Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

CÂU KỶ, Wolfberry và Goji berry ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.08 KB, 24 trang )

CÂU KỶ, Wolfberry và Goji berry


Trong tập Đặc tính dinh dưỡng và trị liệu của Trái cây, chùng tôi có
trình bày vài chi tiết về cây Thù lù hay Lồng đèn (Physalis spp trong họ thực
vật Solanaceae ; trong họ này còn có một cây berry khác, tuy đã được dùng
từ lâu trong Dược học cổ truyền Trung Hoa để trị bệnh, nhưng đang được
quảng cáo như một loại trái cây mới, 'thần kỳ' 'siêu bổ' có nhiều dược tính trị
liệu (theo kiểu như nưóc noni, nước lựu, nứớc măng cụt !)
Từ đầu thế kỷ 21 một số khá nhiều trái cây nhiệt đới đã được đưa vào
các thị trường Âu Mỹ dưới dạng trái phơi khô hay thông dụng hơn là nước
cốt, pha chế sẵn thành các loại nước giải khát, kèm theo những quảng cáo,
tuy không được chứng minh bằng khoa học, là giúp chữa trị hay phòng ngừa
nhiều bệnh nan y kể cả ung thư Câu kỷ là một trong số các trái cây đang
được khai thác theo kiểu 'tiếp thị' này dưới các tên như Tibetan goji berry,
Himalayan goji berry
Các tên gọi :
Tên khoa học : Lycium barbarum và Lycium chinense thuộc họ thực
vật Solanacea.
Tên Trung Hoa và Hán việt : Quả : Câu kỷ tử (Gou-qi-zi; Kou-ch'i
tzu) Vỏ rễ : Địa cốt bì (Di-gu pi, Ti-ku-pi)
Tên Anh-Mỹ và các nơi khác : Chinese matrimony vine (L.chinense).,
Goji berry, Mede berry, Duke of Argyll's tea tree (L. barbarum), boxthorn,
wolfberry ; Pháp : lyciet. Nhật : kuko, quả là kuko no mi hay kuko no
kajitsu ; Triều tiên : gujija ; Thái lan : gào gèe.
Tên dược liệu : Fructus Lycii (dùng chung cho quả của cả 2 loài
Lycium), Cortex Lycìi, vỏ rễ của cả 2 loài.
Chi Lycium, thuộc họ thực vật Solanacea (họ Cà) gồm khoảng 100
loài cây mọc thành bụi nơi khí hậu nóng ấm, rất phong phú trong vùng Tây
Hoa Kỳ và Nam Mỹ. Tại Arizona có đến 10 trong số 14 loài của Bắc Mỹ.
Châu Âu có 3 loài, Trung Hoa có ít nhất là 6 loài. Chi này tại Việt Nam, theo


Võ văn Chi, có 2 loài và dùng trong dân gian dưới tên Rau khởi.
Tên chi Lycium được giải thích là phát xuất từ tiếng Hy lạp lykion,
một tên trước đây dùng để gọi những loài cây gai buckthorn từ vùng Lycia
và nhà Thực vật học Linnaeus đã chuyển tên này sang cho nhóm cây mà
ngày nay gọi là lycium.
Đặc tính thực vật :
Lycium chinensis :
Cây đã được Phillip Miller mô tả và đặt tên từ 1768 trong tập sách
Dictionary of Gardening. L. chinensis thường mọc tại các ven suới nơi vùng
núi hay ven các sông nhỏ dọc ven đường, đến cao độ chừng 7500 ft. Cây rất
thông dụng tại vùng Đông Á kể cả vùng Đông Trung Hoa, Nhật và Triều
tiên. Cây đã được 'địa phương hóa' tại cả Âu châu lẫn Hoa Kỳ. Tại Hoa Kỳ
cây mọc trong các vùng đất bỏ hoang, bên ven đường từ Nam Massachu
setts xuống đến Virginia và Louisiana, tại vùng phía Tây cho đến Oklahoma
và lên phía Bắc đến Michigan. Cây được du nhập vào các nước Á châu như
Malaisia, Indonesia, Việt Nam (hiện được trồng nhiều nhất tại Thanh Hóa)
Lycium chinensis, thuộc loại cây trung bình, dai, cao đến 1.5m, cành
cong và ngả xuống, có thể dài đến 4m, vỏ cành mầu vàng xậm có thể có gai.
Lá mọc so le hay từng nhóm 4-5 lá, cuống dài 2-5 mm, phiến lá hình trái
soan hay hình ngọn giáo, dài 2-6 cm, màu xanh xậm, bóng. Hoa mọc đơn
độc hay từng nhóm 3-4 hoa nơi nách lá, hoa có 5 thùy, màu đỏ tía, thùy dài
gần bằng ống hoa. Quả loại quả mọng màu đò xậm hay đỏ cam, hình trứng
lớn chừng 2 cm trong chứa nhiều hạt hình quả thận. Cây cho quả vào các
tháng từ 6 đến 9.
Lycium barbarum :
Lycium barbarum còn được gọi là Ninh hạ câu kỷ hay Trung ninh câu
kỷ. Cây mọc tại những vùng có cao độ 2000 đến 3000 m, nơi đất cát, khô
hay vùng rừng sát ven suối, thường nơi vùng đất lạnh ở Hà Bắc, Nội Mông,
Sơn tây, Thanh hải, Tân cương vả được trồng rất nhiều tại Ninh hạ. Câu kỷ
trồng và sản xuất tại Cam túc được gọi riêng là Cam câu kỷ. Cây được trồng

