Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Nguyễn Công Trứ . pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.67 KB, 20 trang )


Nguyễn Công Trứ



Cụ Nguyễn Công Trứ (1778-1858), tự là Tồn Chất, hiệu là Ngộ Trai,
biệt hiệu là Hi Văn, người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, tư
chất thông minh, tính người hào phóng. Cụ xuất thân trong một gia đình
khoa bảng. Cụ thân sinh là Nguyễn Tần, đỗ Hương Cống đời nhà Lê .
Buổi thiếu thời, dù sống trong cảnh hàn vi, cụ luôn cố công trau dồi
kinh sử để mong thi đỗ ra làm quan giúp dân, giúp nước. Sau nhiều lần thi
hỏng, Cụ cuối cùng đậu Tú Tài năm 1813 và đậu Giải Nguyên năm Gia
Long thứ 18 (1819) và đến năm Minh Mệnh nguyên niên 1820, bắt đầu ra
làm quan, bấy giờ Cụ đã 42 tuổi . Cụ trải thờ ba triều: Minh Mệnh, Thiệu Trị
và Tự Đức.
Từ chức hành tẩu Sử quán, thăng lên đến Binh bộ thượng thư lãnh
chức Tổng đốc (bởi vậy tục thường gọi là Cụ Thượng Trứ). Nhưng hoạn lộ
của Cụ lên voi xuống chó, chìm nổi nhiều phen: mấy lần bị giáng chức, một
lần bị cách tuột; kết cục lúc về hưu (Tự Đức nguyên niên, 1848) chỉ còn lại
hàm Thừa Thiên phủ doãn. Bấy giờ Cụ đã 71 tuổi . Khi về hưu, lúc Cụ ở quê
nhà , lúc Cụ ở chùa, lúc Cụ đến ở hai huyện Kim Sơn, Tiền Hải là nơi Cụ đã
có công khai thác, gác bỏ việc đời, ngao du sơn thủy, sinh hoạt trong cảnh an
nhàn. Cụ mất ngày 7 tháng 12 năm 1858 tại chính quán, thọ 81 tuổi, được
phong tước Dinh Bình Hầu .
Cụ tuy làm quan văn, nhưng có tài thao lược, nên Cụ từng đi đánh
giặc nhiều phen, giúp triều đình nhà Nguyễn đàn áp nhiều cuộc khởi nghĩa
lớn (Lê Duy Lương, Nông Văn Vân, Phan Bá Vành ). Nhưng cái công
nghiệp to nhất của Cụ lúc làm Doanh Điền Sứ, giúp dân khai khẩn đất hoang
(1828) ở vùng bãi biển tỉnh Nam Định và tỉnh Ninh Bình để lập ra hai huyện
Tiền Hải (nay thuộc Thái Bình) và Kim Sơn (vẫn thuộc Ninh Bình).
Cụ có biệt tài về văn nôm. Văn Cụ làm đủ các lối, (chữ Hán (câu đối,


sớ) cũng như chữ Nôm (thơ, hát nói, phú, câu đối, ca trù ), nhưng sở
trường nhất là lối hát nói . Văn Cụ lỗi lạc khác thường; không thiên về tình
buồn như phần nhiều các thơ ca của ta; trái lại, Cụ thường khuyên người ta
phải gắng gổ làm tròn phận sự, lập nên công nghiệp và lúc nào cũng nên vui
vẻ, dầu gặp cảnh nghèo khó cũng vậy . Lời văn lại hào hùng và ngạo nghễ,
biểu lộ một bản lĩnh vững chắc, một chí khí mạnh mẽ, và thái độ cầu tiến,
vươn lên, thật rõ là khẩu khí của một người suốt đời hăng hái làm việc cho
đời, tận tụy với chức vụ .

===========================
Gánh Gạo Ðưa Chồng
Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non
Lộ diệc vũ trùng trung chi nhất
Thương cái cò lặn lội bờ sông
Tiếng nỉ non gánh gạo đưa chồng
Ngoài nghìn dặm, một trời, một nước.
Trông bóng nhạn, bâng khuâng từng bước,
Nghe tiếng quyên, khắc khoải năm canh.
Nghĩa tép tôm ai nỡ dứt tình,
Ơn thủy thổ phải đền cho vẹn sóng,
Trường tên đạn, xin chàng bảo trọng.
Thiếp lui về nuôi cái cùng con.
Cao Bằng cách trở nước non,
Mình trong trắng có quỉ thần a hộ .
Sức bay nhảy một phen năng nổ
Đá Yên Nhiên còn đó chẳng mòn,
Đông Hưu rạng chép thẻ son,
Chàng nên danh giá, thiếp còn trẻ trung.
Yêu nhau khăng khít giải hồng.


