Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

tiếp biến nghệ thuật trong quốc âm thi tập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.14 KB, 19 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn học Trung đại Việt Nam là một bước chuyển mình mạnh mẽ trong toàn bộ tiến
trình phát triển của nền văn học nước nhà. Tiếp theo những thành tựu xuất sắc của nền văn
học dân gian, bước sang văn học Trung đại, nền văn học viết chính thức ra đời đánh dấu sự
trưởng thành về mặt ý thức của dân tộc. Nhìn lại lịch sử thời kì trung đại, chúng ta thật tự
hào về thế hệ cha anh với những chiến công rực rỡ gắn liền với tên tuổi của những anh
hùng cứu quốc. Trong số đó thì Lí Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi,
Quang Trung vv là những người xuất sắc hơn cả. Gắn liền với tên tuổi của họ không chỉ
có những chiến công mà còn có cả những tác phẩm văn học làm rạng danh đất nước đến
muôn đời. Đối với Lí Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi… chúng ta chỉ biết sự nghiệp
của họ qua những thông tin, sự kiện chính được sử sách ghi chép lại. Duy chỉ có Nguyễn
Trãi – một vị anh hùng cứu quốc, không những để lại tên tuổi trong sử sách mà còn để lại
cả một sự nghiệp văn chương đồ sộ. Văn chương của Nguyễn Trãi thật đặc biệt. Đó là “thứ
văn chương có đủ sức để sửa sang việc đời” như Ngô Thế Vinh đã nói. Cuộc đời cầm bút
của ông phần lớn dành cho mục đích chính trị. Điều này được thể hiện qua các tác phẩm
bằng chữ Hán nhưng lại chứa chan tình cảm của người Việt Nam với đầy đủ phẩm chất
đáng quý. Nguyễn Trãi chỉ có duy nhất tập “Quốc âm thi tập” viết bằng chữ Nôm.
Có thể nói, với tập thơ này, Nguyễn Trãi đã chính thức khơi nguồn dòng
thơ Quốc Âm, mở ra một dòng hướng đi mới trong nền thi ca dân tộc. Hơn thế nữa, Quốc
âm thi tập còn có ý nghĩa là một sự phá cách, cách tân, khắc phục tính quy phạm, mở rộng
đề tài sáng tác thi ca. Bằng ngôn ngữ dân tộc, ông đã khắc họa một cách tinh tế hình ảnh
của thế giới tự nhiên và nội tâm con người.
Đóng góp to lớn của Quốc âm thi tập đó chính là mảng nghệ thuật, và để tìm hiểu
sâu hơn vấn đề này, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Tiếp biến nghệ thuật qua Quốc âm thi
tập của Nguyễn Trãi” làm bài nghiên cứu của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tìm hiểu hình thức nghệ thuật của một tác phẩm là một vấn đề khá mới mẻ. Nó mới
được chú ý trong mấy chục năm trở lại đây. Quốc âm thi tập ra đời từ rất sớm song phần
lớn các công trình nghiên cứu đều tập trung vào các khía cạnh nội dung của tập thơ chứ
chưa đi sâu nghiên cứu về mặt nghệ thuật, điển hình chỉ cố một số công trình, cụ thể như:


▪ Đặng Thai Mai trong bài “Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Trãi” nhận xét:
ngữ nghĩa của những từ đã được dùng trong thơ Nôm Nguyễn Trãi. Đây là một cống hiến
có ý nghĩa đối với ngữ văn học. Lối viết thơ Nôm của Nguyễn Trãi: Nhiều câu thơ lục
ngôn đã được sử dụng ở những vị trí khác nhau trong các bài bát cú của Quốc âm thi tập.
Kỹ thuật viết thơ của ông rõ ràng có một cố gắng để xây dựng một số thơ Việt Nam, trong
đó thơ sáu tiếng dùng xen lẫn với những câu bảy tiếng, khác hẳn với quy cách niêm luật
thơ Đường .
 Nguyễn Đăng Na (2005) trong cuốn Văn học trung đại Việt Nam, tập1, NXB GD
đã có những phân tích chi tiết, sâu sắc về thơ văn của Nguyễn Trãi, đặc biệt là trong thơ
chữ Nôm: Quốc âm thi tập giữ một vị trí quan trọng trong lịch sử văn học dân tộc Việt
Nam. Tập thơ Nôm của Nguyễn Trãi là tác phẩm đầu tiên viết bằng ngôn ngữ dân tộc hiện
còn. Đây đồng thời cũng là tập đại thành của thơ ca tiếng Việt. Với Quốc âm thi tập,
Nguyễn Trãi là nhà “khai sơn phá thạch”, người đặt nền móng xây dựng một thể thơ mới
cho văn học dân tộc trên cơ sở tiếp thu có sáng tạo thể thơ Đường luật Trung Quốc”, Quốc
âm thi tập đã khẳng định vai trò và khả năng to lớn của ngôn ngữ tiếng Việt trong chức
năng thẩm mĩ, trong việc phản ánh đời sống xã hội và tâm trạng con người” [2.tr.132].
 Bài viết “Mấy suy nghĩ về thơ sáu lời (lục ngôn) xen bảy lời trong Quốc âm thi
tập” [tr.76-78] của Ngô Văn Phú in trong “Nguyễn Trãi về tác gia, tác phẩm”, nhà xuất
bản giáo dục. Ở bài viết này, tác giả đã đề cập đến hai vấn đề lớn: ngôn ngữ thơ và từ
vựng; sự hình thành thể thơ sáu lời. Tác giả đặt vấn đề từ việc tìm hiểu nguồn gốc của thể
thơ sáu lời ở kinh thi và sở từ, từ đó tác giả khẳng định thể thất ngôn xen lục ngôn là một
thể loại mới mà Nguyễn Trãi đã có công đóng góp cho thể loại thơ này hình thành và tồn
tại.
▪ Trong Tạp chí văn học số 4 -1980, sau được in trong “Nguyễn Trãi về tác gia và
tác phẩm”. Ông Phạm Luận có bài viết “Nguyễn Trãi và thể thơ Việt Nam
trong Quốc âm thi tập” [tr.839-850]. Phạm Luận đã bàn nhiều về các vấn đề trong thơ
Nôm của Nguyễn Trãi, hiện tượng dùng câu sáu tiếng xen lẫn câu bảy tiếng trong các bài
thơ. Đặc biệt, tác giả đã có công tập hợp số lượng câu sáu và vị trí của từng câu sáu trong
mỗi bài thơ Nôm của Nguyễn Trãi. Cũng trong “Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm”, ông
tiếp tục giới thiệu bài viết “Thể loại thơ trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi

và thi pháp Việt Nam”. Trong đó, ông đã đề cập đến vấn đề tên gọi của thể loại này bằng
cách dẫn ra các ý kiến khác nhau. Bên cạnh đó, ông cũng đưa ra ý kiến của mình về hiện
tượng ngắt nhịp trong Quốc âm thi tập và giải quyết được câu hỏi “Phải chăng hiện tượng
ngắt nhịp (cả câu 7 với nhịp ¾ và câu 6 với nhịp 2/2/2, 2/4 ) tức nhịp cuối là nhịp chẵn
chủ yếu là do tác động của thơ ca dân gian Việt Nam?”.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu là tiếp biến nghệ thuật trong thơ Nôm Nguyễn Trãi
 Phạm vi nghiên cứu là tập thơ Nôm Quốc âm thi tập (Nguyễn Trãi toàn tập,
NXB Khoa học xã hội, 1978).
4. Phương pháp nghiên cứu
 Phương pháp phân tích, tổng hợp
 Phương pháp so sánh
 Phương pháp hệ thống
5. Cấu trúc bài nghiên cứu
Bài nghiên cứu ngoài phần mở đầu, phần kết luận thì nội dung gồm có 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung
Chương 2: Tiếp biến nghệ thuật trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung
1.1. Tiếp biến và tiếp biến biến nghệ thuật
Tiếp biến nghệ thuật là một khái niệm còn khá trừu tượng và có nhiều cách hiểu
khác nhau. Là một khái niệm mới mẻ nhưng hiện nay nó lại Cho đến nay, chưa có nhà
nghiên cứu nào đưa ra khái niệm hoàn chỉnh về tiếp biến nghệ thuật. Trong phạm vi tìm
hiểu và những hiể biết của bản thân, chúng tôi đưa ra cách hiểu về tiếp biến nghệ thuật như
sau:
Tiếp biến (tiếp: nối tiếp; biến: biến đổi) là quá trình tiếp thu những tinh hoa bên
ngoài để cải biến, thay đổi chúng cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tại. Hay đó là
sự tiếp thu những di sản mà mình không có ở bên trong và làm thay đổi chúng.
Xét trong phạm vi hoàn cảnh xã hội Việt Nam lúc bấy giờ thì quá trình tiếp biến đó
dựa trên sự tiếp thu văn hoá Trung Quốc, sau đó đến văn hoá Pháp, văn hoá văn minh
phương, văn hoá xã hội chủ nghĩa, để cải biến chúng cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh

của xã hội Việt Nam, tạo ra nét đặc trưng cơ bản của riêng mình.
1.2. Nguyễn Trãi – Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác
Nguyễn Trãi (1380 – 1442), tên hiệu là Ức Trai, sinh ở Thăng Long, ông ngoại là
quan tư đồ Trần Nguyên Đán, cha là Nguyễn Ứng Long hay còn gọi là Nguyễn Phi Khanh,
mẹ Trần Thị Thái. Còn nhỏ Nguyễn Trãi ở với ông ngoại là Trần Nguyên Đán. Năm 1385,
Nguyễn Trãi theo ông ngoại về ở Côn Sơn.
Lên 5 tuổi thì mẹ Nguyễn Trãi qua đời, một thời gian sau đó ông ngoại cũng mất,
Nguyễn Trãi về ở với cha của mình tại quê nội làng Nhị Khê.
Năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, cũng là năm thi đầu tiên của nhà Hồ.
Nguyễn Trãi lúc này 20 tuổi đã đi thi và đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ).
Năm 1401 cha của Nguyễn Trãi đổi tên là Nguyễn Phi Khanh được nhà Hồ mời ra
làm quan, giữ chức Quốc tử giám tư nghiệp. Nguyễn Trãi cũng được mời làm Ngự sử đài
chính chưởng.
Năm 1407, giặc Minh xâm lược nước ta, nhà Hồ đem quân chóng cự nhưng không
thành. Cha con Hồ Quý Ly cùng một số triều thành đã bị bắt trong đó có Nguyễn Phi
Khanh. Nguyễn Trãi muốn tròn đạo hiếu với cha nên đã cùng em là Nguyễn Phi Hùng đi
theo cha. Trên đường đi Nguyễn Trãi nghe theo lời dặn của cha nên quay về lại tìm đường
cứu nước. Nhưng rồi Nguyễn Trãi bị giặc minh bắt và giam lỏng ở thành Đông Quan (Hà
Nội). Một thời gian sau, ông trốn khỏi Đông Quan tìm đường theo Lê Lợi. Cuối năm 1426,
Nguyễn Trãi đã thay mặt Lê Lợi viết những thư từ giao thiệp với tướng Minh. Những bức
thư đó có tính chiến đấu mạnh mẽ và có tác dụng lớn trong việc đánh vào tinh thần quân
địch.
Năm 1427, cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, Nguyễn Trãi thay mặt Lê
Lợi viết Bình Ngô đại cáo. Cũng trong năm này ông được phong làm Triều Liệt đại phu,
tiếp đó là Nhập nội hành khiển, Lại bộ thượng thư, Tước quan phục hầu.
Sau một thời gian làm quan, Nguyễn Trãi xin về ở ẩn tại Côn Sơn (Hải Dương).
Năm 1434, Thái Tông mời ông ra giúp nước. Năm 1442 Thái Tông mất, triều đình đổ tội
giết vua cho ông và khép vào án tru di. Đến năm 1464, Lê Thánh Tông thấu hiểu nỗi oan
của Nguyễn Trãi, phục hồi cho ông chức Tân trù bá, đồng thời cho tìm con của ông để bổ
dụng.

Sự nghiệp văn thơ của Nguyễn Trãi đã để lại cho đời những kiệt tác còn sống mãi
với thời gian. Tác phẩm của Nguyễn Trãi đã bị thất lạc nhiều sau vụ án Lệ Chi viên. Bình
Ngô đại cáo là một “thiên cổ hùng văn”, ngoài ra còn có một số tác phẩm có giá trị khác
như: Ức Trai thi tập; Quân trung từ mệnh tập; Lam Sơn thực lục; Dư địa chí; Quốc âm thi
tập; Ngọc Đường Di Cảo; Luật thư; Giao tự đại lễ; Văn bia Vĩnh Lăng; Phú núi chi Linh;

1.3. Quốc âm thi tập – Tập đại thành của thơ ca dân tộc
Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là một trong bảy tập bộ Ức Trai di tập. có 254 bài
thơ, vừa tám câu bảy chữ, bốn câu bảy chữ, có xen lẫn nhiều câu năm chữ hay sáu chữ.
Đây là tập thơ Nôm cổ nhất mà hiện nay văn học Việt Nam còn lưu giữ được. Nếu văn chữ
Hán của Nguyễn Trãi nặng về chính trị, bừng cháy tấm lòng yêu nước, thì thơ Quốc âm lại
nhẹ nhàng, êm đềm. Phần lớn bộc lộ tâm sự, tinh cảm, khí tiết của ông đối với giang sơn
đất nước, cỏ cây, cầm thú.
Tập thơ chia thành 4 phần như sau: Vô đề: 192 bài (từ bài 1 đến 192); Thời lệnh
môn: 21 bài (từ bài 193 đến 213); Hoa mộc môn: 32 bài (từ bài 214 đến 247); Cầm thú
môn: 7 bài (từ 248 đến 254). Trong mỗi môn lại có nhiều đề mục, có tất cả 53 đề mục. Một
đề mục có thể chỉ gồm một bài thơ, nhưng có đề mục lại gồm một chùm thơ.
Quốc âm thi tập là nơi hội tụ mọi tài năng và tinh hoa của Nguyễn Trãi. Xuân Diệu
gọi Quốc âm thi tập là: Tác phẩm mở đầu cho nền văn học cổ điển Việt Nam. Giá trị văn
chương cổ điển ấy thể hiện trong nội dung và nghệ thuật biểu hiện của thơ Nôm Nguyễn
Trãi.
Chương 2: Tiếp biến nghệ thuật trong Quốc âm thi tập của
Nguyễn Trãi
2.1. Quốc âm thi tập- sự tiếp biến về hình thức nghệ thuật
2.1.1. Cách gieo vần độc đáo
Trong thơ Nôm Nguyễn Trãi, vần được gieo ở những vị trí khác nhau, có thể ở trong
cùng một câu hoặc giữa hai câu với nhau.
Chữ cuối của nhịp đầu với chữ đầu của nhịp sau
Tục ngữ: Đất có lề,/ quê có thói.
Thơ Nguyễn Trãi: Nhật nguyệt soi,/ đòi chốn hiện.