tại một số vùng hoang dại tại phía Đông Hoa Kỳ
Lycium barbarum nhỏ hơn L.chinensis, mọc thành bụi rụng lá thường
niên, cành mảnh, cong và dài đến 3.2 m. Lá hình mũi giáo dài 2-4 cm rộng
2-5 mm. Hoa màu hồng nhạt. Quả màu hồng hay da cam lớn 1-2 cm.
Vài loài Lycium khác :
- Tại Trung Hoa còn có một số loài Lycium được dùng làm dược liệu
như Lycium turcomanium và L. potaninii được dùng tại Tân cương, Tây
giang
- Tại Việt Nam, Lycium ruthenicum gọi là Câu kỷ quả đen. Cây có thể
cao đến 2m, cành có gai dài, lá mọc tụ 4-5 cái ở một mấu, phiến lá hẹp, quả
màu đen. Lá dùng nấu canh gọi là Rau khởi. Cây ra hoa quanh năm và hiện
được trồng tại Đà lạt, Hà nội
Việc trồng và khai thác Câu kỷ trên thế giới :
Từ đầu thế kỷ 21, Câu kỷ đã được khai thác rộng rãi trên thế giới nhất
là tại Trung Hoa sau khi được quảng bá như một loại trái cây chứa nhiều
dưỡng chất và chất chống oxy-hóa. Các quảng cáo 'thổi phồng quá mức' đã
đưa câu kỷ thành món hàng 'thần diệu'
Tại Trung Hoa : Phần lớn câu kỷ khai thác trên thị trường thương mãi
được trồng trong các Vùng Tự trị Ninh Hạ và Tân cương. Tại hạt Trung ninh
(Ninh Hạ), các đồn điền trồng câu kỷ rộng trung bình từ 100-1000 acres,
riêng trong năm 2005 khoảng trên 10 triệu mẫu đã được trồng câu kỷ. Theo
số liệu của chính phủ Trung Hoa thì tổng sản lượng quả câu kỷ năm 2001
lên đến 33 triệu kg và trong năm 2004, Trung Hoa đã bán sang Hoa Kỳ
lượng câu kỷ khô trị giá khoảng 12 triệu USD. Việc nhập cảng câu kỷ từ
Trung Hoa cũng đã gây một số vấn đề liên quan đến phẩm chất của sản
phẩm: Cơ quan FDA đã tịch thu và phá hủy một số thành phẩm câu kỷ còn
nhiều chất diệt côn trùng (như fenvalerate, cypermethrin và acetamiprid),
chất diệt nấm (triadi menol, isoprothiolane) cao hơn mức cho phép.
Tại Anh quốc: Công tước Archibald Campbell, vị công tước thứ 3 của
Argyll (1682-1761) đã đưa câu kỷ về trồng tại Anh vào năm 1730, cây do đó