Cây Thông
Ngồi buồn mà trách ông xanh,
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười.
Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.
Giữa trời, vách đá cheo leọ
Ai mà chịu rét thời trèo với thông

Vịnh Cảnh Nghèo
Chẳng phải rằng ngây chẳng phải đần
Bởi vì nhà khó hóa bần thần.
Mấy đời thầy kiện mà thua mẹo,
Nghĩ phận thằng nghèo phải biết than.
Số khá bĩ rồi thời lại thái
Cơ thường đông hết hẳn sang xuân.
Trời đâu riêng khó cho ta mãi,
Vinh nhục dù ai cũng một lần.

Đi Thi Tự Vịnh
Đi không há lẽ trở về không ?
Cái nợ cầm thư phải trả xong.
Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt
Dở đem thân thế hẹn tang bồng.
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.
Trong cuộc trần ai, ai dễ biết
Rồi ra mới rõ mặt anh hùng.

Chí Làm Trai

Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc.
Nợ tang bồng (1) vay trả, trả vay.
Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể.
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh. (2)
Đã chắc rằng ai nhục ai vinh,
Mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ.
Cũng có lúc mưa dồn sóng vỗ,
Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong.
Chí những toan xẻ núi lấp sông,
Làm nên tiếng anh hùng đâu đấy tỏ.
Đường mây rộng thênh thênh cử bộ,
Nợ tang bồng trang trắng, vỗ tay reo
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu.
(1) Tang bồng: từ "tang bồng hồ thỉ" cung bằng gỗ dâu, tên bằng cỏ
bồng. Theo Lễ Kinh: cha mẹ mới sinh con trai, lấy cung tên bằng gỗ dâu và
tên bằng cỏ bồng treo ở ngoài cửa, có ý mong cho con mình sau này lấy
cung tên làm nên sự nghiệp vang thiên hạ.
(2) Hai câu thơ trong bài Quá Linh Đinh Dương của Văn Thiên
Tường đời Tống. Người ở đời chẳng ai mà không chết, phải làm sao lưu lại
tấm lòng son soi trong sử xanh.

Phận Sự Làm Trai
Vũ trụ chức phận nội (1)
Đấng trượng phu một túi kinh luân. (2)
Thượng vị đức, hạ vị dân, (3)
Sắp hai chữ "quân, thân" mà gánh vác,
Có trung hiếu nên đứng trong trời đất
Không công danh thà nát với cỏ cây.

Chí tang bồng hồ thỉ (4) dạ nào khuây,
Phải hăm hở ra tài kinh tế (5)
Người thế trả nợ đời là thế
Của đồng lần thiên hạ tiêu chung,
Hơn nhau hai chữ anh hùng.
(1) Chức phận mình ở trong vũ trụ.
(2) Kinh luân: Trong việc kéo tơ, lấy tơ chia ra gọi là kinh, hợp những
sợi tơ lại mà se thì gọi là luân (chỉ những người giỏi việc chính trị).
(3) Trên vì người có đức (tức vua), dưới vì dân hưng lơ.i.
(4) tang bồng hồ thỉ: cung bằng gỗ dâu, tên bằng cỏ bồng. Theo Lễ
Kinh: cha mẹ mới sinh con trai, lấy cung tên bằng gỗ dâu và tên bằng cỏ
bồng treo ở ngoài cửa, có ý mong cho con mình sau này lấy cung tên làm
nên sự nghiệp vang thiên hạ.
(5) Kinh tế: từ cụm từ kinh bang tế thế giúp nước cứu đời.

Chữ Tình
Mưỡu:
Chữ tình là chữ chi chi,
Dẫu chi chi cũng chi chi với tình.
Sầu ai lấp cả vòm trời,
Biết chăng chăng biết hỡi người tình chung ?
Nói:
Đa tình là dở,
Đã mắc vào đố gỡ cho ra !
Khéo quấy người một cái tinh ma,
Trói buộc kẻ hào hoa biết mấy !
Đã gọi người nằm thiên cổ dậy,
Lại đưa hồn lúc ngũ canh đi.
Nực cười thay lúc phân kỳ,
Trông chẳng nói, xiết bao nhiêu biệt lệ.