Chữ cuối của nhịp đầu với chữ cuối của nhịp sau
Tục ngữ: Sông có khúc,/ người có lúc.
Thơ Nguyễn Trãi: Tham nhàn/ lánh đến giang san
Cách gieo vần lưng cũng là một phương pháp làm nên sự sinh động, tươi mới
và phong phú cho thơ Nôm Nguyễn Trãi. Nó biểu hiện ở những cách sau:
Vần cuối của câu trên hiệp vần với chữ thứ tư của câu dưới:
Gạch quẳng nào bày mấy ngọc
Sừng hằng những mọc qua tai
(Tự thán, bài 2)
Cách gieo vần này thường phổ biến trong ca dao dân tộc, chẳng hạn như:
Chồng em áo rách em thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc người
Vần cuối của câu trên hiệp vần chữ thứ năm của câu dưới:
La ỷ lấy đâu chăng lái xái
Hùng ngư khôn kiếm phải thèm thuồng
(Thuật hứng, bài 23)
Vận dụng cách gieo vần này, các nhà thơ Nôm về sau đã tiếp thu và sáng tạo
nên thể thơ Nôm song thất lục bát cũng có sự hiệp vần giữa vần cuối của câu trên với vần
chữ thứ năm của câu dưới.
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai
(Chinh phụ ngâm khúc – Đặng Trần Côn)
2.2.1. Cách ngắt nhịp độc đáo, mới mẻ
Thơ Nôm Nguyễn Trãi trong Quốc âm thi tập không chỉ có cách ngắt nhịp 3/4 mà
cũng biến chuyển đa dạng tùy nội dung và cảm xúc, không gò bó trong một khuôn khổ
nhất định nào. Nó có thể là 3/3, 4/2, 2/4, 1/5 trong câu thơ sáu chữ:
Say minh nguyệt/ chè ba chén
Thú thanh phong/ lều một gian (3/3)

(Thuật hứng, bài 5)
Non cao non thấp/ mây thuộc
Cây cứng cây mềm/ gió hay (4/2)
(Mạn thuật, bài 4)
Thu in/ cửa trúc mây phủ
Xuân tĩnh/ đường hoa gấm phong (2/4)
(Thuật hứng, bài 11)
Gánh/ khôn đương quyền tướng phủ
Lui/ ngõ được đất nho thìn (1/5)
(Trần tình, bài 1)
Về những câu 7 tiếng. Ta gặp trong Quốc âm thi tập những câu 7 tiếng có lối ngắt
nhịp (3/4), cách ngắt nhịp lẻ trước chẵn sau, khác lối ngắt nhịp của thể thơ Đường (Trung
Quốc) là (4/3), chẳn trước lẻ sau. Loại câu này thường sóng hàng trong cùng một bài thơ.
- Vừa sáu mươi dư tám chín thu
Lưng gầy da sỉ tướng lù khù. (Bài 15)
- Rượu đối cầm đâm thơ một thủ,
Ta cùng bóng liễn nguyệt ba người. (Bài 76)
Đứng về mặt ý nghĩa, câu thơ thường có khả năng phân tích bằng những lối ngắt
nhịp khác nhau. Nhưng cũng có trường hợp chỉ có một lối: Vừa sáu mươi dư tám chín thu.
Nguyễn Trãi có nhiều câu thơ ngắt nhịp lẻ trước chẵn sau:
- Tóc nên bạc / bởi lòng ưu ái
Tật được tiêu / ngờ thuốc đắng cay
- Rượu đối cầm / đâm thơ một thủ
Ta cùng bong / lẫn nguyệt / ba người. (Bài 76)
Do cách ngắt nhịp khác nên các tiếng thanh bằng, thanh trắc cũng không theo trật tự
của thể luật Đường.
Hoặc có thể là 2/2/3, 2/5, 5/2… trong câu thơ 7 chữ:
- Hái cúc/ ương lan/ hương bén áo
Tìm mai/ đạp nguyệt/ tuyết xăm khăn. (Thuật hứng, bài 15)
- Điền địa/ chớ tham hơn bỏ ải