được đặt tên là Duke of Argyll's Tea tree. Hiện nay cây vẫn được trồng làm
cây hàng rào, nhất là tại các vùng ven biển, quả màu đỏ là thức ăn rất được
chim chóc ưa thích. Câu kỷ đã được thuần hóa, dùng làm một loại cây cảnh
và cây thực phẩm tại Anh từ trên 300 năm. Cơ quan FSA=UK Food
Standard Agency, từ 2007, xếp câu kỷ vào loại trái cây ăn được và được
phép bán tại các chợ
- Thành phần hóa học :
Quả chứa :
- Các carotenoids (0.03-0.5% trong quả khô) gồm phần chính là
zeaxanthin dưới dạng zeaxanthin dipalmitate ( hàm lượng thay đổi từ 2.4
đến 82.4 mg/ 100 gram quả khô); lycopene là phần sắc tố tạo màu đỏ cho
lycium; beta carotene. (7mg/100g quả khô)
- Các polysaccharides có phân tử lượng cao, các glycerogacto lipids
Hợp chất có dạng như amino-acid : Betaine (Betaine là một dạng
choline bị oxy-hóa, dạng này sẽ chuyển trở lại thành choline nơi gan).
Hợp chất loại sterol như betasitosterol, daucosterol
- Flavonoids (0.15%) gồm cả rutin, chlorogenic acid.
Tinh dầu bốc hơi gồm 2 chất chính là các sesquiterpene cype rone và
solavetivone. Methyl linoleate chiếm khoảng 18%
Vỏ rễ chứa : Các amides loại glycopyranoside và phenolic, một
alkaloid được đặt tên là kukoamin và một dipeptid đặt là lyciumamid.
Hạt chứa nhiều hợp chất loại sterol như dimethylsterol, cyclo artanol,
các chất dẫn xuất từ lanosterol
Lá chứa nhiều flavonoids (21mg/ g lá) trong đó phần lớn là rutin
(16.3 mg/ g lá). Ngoài ra cũng có betaine, các hợp chất lycinum-withanolid
A và B, tinh dầu trong đó có hydroxy-de hydro-beta-ionol.
Thành phần dinh dưỡng của Quả :
100 gram quả Câu kỷ khô chứa (quả tươi chỉ được bán ngay tại các
nơi địa phương trồng và thu hoạch tại chỗ)
- Calories 370

- Chất đạm 12 g
- Chất béo 3-4 g
- Carbohydrates 68 g
- Calcium 112 mg
- Potassium 1132 mg
- Sắt 9 mg
- Kẽm 2 mg
- Selenium 50 microgram
- Thiamine 0.08 mg
- Riboflavine (B2) 0.13 mg
- Vitamin C thay đổi nhiều tùy cách chế biến từ 29-148 mg
Theo A.Y Leung, quả chứa 8-10 % acid amin trong đó khoảng 50% ở
dạng tự do gồm aspastic acid 1.2%, prolin 0.65%, glutamic acid 0.63 %,
alanin 0.37%, arginin 0.19%, serin 0.14% và 9 acid amin khác
Câu kỷ trong Dược học Trung Hoa :
Dược học cổ truyền :
Dược học cổ truyền Trung Hoa dùng quả và vỏ rễ Câu kỷ để làm dược
liệu. Vị thuốc Địa cốt bì đã được ghi chép trong Thần nông Bản thảo kinh,
và được xem là một vị thuốc thượng đẳng; còn vị Câu kỷ tử thì được Đào
Hoằng Cảnh ghi trong Danh Y Biệt lục ( năm 500 Tây lịch) và sau đó được
Lý thời Trân ghi và bàn luận nhiều hơn trong Bản thảo Cương mục.
Đa số các sách thuốc cổ của dược học cổ truyền Trung Hoa như Cảnh
nhạc Toàn thư (Trương giới Tân), Thang dịch bản thảo (Vương Hiếu cổ),
Bản thảo cầu chân (Hoàng chung Tú) đều lập lại các đặc tính của Câu kỷ
dựa theo Đào Hoằng Cảnh.
Quả câu kỷ hay Câu kỷ tử được xem là có vị ngọt, tính bình, tác động
vào các kinh mạch thuộc Can và Thận với các tác dụng 'minh mục', 'dưỡng
can', 'bổ thận', ích tinh, nhuận phế
Vỏ rễ hay Địa cốt bì có vị ngọt, tính hàn tác động vào các kinh mạch
thuộc Phế, Can và Thận với các tác dụng 'lương huyết, thanh phế và giáng