Tình huống ấy dẫu bút thần khôn vẽ,
Càng tài tình càng ngốc, càng si.
Cái tình là cái chi chi ?

Tương Tư
Tương tư không biết cái làm sao,
Muốn vẽ mà chơi vẽ được nào ?
Lúc đứng, khi ngồi, khi nói chuyện,
Lúc say, lúc tỉnh, lúc chiêm bao.
Trăng soi trước mặt ngờ chân bước,
Gió thổi bên tai ngỡ miệng chào.
Một nước một non người một ngả,
Tương tư không biết cái làm sao ?
====================
Kẻ Sĩ
Trần Hy
Nói tới Khổng Giáo thì phải nói ngay tới kẻ sĩ. Mục đích duy nhất của
Khổng Giáo là đào tạo ra kẻ sĩ. Kẻ sĩ được coi là một lý tưởng mà mọi người
phải hướng tới
Sau đây xin mời các ACE đọc 1 bài viết do một kẻ sĩ chân chính viết
về chính kẻ sĩ. Đó là Nguyễn Công Trứ qua bài Kẻ Sĩ của ông. Kẻ sĩ không
thể có một đại diện nào hoàn hảo hơn Nguyễn Công Trứ. Ông trải qua tất cả
tiến trình học tập, sống và hành động của một kẻ sĩ lý tưởng. Ông cũng là
một mẫu mực thành công của kẻ sĩ. Cả văn nghiệp lẫn võ nghiệp của ông ít
ai bì kịp, ông cũng rất dũng cảm và thanh liêm. Điều làm người ta quí mến
ông hơn nữa là ông lại phóng khoáng và đầy nghệ sĩ tính. Ông là một trong
những kẻ sĩ lỗi lạc nhất và đáng kính phục nhất trong lịch sử Việt nam.
Nguyễn Công Trứ trải qua một thời thanh niên lận đận, ông đậu Giải
Nguyễn (thủ khoa kỳ thi hương) năm đã 43 tuổi. Sự muộn màng này không
phải do ông không thành công trong các bài thi mà vì quan trường thấy giỏi

quá sợ ông thành kiêu căng nên đánh rớt ông để tập cho ông tính khiêm
nhường. Nguyễn Công Trứ mất hơn hai mươi năm cường tráng nhất của đời
minh vì chữ khiêm của kẻ sĩ ông theo đúng phương châm vững lòng tin,
chăm học, kiên trì, cải thiện trình độ nho học (độc tín, háo học, thủ tử, thiện
đạo) trong lúc chưa gặp thời. Sau đó ông thi đậu rồi làm quan và làm tướng
một cách thật xuất sắc, thăng lên những chức vụ rất cao, đánh Nam dẹp Bắc
lập những chiến công thật lẫy lừng. Ông cũng đã đem dân đi dinh điền lập ra
nhiều huyện trù phú tại tỉnh Thái Bình. Nguyễn Công Trứ rất hài lòng về sự
nghiệp của mình, ông tự thuật như sau:
Khi thủ khoa, khi tham tán, khi tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc bình Tây cờ đại tướng
Hoạn lộ của ông khá nhiều gian truân. Có lúc ông bị gièm là có ý làm
phản, có lúc ông bị cách chức tuột xuống làm lính, nhưng Nguyễn Công Trứ
vẫn kiên trì bày tỏ tài năng và lòng trung nghĩa và rồi lại vươn lên. Ông về
hưu sau ba mươi năm hoạt động mãnh liệt. Nhưng mặc dầu công việc dồn
dập ông vẫn để lại một văn nghiệp to lớn về cả phẩm lẫn lượng.
Tác giả đã đặc sắc như vậy, bài Kẻ Sĩ cũng đặc sắc không kém. Nó
tóm gọn một cách đẹp đẽ tất cả nhân sinh quan của kẻ sĩ. Nó lại được viết
bằng một thể văn đặc biệt, thể hát nói. Đó là loại thơ được sáng tác trong lúc
hát cô đầu, lúc kẻ sĩ phóng khoáng nhất. Cái gì quá đẹp thì khó đúng, có thể
bức chân dung kẻ sĩ của Nguyễn Công Trứ không trung thực vì đã được lộng
lẫy hóa quá đáng. Kẻ sĩ mà Nguyễn Công Trứ mô tả là kẻ sĩ tráng lệ nhất.
Nên nhớ là Trung Quốc không có bài thơ hay bài văn nào mô tả kẻ sĩ đẹp đẽ
và hùng tráng hơn bài Kẻ Sĩ sau đây của Nguyễn Công Trứ, và xin chép lại
nguyên văn :
1. Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt
2. Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên
3. Có giang sơn thì sĩ đã có tên
4. Từ Chu, Hán vốn sĩ này là quí