Nhân luân/ mựa lấy dưới làm trên. (Báo kính cảnh giới, bài 15)
- Cơm kẻ bất nhân ăn/ ấy chớ
Áo người vô nghĩa mặc/ chẳng thà. (Trần tình, bài 3)
Về cách ngắt nhịp, Nguyễn Trãi đã có sự phá cách của những thể thơ truyền thống
của luật Đường. Đây được xem là bước tiến bộ mới trong sáng tác thơ theo khuynh hướng
dân tộc của Nguyễn Trãi.
2.2.2. Biến thể một số âm tiết trong câu tạo thành thể thơ mới
Âm tiết – yếu tố làm nên sự khác biệt cho từng loại thể thơ, nhờ đó khả năng diễn
đạt sinh động hơn, phong phú hơn. Nhận thức được điều này, Nguyễn Trãi không chỉ để
thơ ông phá vỡ niêm luật của thơ Đường mà còn có sự biến thể số âm tiết trong câu. Nói
đúng hơn, đó là những bài thơ tám câu hoặc bốn câu mà cấu trúc đối xứng ít nhiều giống
thơ luật, nhưng số âm tiết trong câu lại có sự khác biệt:
Ngũ ngôn xen thất ngôn:
Trẻ hòa sang ấy phúc
Già được trọn là tiên
Cho về cho ở đền ơn chúa
Lo phải chon chăn đến cửa quyền
(Thuật hứng, bài 8)
Lục ngôn xen thất ngôn:
Ao cạn vớt bèo cấy muống,
Đìa thanh phát cỏ ương sen
Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,
Thuyền chở yên hà nặng vạy then
(Thuật hứng - 24)
Xét về tác dụng nghệ thuật của câu thơ sáu tiếng và năm tiếng trong bài thơ lục
ngôn xen thất ngôn và ngũ ngôn xen thất ngôn ta nhận thấy, nó khiến lời thơ trở nên cô
đọng, giản dị, ý thơ mạnh mẽ, sắc sảo, thường phù hợp với việc diễn đạt những chân lý của
đời sống, những quyết tâm hành động của nhà thơ. Ngoài ra, cách ngắt nhịp phong phú của
câu thơ sáu chữ khiến nó có khả năng diễn đạt được những cung bậc tình cảm đặc biệt, tinh
tế, sâu sắc của con người.Chẳng hạn, những câu thơ sáu chữ rất thích hợp với việc miêu tả

khung cảnh đơn sơ, mộc mạc, ấm cúng với những đường nét tròn trịa, đầy đặn của những
miền quê trên đất nước Việt Nam:
Thu om, cửa trúc mây phủ
Xuân tĩnh, đường hoa gấm phong
(Thuật hứng, bài 11)
Hay những câu thơ sáu chữ cũng rất thích hợp với việc nêu lên những triết lí cuộc
sống đơn giản, tự nhiên mà vững chắc như chân lí:
Ngọc lành nào có tơ vết
Vàng thực âu chi lửa nhiều
(Tự thuật, bài 5)
Đây là hai câu thơ đúc kết từ chân lí “Lửa thử vàng, gian nan thử sức” trong tục
ngữ dân tộc.
Và nhất là câu thơ sáu chữ thường dồn nén cảm xúc lại thích hợp để nói lên cái ý cái
tình của Nguyễn Trãi và cô đọng ý tình của cả bài thơ. Kết thúc bức tranh tả cảnh mùa hè
trong bài “Bảo kính cảnh giới” (bài 43) là hai câu thơ:
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ, khắp đòi phương
(Bảo kính cảnh giới, bài 43)
Câu cuối của bài thơ là một câu sáu chữ ngắn gọn thể hiện sự dồn nén cảm xúc của
cả bài. Điểm kết tụ của hồn thơ Nguyễn Trãi cuối cùng không phải ở thiên nhiên, tạo vật
mà chính là ở con người. Nguyễn Trãi mong cho dân được ấm no hạnh phúc “dân giàu
đủ” nhưng đó phải là hạnh phúc cho tất cả mọi người, mọi nơi “khắp đòi phương”.
Nói chung, việc sắp xếp câu 5, câu 6 xen kẽ câu 7 thường không theo quy cách nào,
mà tác giả có thể tùy theo yêu cầu của nội dung để lựa chọn nhịp điệu cho thích hợp. Vì
vậy, thơ Nôm Nguyễn Trãi không đơn điệu và phù hợp với cảm xúc chân chất, hồn nhiên
mà cũng rất sâu sắc của nhà thơ.
Mặc dù chịu ảnh hưởng mạnh mẽ thể thơ Đường và cũng bị phụ thuộc bởi tính quy
phạm của nó nhưng Nguyễn Trãi đã mạnh dạn phá vỡ tính quy phạm đó để ngôn ngữ đậm
bản sắc văn hóa dân tộc có cơ hội khai mở và thăng hoa. Với Quốc âm thi tập, Nguyễn
Trãi thực sự trở thành nhà “khai sơn phá thạch”, là người đặt nền móng xây dựng một thể