hỏa'
Các sách như Kinh nghiệm phương, Thánh huệ phương, Nhiếp sinh
phương đều ghi chép nhiều thang thuốc có vị câu kỷ tử Theo Đào Hoằng
Cảnh thì Câu kỷ tử là một vị thuốc : 'Ly gia thiên lý nhân vật phục' với ý
nghĩa là khi đi xa nhà hằng nghìn dặm thì không nên dùng vì Câu kỷ tử có
tác dụng bổ thận rất mạnh.
Lý sỉ Tài thì cho rằng : 'Câu kỷ tử là một vị thuốc cốt yếu của thận
kinh vì nó bổ thận ích tinh'. Hoàng nguyên Ngự bàn luận kỹ hơn trong tập
Ngọc Thụ dược (đời Thanh) : 'Câu kỷ vị đắng mà hơi ngọt, tính hàn, có thể
tác động vào kinh túc thiếu âm Thận và kinh túc thiếu âm Can' 'có tính cách
bổ Âm, tráng Thủy tư nhuận cho Thận và Can '
Cũng trong Đông Y 'cổ' Câu kỷ tử thường được dùng phối hợp với
những vị thuốc khác như Sinh địa, Thục địa, Ngũ vị tử, Sơn dược trong các
thang thuốc bổ, vả phối hợp với Cúc hoa khi muốn trị bệnh về mắt, làm sáng
mắt
Dược học Trung Hoa 'mới' :
Quả được sử dụng trong các thang thuốc trị chóng mặt và choáng
váng, ù tai, mắt kém, ho, đau lưng, yếu thận, bất lực, nhức đầu, thoát tinh và
tiểu đường
Vỏ rễ dùng trong các thang trị sốt nhẹ kéo dài do ho lao, trị ho và
suyển do phổi bị 'nóng', tiểu đường, ói ra máu, chảy máu cam, tiểu ra máu,
huyết áp cao
Quả của cả hai loài Lycìum chinensis và L. barbarum đều được gọi
chung là Câu kỷ tử = guo-qi-zi đã được dùng từ lâu để làm thuốc bổ toàn
diện, được cho là có khả năng nuôi dưỡng 'tinh khí'.và giúp sáng mắt.
Theo Trung Quốc Dược học Đại từ điển :
Câu kỷ tại Cam châu có màu đỏ, thịt dẻo, it hột là loại tốt nhất
Dùng hạt Câu kỷ cam châu nấu chín, giã nát trộn với men gạo hay lấy
hạt trộn với Sinh địa hoàng chế thành rượu hay Câu kỷ tửu. Dùng hạt trộn
gạo nấu cháo hay Câu kỷ từ chúc có tác dụng bổ tinh huyết, ích thận khí, trị

thiếu huyết, thận suy.
Mầm cây hay Câu kỷ miêu có vị đắng tính hàn có tác dụng giải trừ ưu
phiền, ích chí, khu phong, minh mục, tiêu nhiệt độc, tán sang thủy Lá và
đọt non của lá hay Câu kỷ hành diệp có vị đắng, tính hàn có thể nấu với thịt
dê, ăn bổ có tác dụng trừ phong, sáng mắt. Có thể uống thay trà với công
dụng chỉ khát, giải trừ nóng nẩy, bổ sinh dục
Một công thức thuốc bổ toàn diện giúp cải thiện màu da và tăng
cường sinh lực được pha chế bằng cách ngâm 60 gram quả khô trong 1 lít
rượu vodka trong 1 tuần, luợc và uống mỗi ngày một chung nhỏ. Quả bị bầm
dập có thể ngâm nước ấm và dùng nước này để rửa mắt khi mắt bị đỏ, ngứa
do 'nóng'. Trong mùa hè, người đau yếu nên dùng trà dược pha chế bằng câu
kỷ tử và ngũ vị tử ngâm nước ấm trong 3 ngày
Trong Chế dược thư Trung Hoa 1985, chỉ có quả của L. barbarum
được ghi là vị thuốc chính thức. Một số các nghiên cứu khoa học và lâm
sàng tại Trung Hoa đã được thực hiện để chứng minh hoạt tính trị liệu của
quả câu tử. Các nghiên cứu này được công bố trên các tạp chí như Sổ tay
lâm sàng Trung dược; Trung Dược học : Trung Quốc Trung dược Tạp chí =
Zhongguo Zhong Yao Za Zhi (Xin đọc phần nghiên cứu khoa học)
Trong Tân Trung Tạp chí Số 2-1987, bài Kỷ từ trị vô sinh nam giới,
các tác giả ghi lại :Thử nghiệm dùng Câu kỷ tử để tri vô sinh nơi nam giới
do rối loạn về tinh trùng. 42 bệnh nhân được điều trị bằng cho nhai mỗi tối
15 gram câu kỷ tử, liên tục trong 1 tháng, sau khi tinh dịch trở lại bình
thường, dùng thêm 1 tháng nữa, trong thời gian điều trị cần kiêng phòng
dục. Kết quả là 23 trường hợp hồi phục tinh trùng trở về các trị số bình
thường sau 1 tháng, 10 trường hợp sau 2 tháng, 6 trường hợp không kết quả
vì không có tinh trùng Theo dõi sau đó 2 năm ghi nhận 3 trường hợp sinh
con
Vỏ rễ của cả 2 loài Lycium đều được ghi là những vị thuốc chính thức
trong Chế dược thư dưới tên Địa cốt bì= di-gu-pi . Địa cốt bì được dùng
phần chính là để làm giảm nóng sốt, hạ huyết áp và để cầm máu. Nước sắc