5. Miền hương đảng đã khen rằng hiếu nghị
6. Đạo lập thân phải giữ lấy cương thường
7. Khí hạo nhiên chí đại, chí cương
8. So chính khí đã đầy trong trời đất
9. Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất
10. Hiêu hiêu nhiên điếu Vị, canh Sằn
11. Xe bồ luân dầu chưa gặp Thang Văn
12. Phù thế giáo một vài câu thanh nghị
13. Cầm chính đạo để tịch tà, cự bí
14. Hồi cuồng lan nhi chướng bách xuyên
15. Rồng mây khi gặp hội ưa duyên
16. Đem quách cả sở tồn làm sở dụng
17. Trong lăng miếu ra tài lương đống
18. Ngoài biên thùy rạch mũi Can Tương
19. Làm sao cho bách thế lưu phương
20. Trước là sĩ sau là khanh tướng
21. Kinh luân khởi tâm thượng binh giáp tàng hung trung
22. Vũ trụ chi gian giai phận sự
23. Nam nhi đáo thử thị hào hùng
24. Nhà nưóc yên mà sĩ được thung dung
25. Bấy giờ sĩ sẽ tìm ông Hoàng Thạch
26. Dăm ba chú tiểu đồng lếch thếch
27. Tiêu dao nơi cùng cốc thâm sơn
28. Nào xe, nào ngựa, nào địch, nào đờn
29. Đồ thích chí chất đầy trong một túi
30. Mặc ai hỏi mặc ai không hỏi tới
31. Nhắm cuộc đời mà ngẫm kẻ trọc thanh
32. Này này, sĩ mới hoàn danh.
Bài thơ này dùng khá nhiều chữ Hán nên có lẽ một số độc giả cần vài
giải thích.

Hai câu (1) và (2) nói rằng trong năm tước quan (công, hầu, bá, tử,
nam), kẻ sĩ đều có mặt và trong bốn giai cấp xã hội (sĩ, nông, công, thương),
kẻ sĩ đứng đầu. Thật là hãnh diện được làm kẻ sĩ.
(1) Tước có năm bậc thì sĩ cũng dự vào; dân có bốn nghề thì sĩ đứng
đầu tiên.
Quả như vậy, trong năm tước, công, hầu, bá ,tử, nam của vua ban cho,
thì Sĩ đã đứng trong hàng ngũ ấy. Kẻ Sĩ là chuyên viên của một triều đại.
Hơn nữa là những chuyên viên đào tạo, rèn đúc nên từng thế hệ. Dân hữu tứ
sĩ vi chi tiên. (Dân có bốn hạng, thì sĩ là trước hết).
Trong câu (4), Chu và Hán là hai triều đại lớn của Trung Quốc gần sát
nhau, từ thế kỷ 12 trước Tây lịch tới thế kỷ 3 sau Tây lịch.
Hai câu (5) và (6): ở xóm làng (lưỡng đảng), kẻ sĩ đã được tôn kính là
người có lý luận (hiếu nghị) nên phải sống đúng tam cương (quân, sư, phụ
hay bổn phận đối với vua, với cha mẹ và với thầy dạy học) và ngũ thường
(nhân, nghĩa, lễ, trí, tín).
Hai câu (7) và (8): Bản chất của kẻ sĩ (khí hạo nhiên) rất lớn và rất
vững (chí đại, chí cương), tinh thần (chính khí) của kẻ sĩ đầy trời đất.
Hai câu (9) và (10): Khi chưa gặp (lúc vị ngộ) được minh chúa thì ở
yên (hối tàng) trong lều cỏ (bồng tất) nghèo nàn, cứ thanh thản mà vui chơi
bằng cách câu cá trên sông Vị (điếu Vị) hay trồng trọt trên đất Sằn (canh
Sẵn). Đầu đời nhà Chu, Khương Tử Nha ngồi câu cá trên sông Vị đợi minh
chúa tới năm đã ngoài 80 tuổi mới được Chu Văn Vương đem xe đến đón về
làm quan. Trước đó một nhân vật huyền bí khác của Trung Quốc, làm ruộng
ở đất Sằn cho đến khi được minh chúa tới đón. Tất cả những hoạt động câu
cá, trồng trọt này không có mục đích sản xuất (Chương Tử Nha câu cá bằng
lưỡi câu thẳng) mà chỉ có mục đích chờ thời mà thôi.
Hai câu (11) và (12): Dù chưa gặp được các minh chúa như vua
Thang, vua Văn đem xe có quấn cỏ vào bánh (bờ luân) cho êm tới đón về,
vẫn giữ đạo nho bằng cách nói lên những lời đúng (thanh nghị).
Ba câu (13), (14) và (15): Giữ vững chính đạo, tức Khổng Giáo, để