thơ mới cho văn học dân tộc, trên cơ sở có tiếp thu sáng tạo thể thơ luật Đường của Trung
Quốc. Đó chính là thể thơ Nôm Đường luật. Thơ Nôm Đường luật thể hiện cái đẹp của
cuộc sống một cách uyển chuyển, theo cảm quan thẩm mĩ của dân tộc. Những tác phẩm thơ
Nôm Đường luật sau Nguyễn Trãi đều trực tiếp hoặc gián tiếp chịu ảnh hưởng, tiếp thu
thành tựu thơ Nôm của ông.
2.1.3. Hình ảnh thơ vừa hiện đại vừa mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc
Nếu trong thơ Hán, Nguyễn Trãi sử dụng những hình ảnh cổ điển như mây, gió,
trăng, hoa, tùng, cúc để biểu đạt những cảm xúc tâm tình của nhà thơ thì trong thơ Nôm,
tác giả lại biểu đạt nó bằng những hình ảnh hiện đại:
Tình thư một bức phong còn kín
Gió nơi đâu gượng mở xem
(Cây chuối)
Nguyễn Trãi mượn cây chuối để thể hiện những cảm xúc kín đáo, chân thật nhưng
không kém phần sôi nổi, rạo rực, đó là cảm hứng về tình yêu thiên nhiên tuổi trẻ.
Trong thơ Nguyễn Trãi còn sử dụng những hình ảnh bình dị, dân dã của cuộc sống
đời thường. Ông đã dùng tiếng mẹ đẻ để miêu tả phong vị quê hương đất nước, thể hiện
tính thẩm mĩ dân tộc:
Ao quan thả gửi hai bè muống
Đất bụt ương nhờ một luống mùng
(Thuật hứng)
Từ bè rau muống, luống mùng tơi, quả núc nác,…vốn rất xa lạ trong văn chương
bác học nhưng lại rất tự nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Trãi tạo nên những rung động thẩm
mĩ và tạo ra sự gần gũi, dễ tiếp nhận. Thiên nhiên bình dị trong Quốc âm thi tập thể hiện sự
thay đổi cảm hứng sáng tạo, cảm hứng thẩm mĩ của nhà thơ: cái bình dị, cái đời thường
cũng trở thành đối tượng của cái đẹp. Sự thay đổi này mang ý nghĩa cách tân theo hướng
dân chủ, tiến bộ. Nguyễn Trãi đã hòa mình với thiên nhiên, kết bạn với chim muông, cây
cỏ, mây núi, trăng hoa và cho rằng: “núi láng giềng”, “chim bầu bạn”, “nguyệt anh em”:
Rượu đối cầm đâm thơ một thú
Ta cùng bóng với nguyệt ba người
Ở đây, “ta” - “bóng” - “nguyệt” tuy ba mà một, thiên nhiên đã trở thành người bạn

tri âm tri kỉ của Nguyễn Trãi. Những hình ảnh quen thuộc đi vào thơ Nôm Nguyễn Trãi
bằng những cảm xúc chân thành nhưng cũng không kém phần tinh tế, đồng thời mang đậm
bản sắc văn hóa Việt Nam.
2.2. Quốc âm thi tập – sự vận dụng sáng tạo trong việc sử dụng từ ngữ
2.2.1. Sử dụng sáng tạo ngôn ngữ dân tộc
Điểm nổi bật nhất về mặt hình thức của “Quốc âm thi tập” là việc ông sử dụng
sáng tạo ngôn ngữ dân tộc. Nhiều quán ngữ, thành ngữ, tục ngữ, ca dao được dùng khá linh
hoạt, như: đôi ba khóm, sừng qua tai, quanh co ruột ốc, nên thợ nên thầy, no ăn nomặc…
Đó là thứ ngôn ngữ của người lao động được ông gọt giũa, cách điệu hoá và nâng lên để
diễn đạt những ý tưởng cô đúc, nhuần nhị. Thơ Nôm của dân tộc đã hình thành từ đời Trần
Quốc âm thi tập thơ Nôm và ngôn ngữ dân tộc đã có một bước tiến đáng kể.
Trong Dư địa chí Nguyễn Trãi đã từng yêu cầu: “Người trong nước không được bắt
chước phong tục và ngôn ngữ các nước Ngô, Chiêm…để làm loạn phong tục trong nước”.
Với Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi đã trở thành tấm gương tiêu biểu đầu tiên cho việc sử
dụng tiếng mẹ đẻ để sáng tác văn chương. Việc dùng tiếng mẹ đẻ để làm văn đã khó, làm
thơ còn khó hơn nhiều. Ức Trai đã cố gắng đưa vào thơ nhiều từ thuần Việt đặt bên cạnh
các từ gốc Hán trong sự hài hoà của thanh âm. Trong câu thơ sau đây từ ao đã thay thế cho
từ trì:
Ao cạn vớt bèo thả muống
Trì thanh phát cỏ ương sen. (Thuật hứng)
Ở nhiều chỗ khác Nguyễn Trãi cũng đã có sự chuyển đổi tương tự. Khi thì dùng từ
nguyệt có lúc dùng từ trăng, không dùng từ quyển môn mà dùng từ cửa quyền…
Ngôn ngữ thơ Nguyễn Trãi vừa có cái mộc mạc, chân chất, mỹ lệ.
- Tằm ươm lúc nhúc thuyền đầu bãi
Hầu chết so le, khóm cuối hàng. (Ngôn chi – bài thứ 8)
- Am rợp, chim kêu hoa xảy động
Song im hương tận, khói sơ tàn. (Ngôn chí - bài 6)
Vừa có vẻ lung linh, cổ kính:
- Rượu đối cầm, đâm thơ một thú
Ta cùng bóng lẫn nguyệt, ba người. (Tự than – bài 6)