từ vỏ rễ và lá đã được dùng làm phương thuốc dân gian để trị sốt rét , uống
trước khi lên cơn sốt từ 2-3 giờ. Môt cách để trị ói ra màu và tiểu ra máu là
uống nước sắc từ vỏ rễ và quả và nước sắc cũng dùng để xúc miệng khi bị
đau răng.
Các nghiên cứu khoa học về Câu kỷ :
Đa số các nghiên cứu về Câu kỷ được thực hiện tại Trung Hoa.
Các nghiên cứu về Polysaccharides của Câu kỷ :
Polysaccharides trong quả Câu kỷ là những chuỗi dài các phân tử
'đường' có trọng lượng phân tử khá cao (mỗi chuỗi gồm đến hàng trăm phân
tử). Quả câu kỷ khô chứa từ 5-8 % polysaccharides. Các nghiên cứu sâu
rộng hơn ghi nhận các polysaccharides chia thành 4 nhóm, mỗi nhóm có cấu
trúc và phân tử lượng hơi khác nhau và tuy được gọi chung là
polysaccharides, nhưng chất thật sự có hoạt tính điều hoà hệ Miễn nhiễm là
một hợp chất loại polysaccharides-peptide và dây amino-acid giữ vai trò rất
quan trọng trong việc tạo cấu trúc của polysaccharide. Ngoài ra cũng rất khó
để xác định các tác dụng lâm sàng của các polysaccharides vì việc hấp thu
các polysaccha rides sau khi uống vào cơ thể rất giới hạn, ước lượng chỉ
khoảng dưới 10% được hấp thu và có thể chỉ 1 %. Đa số các nghiên cứu
khoa học về polysaccharides được thực hiện trên các tế bào đã cô lập hay
chich các thành phần đã được tinh khiết hóa vào thú vật thử nghiệm., đưa
đến những kết quả có thể có hay không xẩy ra khi dùng thành phẩm bằng
cách uống !
Trong một thử nghiệm, các bệnh nhân ung thư đã được điều trị bằng
một hỗn hợp IL-2 và các tế bào sát thủ lymphokines có thêm các
polysaccharides của Câu kỷ (được quảng bá là có thể kích khởi cơ thể sinh
ra thêm các chất trên), bệnh nhân được cho uống liều 1.7 mg/kg
polysaccharides, tương ứng chừng 100 mg cho một người nặng 60 kg, và kết
quả là tác dụng không khác gì hơn là không dùng polysaccharides (China
Journal of Oncology Số 16-1994).
Các polysaccharides trích từ Câu kỷ, cũng giống như các chất trích từ

Nấm và một số cây cỏ khác như Astragalus có thể có một số hoạt tính hữu
ích như kích thích sự hoạt động của hệ miễn nhiễm, giúp giảm bớt kác khó
chịu nơi bao tử, và bảo vệ cơ thễ chống lại các hư hại thần kinh (hoạt tính
này đang được nghiên cứu khá nhiều tại ĐH HongKong dựa trên các thử
nghiệm nơi các thế bào thần kinh đả được cô lập, nhẳm mục đích chữa trị
bệnh Alzheimer's) (International Journal of Molecular Medicine Số 20-
2007)
Theo Zhou Jinhuang trong Recent Advances in Chinese Herbal Drugs
thì polysaccharides trích từ Câu kỷ có khả năng cải thiện các đáp ứng miển
nhiễm của cơ thể : một nghiên cứu nơi thú vật trong phòng thí nghiệm, dùng
liều 5-10 mg/ kg polyssaccharides từ quả câu kỷ, mỗi ngày liên tục trong1
tuần đã làm tăng các hoạt động của những tế bào loại T-cells, T-cells độc
bào (cytotoxic) và các tế bào sát thủ tự nhiên; các nghiên cứu khác ghi nhận
cơ chế hoạt động này phần lơn là qua sự kich khởi IL-2. Cac hoạt tinh khác ,
cũng trong phòng thí nghiệm, ghi nhận câu kỷ có một số đáp ứng IgE như
gây giảm số lượng các kháng thể liên hệ đến các phản ứng loại dị ứng, có lẽ
qua các cơ chế tạo tế bào T-cells loại CD8 và điều hợp các cytokines .
Thử nghiệm trên chuột 'già' ghi nhận polysaccharides từ quả câu kỷ có
khả năng chống lại các tác hại của một số tiến trình oxy hóa như peroxy hóa
các lipid nội sinh (định giá bằng superoxide dismutase=SOD, catalase
(CAT), gluthione peroxidase (GSH-Px) Hoạt tính chống oxyhóa của
polysaccharides trong Câu kỷ có thể so sánh với hoạt tính của Vitamine C,
và khi thêm Vitamin C vào các thử nghiệm điều trị bằng polysaccharides
trích từ câu kỷ, kết quả kháng oxy-hóa 'in vitro' gia tăng rõ rệt (PubMed
17224253)
Hoạt tính của Betaine trong Câu kỷ :
Betaine là một chất tương tự như acid amin, liên hệ vơi dưỡng chất
choline. Khi thêm betaine vào thực phẩm nuôi gà, betaine giúp gia tăng sự
tăng trưởng của gà và tăng việc sản xuất trứng, và betaine hiện đang được sử
dụng trong công nghiệp nuôi gà. Trong những năm gần đây, betaine được

