Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

CHẾT ĐỘT NGỘT CỦA NHŨ NHI ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.99 KB, 4 trang )

CHẾT ĐỘT NGỘT CỦA NHŨ NHI


Trong 15 năm, số các trường hợp đã giảm sút rất nhiều, nhưng nhiều
chục em bé vẫn còn có thể cứu được mỗi năm.
PEDATRIE. Cách nay 15 năm, các chiến dịch thông tin quốc gia
khuyến nghị khuyên cho các nhũ nhi ngủ nằm ngửa, đã có những kết quả
ngoạn mục, cho phép làm sụt giảm số các trường hợp chết đột ngột của nhũ
nhi (MSN : Mort subite du nourrisson) 60% trong chưa đầy 2 năm. Những
dữ kiện mới, được trình bày hôm thứ ba với Bộ y tế, cho thấy rằng cần khẩn
trương tiếp tục những hành động y tế cộng đồng này. Theo một công trình
nghiên cứu được tiến hành bởi BS Juliette Bloch, thầy thuốc chuyên khoa
dịch tễ học thuộc InVS (Institut de veille sanitaire), một số quan trọng các
trường hợp tử vong bất ngờ của các nhũ nhi dưới 1 tuổi có thể được ngăn
ngừa. Chỉ cần áp dụng những quy tắc vàng đơn giản : cho ngủ nằm ngửa ;
trên một tấm nệm cứng ; không couette, mền hay gối ; trong một căn phòng
ít được sưởi nóng (khoảng 19 độ C) và một bầu không khí không có khói
thuốc lá.
Được định nghĩa là chết đột ngột và bất ngờ của một đứa bé dưới 2
tuổi, và thường là dưới 6 tháng , mà một thăm khám hoàn chỉnh sau khi chết
không tìm ra nguyên nhân chính xác. Những trường hợp chết đột ngột của
nhũ nhi đã xảy ra giữa 1000 và 1500 em bé mỗi năm ở Pháp vào đầu những
năm 1990. Chính vào thời kỳ này mà những công trình nghiên cứu dịch tễ
học, được tiến hành chủ yếu ở Tân Tây Lan, đã phát hiện vai trò có hại của
việc ngủ nằm sấp hay nằm nghiêng, và ngược lại một sự giảm rõ rệt những
trường hợp đặt em bé ngủ nằm ngửa. Vào năm 1994, nước Pháp đã phát
động chiến dịch thông tin đầu tiên theo chiều hướng này. Hai năm sau, vào
năm 1996, những trường hợp chết đột ngột của nhũ nhi xuống dưới mức 500
trường hợp mỗi năm. Từ đó, sự giảm đã tiếp tục, và số trường hợp giao động
trong những năm qua quanh 250 trường hợp mỗi năm. “Điều tra của Institut
de veille sanitaire cho thấy rằng người ta còn có thể làm tốt hơn, GS Didier


Houssin tổng giám đốc y tế đã nhấn mạnh như thế.
Được thực hiện giữa năm 2007 và 2009 trong 17 tỉnh (chiếm gần 40%
những trường hợp sinh ở Pháp), công trình nghiên cứu đã liệt kê tổng cộng
281 trường hợp tử vong bất ngờ của các nhũ nhi. Sau cùng, 220 trường hợp
xảy ra nơi nhưng em bé dưới 1 tuổi, đã được nghiên cứu. Như những công
trình nghiên cứu trước, các tác giả đã nhận thấy một sự chiếm ưu thế của các
bé trai, một lứa tuổi critique (3 tháng) và một đỉnh cao vào mùa đông.
Những thăm khám đã cho phép nhận diện một nguyên nhân tử vong 1/3 các
trường hợp : thường nhất là nhiễm trùng (42%), hít vào nhiều sữa (15%), các
bệnh chuyển hóa (13%). Chỉ tính riêng các tai biến do đặt nằm ngủ (các trẻ
bị kẹt giữa tấm nệm và bờ giường, được tìm thấy bị chôn vùi dưới couette
thậm chí bị đè bởi một người lớn ) chiếm 25 những trường hợp được giải
thích. “Đó là những trường hợp tử vong hoàn toàn có thể tránh được, BS
Juliette Bloch đã nhấn mạnh như vậy.
NHỮNG YẾU TỐ NGUY CƠ
Mặt khác, thầy thuốc chuyên khoa dịch tễ học xác nhận rằng chẩn
đoán ngược đãi trẻ em (maltraitance), được nghi ngờ trong một chục trường
hợp, chỉ đã được xác nhận nơi một trẻ em duy nhất. Còn 2/3 các trường hợp
trong đó các trường hợp tử vong không giải thích được, thường có những
yếu tố nguy cơ. Đa số các em bé này ngủ trong một môi trường không được
an toàn : ngủ sấp, ngủ cùng giường với một người lớn, nệm mềm, nhiệt độ
của căn phòng quá nóng
Điều tra cũng kết luận rằng việc xử lý những trường hợp chết bất ngờ
của nhũ nhi không được tối ưu. Phần lớn các em bé được mang đến các
centre de référence, nhưng những thăm khám được khuyến nghị bởi Haute
Autoité de santé vẫn luôn luôn không được thực hiện. “Các giải phẫu tử thi
đã tiến bộ từ 20 năm nay, nhung tỷ lệ của chúng, 72%, vẫn không đủ,
Juliette Bloch đã nêu lên như vậy. Nếu bố mẹ từ chối thăm khám này, phải
tuyệt đối thực hiện chụp hình ảnh hoàn toàn để loại bỏ một vấn đề ngược đãi
trẻ em.” Trên thực tiễn, không hẳn hoàn toàn như vậy. Thí dụ một IRM hay

một scanner đầu chỉ được thực hiện trong 45% các trường hợp (59% khi
không có giải phẫu tử thi). Còn về thăm khám dầy mắt, cho phép chẩn đoán
hội chứng em bé bị lay (bébé secoué), lại không được thực hiện một cách hệ
thống (chỉ được thực hiện trong 6,5% các trường hợp). Đứng trước nhiều
trường hợp tử vong có thể tránh được mỗi năm, tổng giám đốc y tế đề nghị
nhắc lại những thông điệp về phòng ngừa cho các người chuyên ngành y tế.

×