Nguyễn Trãi cũng đã khai thác được ưu thế biểu đạt của những cặp tiếng đôi giàu
tính tượng thanh, tượng hình trong tiếng Việt cổ.
- Thu nhạn lạc lài khi gió
Tiếng quyên khắc khoải thuở trăng. (Tự than – bài thứ 90)
- Hài cỏ, đạp chân đi đủng đỉnh
Áo bô, quen cật vận xênh xang. (Tức sự - bài 4)
- Khóng khảy, kẻ cười cùng kẻ thốt,
Khó khăn, người rẻ lẫn người roi. (Tự than – bài 36)
Đóng góp nổi bật nhất của Nguyễn Trãi là ông đã xây dựng ngôn ngữ dân tộc trên
cơ sở kế thừa nâng cao ngôn ngữ của nhân dân và ngôn ngữ của văn học dân gian. Nhiều
khẩu ngữ quen thuộc xuất hiện trong thơ Nôm.
- Ruộng đôi ba khóm đất con ong
Đày tớ hay cày kẻo muộn mòng. (Thuật hứng – bài 14)
- Thân đà hết luỵ, thân nên nhẹ,
Bụt ấy lại lòng, bụt há cần? (Mạn thuật – bài thứ 8)
Những lời ăn tiếng nói hằng thường của nhân dân lao động khi bước vào văn học
dân gian đã được gọt giũa và cách điệu hoá lung linh vẻ đẹp. Ngôn ngữ văn học dân gian là
bầu sữa vô tận của thi sĩ xưa nay. Nguyễn Trãi cũng đã sử dụng rất nhuần nhị những hình
tượng, những kết cấu ngôn ngữ vốn đã cô đúc trong các thể loại văn học dân gian:
Từ câu tục ngữ: Ở gần nhà giàu đau răng ăn cám,
Ở gần kẻ trộm ốm lưng chịu đòn.
Nguyễn Trãi viết: Lận cận nhà giàu no bữa cám
Bạn bè kẻ trộm phải ăn đòn.
Sáng tác thơ văn của các tác giả văn học trung đại chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn
hoá, văn học Trung Quốc. Đó là một thực tế, một lẽ đương nhiên. Có điều trong khi tiếp
thu ông cha ta đã kế thừa một cách có chọn lọc, có sáng tạo chứ không rập khuôn, máy
móc, thậm chí có trường hợp đồng hoá trở lại. Thơ Nôm Nguyễn Trãi là tiêu biểu cho sự
đồng hoá kho văn liệu, thi liệu Hán học. Chẳng hạn, từ câu: Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu,
hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc (nghĩa là: lo trước nỗi lo của thiên hạ, vui sau niềm vui của
thiên hạ) của Phạm Văn Chính. Ông viết:

Ta ắt lòng bằng Văn Chính nữa
Vui sơ chẳng quản đeo âu. (Ngôn chí – bài thứ 18)
Từ khẩu ngữ Hán học: Hữu xạ tự nhiên hương
Hà tất đương phong lập
Nguyễn Trãi viết: Có xạ tự nhiên mùi ngát bay
Lọ là đứng gió không tay.
Như vậy, Nguyễn Trãi đã tiếp thu văn hóa nước ngoài một cách có chọn lọc nhằm
giữ vững bản lĩnh dân tộc trong thời kỳ Hán hóa. Không những thế, tiếng Việt trong thơ
Nguyễn Trãi cách sáu trăm năm rồi mà nghe vẫn mới, vẫn hiện đại: Lao xao chợ cá làng
ngư phủ (Báo kính cảnh giới, bài 43). Đọc Quốc âm thi tập nhiều khi ta không thấy sự
ngăn cách hàng rào ngôn ngữ.
Thơ Nôm Nguyễn Trãi một mốc đánh dấu sự phát triển của văn học Quốc ngữ.
Quốc âm thi tập là tuyên ngôn văn học, là một đại cáo về văn chương, nó hiện hữu một
cách đích đáng, hùng hồn. Đây là ý tưởng của Nguyễn Trãi trong việc tạo dựng một diện
mạo mới, thoát khỏi sự chi phối.
2.2.2. Khuynh hướng Việt hóa ngôn ngữ.
Ở nhiều chỗ khác Nguyễn Trãi cũng đã có sự chuyển đổi tương tự. Khi thì dùng từ
nguyệt có lúc dùng từ trăng, không dùng từ quyển môn mà dùng từ cửa quyền…
Ngôn ngữ thơ Nguyễn Trãi vừa có cái mộc mạc, chân chất, mỹ lệ.
- Tằm ươm lúc nhúc thuyền đầu bãi
Hầu chết so le, khóm cuối hàng. (Ngôn chi – bài thứ 8)
- Am rợp, chim kêu hoa xảy động
Song im hương tận, khói sơ tàn. (Ngôn chí - bài 6)
Vừa có vẻ lung linh, cổ kính:
- Rượu đối cầm, đâm thơ một thú
Ta cùng bóng lẫn nguyệt, ba người. (Tự than – bài 6)
Sáng tác thơ văn của các tác giả văn học trung đại chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn
hoá, văn học Trung Quốc. Đó là một thực tế, một lẽ đương nhiên. Có điều trong khi tiếp
thu ông cha ta đã kế thừa một cách có chọn lọc, có sáng tạo chứ không rập khuôn, máy
móc, thậm chí có trường hợp đồng hoá trở lại. Thơ Nôm Nguyễn Trãi là tiêu biểu cho sự