thêm vào thành phần của một số 'thực phẩm chức năng' để giúp tăng 'khối
lượng' bắp thịt. Số lượng dùng mỗi ngày có thể lên đến cả gram. Betaine đã
được ghi nhận là có thể bảo vệ gan chống lại tác động gây hại của các hóa
chất độc (khi thử nghiệm trên thú vật), các nghiên cứu dược lý học khác
cũng cho thấy betaine có hoạt tính chống co giật, làm dịu đau và giãn mạch.
Betaine đã được dùng để trợ giúp trị liệu các trường hợp bệnh gan kinh niên,
như gan nhiễm mỡ không do rượu. Hàm lượng betaine trong quả câu tử
khoảng 1 %, do đó muốn có lượng betaine cần thiết để giúp điều trị cần phải
dùng đến lượng câu kỷ khá cao : 20-30 gram (Zhou Jinhuang : Chinese
Materia Medica : Chemistry, Pharmacology and Applications)
Hoạt tính của các carotenoids trong Câu kỷ :
Quả câu kỷ khô chứa khoảng 0.03 đến 0.5 % carotenoids trong đó
phần lớn là zeaxanthin, dưới dạng zeaxanthin dipalmitate (còn gọi là
physalien hay physalin). Zeaxanthin chiếm từ 1/3 đến 1/2 tổng số lượng
carotenoids có trong câu kỷ. Zeaxanthin là một sắc tố màu vàng (một chất
đồng phân với lutein và là chất chuyển hóa của beta-caroten). Khi được đưa
vào cơ thể, zeaxanthin tập trung tại các mô mỡ, nhất là nơi điểm vàng
(macula) tại võng mạc của mắt và theo quan niệm y học thì nếu cơ thể được
cung cấp đầy đủ zeaxanthin thì có thể ngừa được sự thoái hóa của các tế bào
nơi macula. Zeaxanthin thường được phối hợp với Lutein (một carotenoid
khác, có nhiều trong hoa Cúc) để giúp 'bổ dưỡng' mắt, ngừa suy thoái thị
giác nơi người cao niên. Liều hữu dụng của 2 sắc tố khi dùng chung là
khoảng 10 mg.
Sắc tố tạo màu đỏ trong quả Câu kỷ chưa được nghiên cứu rỏ ràng, và
được cho là phát xuất từ Lycopene (sắc tố tạo màu đỏ cho cà chua và ớt).
Sắc tố này được tạm gọi là renieratene. (Plant Foods for Human Nutrition
Số 60-2006)
(Tác dụng dược lý của Câu kỷ được trình bày khá chi tiết trong Cây
thuốc và Động vật lảm Thuốc ở Việt Nam (Viện Dược liệu VN) Tập 1, các
trang 364-365)