tiêu diệt những tà thuyết (tịch tà), chống lại những khó khăn của cuộc sống
(cự bi). Quyết tâm quay ngược lại sóng dữ (hồi cuồng lan) ngăn nước của cả
trăm con sông.
Năm câu từ (16) đến (20): Khi đã được ra làm quan (kẻ sĩ được làm
quan cũng sung sướng như rồng gặp mây) thì đem lết cả tài mình có (sở tồn)
ra sử dụng. Trong triều đình (lăng miếu là mộ các vua, thường chôn ở ngay
triều đình, kẻ sĩ coi là một diễm phúc được nhìn mộ các vua trước) thì trổ tài
làm quan (tài lương đống), ngoài trận mạc biên thùy thì vung gươm báu
(Can và Tương là một cặp vợ chồng thời xưa ở Trung Quốc làm nghề luỵện
kiếm và đã hy sinh vì kiếm báu). Làm thế nào để cả trăm thế hệ về sau biết
đến tiếng thơm (bách thế lưu phương) mới hay. Trước là làm đẹp hình ảnh
kẻ sĩ, sau là làm quan lớn (khanh tướng).
Ba câu (21), (22) và (23) tóm lược thế nào là một người trai anh hùng:
phải có kiến thức trị nước (kinh luân) ở sẵn trong đầu (tâm trương) và phải
chứa sẵn tài cầm binh ở trong bụng (binh giáp tàng hung trung). Khắp nơi
đều là phạm vi hoạt động (vũ trụ chi gian giai phận sự). Làm trai như thế
mới đúng là anh hùng hào kiệt. Những câu cuối nói rằng khi đã làm tròn
phận sự thì kẻ sĩ lại rút về ở ẩn ngao du danh lam thắng cảnh, hưởng thể đàn
hát và không màng đến xã hội nữa. Như thế là kẻ sĩ hoàn tất một cuộc đời
đẹp (hoàn danh).
Và dĩ nhiên chỉ có người con trai mới đáng kể, phụ nữ không thể là kẻ
sĩ vì thế không đáng đếm xỉa tới
Nguyễn Công Trứ là tinh hoa của lịch sử Việt nam, là người đã có
công lớn với đất nước và cũng là những người mà chúng ta có thể tự hào.
Nguyễn Công Trứ và vô số kẻ sĩ lỗi lạc khác nếu thi thố được hết tài
năng và sáng kiến của mình thì còn vĩ đại gấp trăm lần và còn cống hiến cho
đất nước những thành quả to lớn gấp trăm lần. Nhưng họ là kẻ sĩ và đã phải
chấp nhận cuộc sống vong thân của kẻ sĩ.
Tâm lý kẻ sĩ vẫn còn hiện diện mạnh lắm trong chúng ta. Không thiếu
những người rất đáng quí trọng hiện nay ao ước được sống như kẻ sĩ hay

hãnh diện đã sống như kẻ sĩ.
Nhiều người đã viết kháng thư trách chính quyền cộng sản đối xử tệ
bạc với trí thức mà họ coi là những kẻ sĩ của thời nay.
Chúng ta có nên làn như vậy không nếu chúng ta muốn một tầm
vóc khác cho đời mình và một tương lai khác cho đất nước.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×