Chủ động triển khai phòng chống dịch bệnh
cho nhân dân, không để dịch bệnh lớn xây ra trên địa bàn. Tăng cường công
tác kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm, hành nghề y dược tư nhân.
- Công tác thực hiện chính sách xã hội: Đảm bảo thực hiện tốt các
chế độ chính sách cho các đối tượng được hưởng chính sách BHXH và
người có công, người tham gia kháng chiến. Thực hiện tốt chương trình
giảm nghèo, đến nay toàn thành phố chỉ còn 6,52% hộ nghèo (bảng 2.8).
Làm tốt công tác đền ơn đáp nghĩa với người có công, đảm bảo việc thực
hiện các chính sách xã hội. Thường xuyên tổ chức tư vấn, giới thiệu việc
làm, đào tạo nghề cho người lao động hàng năm, đã giải quyết việc làm
cho 6.000 người trở lên.
- Trong 3 năm qua quốc phòng được củng cố, an ninh chính trị trên địa
bàn thành phố luôn được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.
2.1.4. Đánh giá những thuận lợi và khó khăn trong quá trình phát triển
sản xuất chè của thành phố Thái Nguyên
2.1.4.1. Những thuận lợi
- Tình hình chính trị xã hội tiếp tục ổn định, thế và lực được tăng cường là
thuận lợi cốt yếu để phát triển kinh tế-xã hội trong những năm tới đồng thời với
kết quả hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra cho năm 2004 -2006, là
tiền để cho sự phát triển cao và có chất lượng hơn trong những năm tới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
49
Bảng 2.8 Tình hình giàu nghèo ở TP TN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
50
Thành phố Thái Nguyên nằm ở trung tâm vùng có nhiều khoáng sản,
nguyên liệu, nông - lâm sản quí phục vụ sản xuất hàng hoá, có vị trí địa lý
kinh tế chiến lược với đầu mối giao thông trọng yếu, có cự ly đến cảng hàng
không Quốc tế Nội Bài lý tưởng, là vùng đệm giữa khu kinh tế năng động với
các tỉnh miền núi phía Bắc, đồng thời thành phố có cơ sở hạ tầng đô thị, xã
hội tương đối thuận lợi gồm: hệ thống cơ sở kinh tế, văn hoá, giáo dục, đào
tạo, y tế nghiên cứu khoa học của Trung ương và của tỉnh đóng trên địa bàn,
đặc biệt là nguồn nhân lực, trong đó có lực lượng trí thức có trình độ, nhiệt
huyết và đông đảo tầng lớp nhân dân có trí thức cao, tài chính dồi dào và bề
dày kinh nghiệm phong phú để phát triển kinh tế - xã hội; được Chính phủ
công nhận là Đô thị loại II đã mở ra nhiều cơ hội sẽ được tiếp cận với nguồn
đầu tư trực tiếp từ Trung ương hỗ trợ thành phố phát triển.
Năm 2006 nước ta tham gia vào thị trường chung ASEAN và trở thành
thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới (WTO), tạo điều kiện
thuận lợi để chúng ta xuất khẩu chè thâm nhập thị trường Quốc tế nhất là thị
trường có tiềm năng như Mỹ, Nhật, EU. . . Chúng ta sẽ được tham gia sâu
rộng hơn vào quá trình phân công lao động, phân chia thị trường trong khu
vực và hợp tác kinh tế, sẽ tạo ra sức hấp dẫn hơn đối với đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam và ngược lại chúng ta sẽ phải cạnh tranh gay gắt hơn ngay
trong thị trường nội địa, trong khi còn yếu về tài chính, năng lực kỹ thuật,
hiểu biết về thị trường Quốc tế.
- Phát huy tiềm năng, lợi thế về vị trí địa lý kinh tế, hệ thống kết cấu hạ
tầng và các nguồn lực, đẩy nhanh tốc độ Công nghiệp hoá - hiện đại hoá - đô
thị hoá phát triển mạnh kinh tế - xã hội một cách hiệu quả và bền vững, đưa
thành phố Thái Nguyên trở thành một đô thị giàu, đẹp, văn minh và hiện đại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
51
2.1.4.2. Những khó khăn
- Kinh tế đã có bước phát triển nhưng chưa tương xứng với tiềm năng
của Thành phố, tốc độ tăng trưởng của Thành phố tuy cao, nhưng do xuất
phát điểm thấp nên tình hình kinh tế - xã hội vẫn còn gặp khó khăn, nguồn
vốn đầu tư hàng năm được cân đối từ ngân sách Thành phố vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu đầu tư phát triển và chủ yếu dựa vào nguồn thu cấp quyền sử
đụng đất.
- Cơ sở hạ tầng được đầu tư nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển
kinh tế. Tiến độ bồi thường giải phóng mặt bằng chậm, công tác qui hoạch đô
thị chưa theo kịp tốc độ phát triển.
- Các cơ sở kinh doanh chậm đầu tư thiết bị công nghệ, năng suất chất
lượng sản phẩm chưa cao, sản phẩm kém sức cạnh tranh, hiệu quả sản xuất
kinh doanh thấp là một trong những yếu tố làm hạn chế đến khả năng tăng
trưởng kinh tế, đặc biệt ảnh hưởng tới phát triển sản xuất chè.
- Do tốc độ đô thị hoá kèm theo dân số ngày càng tăng, tình trạng thiếu
việc làm, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp: số lượng, chất lượng lao động
kỹ thuật chưa đáp ứng yêu cầu; do thiếu vốn đầu tư cơ sở hạ tầng đô thị nên
tình trạng ô nhiễm nguồn nước, ứ đọng chất thải, ô nhiễm môi trường các dịch
vụ cơ bản về giáo dục, y tế hiện còn bất cập, tệ nạn xã hội chưa được ngăn
chặn triệt để đang là những vấn đề bức xúc.
- Sự tăng lên của dân cư đô thị gây sức ép đối với chính quyền thành
phố về việc đảm bảo các nhu cầu thiết yếu, hạ tầng đô thị, vệ sinh môi
trường, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, tệ nạn xã hội, cần phải tập
trung cả sức và lực để giải quyết, ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển và
tăng trưởng kinh tế.