Các thử nghiệm điều trị về Vỏ rễ Câu kỷ :
Vỏ rễ Câu kỷ được dùng trong dân gian tại Trung Hoa để trị đau răng.
Một thử nghiệm dùng nước chiết từ 30 gram vỏ rễ trong 500 ml nước, sắc
đến khi còn lại 50 ml, lọc và đắp trực tiếp nước lọc vào nơi nướu răng bị
sưng, thử nghiệm trên 11 bệnh nhân, tất cả đều bớt đau, tác dụng giảm đau
xuất hiện sau khi đắp khoảng 1 phút.
Vỏ rễ hiện cũng đang được thử nghiệm về các hoạt tính hạ huyết áp,
hạ sốt, kháng sinh và hạ đường trong máu :
Nước chiết của vỏ rễ có thể làm hạ huyết áp do ở tác động làm giãn
mạch máu ngoại biên. Trong một thử nghiệm trên 36 bệnh nhân dùng nước
sắc từ 60 gram vỏ rễ tươi hay 30 gram vỏ rễ khô, uống mỗi ngày 2 lần trong
30 ngày đưa đến kết quả là 20 người có tác dụng rõ rệt, 5 người khả quan
hơn và 11 người không đáp ứng, tuy nhiên tất cả đều cảm thấy khỏe khoắn
hơn. Nước sắc vỏ rễ có hoạt tính ức chế cá vi khuẩn gây bệnh đường ruột
như B. typhi, B. paratyphi, Shigella shigae, và ức chế được siêu vi gây cúm.
Khi thử trên thỏ, nước sắc vỏ rễ cho uống với liều 8g/kg có hoạt tính
làm hạ đường trong máu khoảng 14 %, hoạt tính xuất hiện sau khi dùng
thuốc khoảng 4-5 giờ.
Thử nghiệm trên thỏ, nước trích cô đặc khi cho uống làm giảm
cholesterol rõ rệt, nhưng không tác động trên triglycerides.
Các phương thức sử dụng khác :
Lá câu kỷ cũng được dùng trong dược học cổ truyền Trung Hoa, nhât
là các đọt non, ăn thay rau và có thể phơi khô dùng như nước trà để tăng
cường sinh lực. Tại Ấn độ, là tươi của L.barbarum được cho là độc khi dùng
nuôi trâu bò, lạc đà. Tại Hoa Kỳ đã có những trường hợp bị lở đường tiêu
hóa nơi trừu, bò ăn lá L. barbarum.
Quả được dùng chưng cất rượu Câu kỷ tửu = Gouji jìu, có thể pha trộn
thêm rượu nho. Một công ty Trung Hoa đã đưa ra thị trường loại bia câu kỷ
và Công ty New Belgium Brewery đã thêm Câu kỷ vào bia Springboard ale
để tạo thêm hương vị. Ngoài ra, củng tại Trung Hoa còn có một loại càphê

tan liền có chứa trích tinh câu kỷ.
Khi dùng trong ẩm thực, quả câu kỷ khô thường được nấu chín. Quả
khô được thêm vào cháo, canh. Canh bổ thường nấu từ thịt gà, heo gồm
thêm các vị như hoài sơn, đương quy, đảng sâm, câu kỷ và rễ cam thảo
Những vấn đề cần chú ý về các sản phẩm từ Câu kỷ :
Hiện nay trên thị trường' Thực phẩm chức năng' có một số sản phẩm
chế biến từ Câu kỷ được bán trên thị trường với những quảng cáo về các tàc
dụng không được chứng minh bằng các nghiên cứu jhoa học thực sự có giá
trị.
Quả Câu kỷ khô được bán dưới tên Tibetan goji berry (để người tiêu
dùng tin là quả đến từ Tây tạng ?) và thành phẩm được quảng cáo mạnh nhất
là Himalayan Goji juice : đây là một 'sáng chế' của Earl Mindell, tác giả của
tập sách bán rất chạy 'Vitamin Bible'. Ông biết đến Câu kỷ vào năm 1995
qua lời giới thiệu của một thầy thuốc Bắc, và đã đưa món nước uống này ra
thị trưòng vào 2003. Thật ra đây là một món 'nước uống' gồm nước cốt của 4
loại trái cây : câu kỷ, nho, táo và lê, có thêm bột nhão của lê. Nhờ nghệ thuật
quảng cáo, thành phẩm bán rất chạy và sau đó có nhiều nhà sản xuất đã bắt
chước theo và nhiều sản phẩm khác cùng loại đã được đưa ra bán khắp nơi
Việc đánh giá thành phẩm cũng là vấn đề 'khó khăn' nhưng dựa trên nhãn
của Nhà sản xuất thì '1 lít Himalayan Goji juice chứa lượng polysaccharides
tương đương với 1 kg quả câu kỷ tươi', trung bình 6 kg quả tươi sẽ cho 1kg
quả khô, thì ăn câu kỷ khô sẽ rẻ hơn nhiều và tự pha chế sẽ còn rẻ hơn nữa
Đa số các quảng cáo dựa trên thành phần của Vitamin C trong quả
Câu kỷ tươi, nhưng trên thực tế các phân chất khoa học cho thây lượng
Vitamin C trong quả Câu kỷ khô biến đổi trong khoảng từ 29 đến 148 mg
trong 100 gram quả, số lượng này không cao hơn là trong cam, chanh, dâu
tây
Vào tháng 2 năm 2007, Cơ quan FSA (Food Standard Agency) của
Anh đã đưa ra quyết định yêu cầu các nhà buôn bán câu kỷ và các cửa hàng
bán thực phẩm chức năng liên hệ đến sức khỏe cung cấp các thông tin về

việc sử dụng Câu kỷ tại Âu châu từ trước 1997.
Tại Hoa Kỳ, trong một cuộc phỏng vấn của Đài Truyền hình CBC,
ông Earl Mindell cho biết là các thử nghiệm tại Trung Tâm Điều trị Ung
Thư Memorial Sloan-Kettering (NewYork) thì nước ép từ Câu kỷ có thể
ngăn ngừa đến 75 % các trường hợp ung thư vú, nhưng trên thực tế không hề
có thử nghiệm nào tại Trung Tâm về Câu kỷ?, đồng thời theo National
Cancer Institute thì chưa có một thuốc hay chất thiên nhiên nào ngừa được
ung thư vú mà chỉ làm giảm nguy cơ mắc bệnh và cũng chưa có thử nghiệm
nào về hoạt tính của nước cốt Câu kỷ trên vấn đế ung thư vú được thực hiện
tại Hoa Kỳ
Trong năm 2006, Cơ quan FDA đã cảnh cáo 2 Công ty sản xuất nước
cốt Câu kỷ tại Hoa Kỳ về việc vi phạm luật quảng cáo đồng thời cho biết,
việc dùng nước cốt Câu kỷ để ngừa và trị bệnh là hoàn toàn vô căn cứ, và
không an toàn
Các nghiên cứu về độc chất học cho biêt, cũng những trái cây nếu ăn
bình thường, Câu kỷ không có những độc hại. Liều dùng khi chích 2.4 g /kg
nước trích từ quả câu kỷ không gây phản ứng nguy hại. Liều LD50 khi chích
là 8.3g/ kg (đây là một liều rất cao)
Một số phương thức sử dụng và liều lượng :
Quả Câu tử thường được đưa vào nhiều thang thuốc Bắc hay đặc chế
Trung dược, vơí liều lượng từ 6 đến 18 gram trong 100 gram thành phẩm.
Theo tỷ lệ này thì hoạt tính của các thang thuốc sẽ không do các
polysaccharides hay carotenoids từ Câu kỷ nhưng là do các hoạt tính bổ
xung lẫn nhau của các vị thuốc khi dùng phối hợp. Có một số trường hợp
Câu kỷ được dùng đơn độc như khi dùng trị 'teo bao tử=atrophic gastritis'
liều dùng là ngày 2 lần mỗi lần 10 gram quả; trị tiểu đường dùng ngày 2-3
lần mỗi lần 10 gram. Khi dùng để giúp tăng sinh lực cho người cao niên, cây
kỷ được nấu chung với thịt heo nạc, măng thêm gia vị và liều mỗi ngày từ
15-30 gram. Khi dùng làm thuốc bổ mắt liều 15 gram mỗi ngày có thể cung
cấp đủ zeaxanthin cần thiết (khoảng 3mg/ngày), do đó có thể uống nước sắc

từ 20 gram quả/ ngày.
Trên thị trường 'Đặc chế dinh dưỡng, Thực phẩm bổ túc' tại Hoa Kỳ
có một số thành phẩm dùng Câu kỷ như :
Lycuvin dạng viên nén, giúp mắt sáng, cải thiện thị giác: Công thức
gồm các trích tinh từ quả Câu kỷ, hạt Thỏ ty tử, quả Bilberry, Hoa cúc Kim
tiền
Tremella 14 dạng viên nén, bổ Âm. Công thưc gồm quả câu kỷ, nấm
tremella, và hoàng kỳ là những nguồn cung cấp polysaccharides
Trong Danh mục Đặc chế của Trung Hoa có ghi:
Cáp giới bổ thận hoàn (Ge jie Bu shen Wan), thuốc bổ gồm 10 vị
thuốc trong đó Câu kỷ từ chiếm 10 %)
Toàn lộc hoàn (Quan Lu wan), thuốc bổ gồm đến 36 vị thuốc và Câu
kỷ chỉ chiếm 2%
Tài liệu sử dụng :
Herbal Emissaries (Steven Foster & Yue ChongXi)
Wolfberry (từ Wikipedia)
Lycium Fruit, Food and Medicine (Subhuti Dharmananda)
Cây thuốc và Động vật làm thuốc ở Việt Nam, tập 1 (Viện Dược liệu)
Chinese Herbal Medicine Materia Medica (Dan Bensky)
Trang web : Thầy thuốc của Bạn: Vị thuốc: Câu kỷ
Chinese Herbal Patent Medicines in Pill form (M. Naeser)
Tiến sĩ Dược khoa Trần Việt Hưng

×