đồng hoá kho văn liệu, thi liệu Hán học. Chẳng hạn, từ câu: Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu,
hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc (nghĩa là: lo trước nỗi lo của thiên hạ, vui sau niềm vui của
thiên hạ) của Phạm Văn Chính. Ông viết:
Ta ắt lòng bằng Văn Chính nữa
Vui sơ chẳng quản đeo âu. (Ngôn chí – bài thứ 18)
Từ khẩu ngữ Hán học: Hữu xạ tự nhiên hương
Hà tất đương phong lập
Nguyễn Trãi viết: Có xạ tự nhiên mùi ngát bay
Lọ là đứng gió không tay.
Như vậy, Nguyễn Trãi đã tiếp thu văn hóa nước ngoài một cách có chọn lọc nhằm
giữ vững bản lĩnh dân tộc trong thời kỳ Hán hóa. Không những thế, tiếng Việt trong thơ
Nguyễn Trãi cách sáu trăm năm rồi mà nghe vẫn mới, vẫn hiện đại: Lao xao chợ cá làng
ngư phủ (Báo kính cảnh giới, bài 43). Đọc Quốc âm thi tập nhiều khi ta không thấy sự
ngăn cách hàng rào ngôn ngữ.
Thơ Nôm Nguyễn Trãi một mốc đánh dấu sự phát triển của văn học Quốc ngữ.
Quốc âm thi tập là tuyên ngôn văn học, là một đại cáo về văn chương, nó hiện hữu một
cách đích đáng, hùng hồn. Đây là ý tưởng của Nguyễn Trãi trong việc tạo dựng một diện
mạo mới, thoát khỏi sự chi phối.
Nguyễn Trãi rất cố gắng thể hiện tập trung điều đó (chống lại xu hướng Hán hóa) và
nó được hiện hữu bằng kết quả, giá trị. Nguyễn Trãi muốn tạo dựng một khuôn mẫu riêng
khi xây dựng Quốc âm thi tập.
Có thể khẳng định rằng: Quốc âm thi tập là tập thơ lớn và sớm nhất được viết bằng
ngôn ngữ dân tộc còn lại với chúng ta ngày nay. Tuy còn có chỗ còn khúc mắc, nhịp thơ
còn chập chững nhưng cả tập thơ bộc lộ một tâm hồn đa cảm trong cảm xúc chân thành,
hồn nhiên và giàu chất thơ. Sáng tác thơ Nôm, Nguyễn Trãi không tự bó mình trong khuôn
khổ của luật thi mà luôn có ý thức sáng tạo. Bên cạnh những bài thơ có niên luật hoàn
chỉnh, Nguyễn Trãi có nhiều câu thơ, bài thơ mang cốt cách dân tộc. Đây chính là bước
sáng tạo của Nguyễn Trãi và bước tiến đáng kể trong lịch sử dân tộc. Ông xứng đáng được
các thế hệ sau coi là tác gia mở đầu cho bước phát triển mới của bộ phận văn học viết bằng
chữ Nôm.


KẾT LUẬN
Thơ văn Nguyễn Trãi nói chung và “Quốc âm thi tập” nói riêng, bài nào cũng thắm
đượm tinh thần dân tộc, mang hoài bão lớn của tấm lòng “tiên ưu, hậu lạc” (lo trước, vui
sau). Sinh ra và lớn lên, được chứng kiến nhiều cảnh đảo điên, vui buồn sướng khổ của xã
hội các triều đại Trần, Hồ, Lê, và điều đó phản ánh khá rõ trong thơ chữ Nôm, chữ Hán của
ông. Hồn thơ trong “Quốc âm thi tập” có thể coi là một nét của hồn dân tộc. Mỗi hình
tượng thơ, mỗi thể loại thơ, mỗi câu chữ ông dùng đều bộc lộ ý tưởng sáng tác, mang dấu
ấn riêng, đậm chất dân gian.
Cùng thời với ông, nhiều nhà thơ sa vào bút pháp ngâm vịnh và lệ thuộc vào nhiều
điển cố, điển tích của văn học cổ Trung Quốc. Nguyễn Trãi cũng không thoát khỏi thi pháp
cổ điển ấy, nhưng ta vẫn thấy ông có sự tiếp thu sáng tạo theo cách cảm, cách nghĩ, cách
biểu hiện mới.
Với những đóng góp về văn chương và quân sự của ông cho dân tộc, năm 1965,
Unesco (Tổ chức Văn hóa- Khoa học- Giáo dục của Liên hợp quốc) đã công nhận ông
là Danh nhân văn hoá. Sự nghiệp kinh bang tế thế và sự nghiệp văn chương của Nguyễn
Trãi tuy hai mà một, vằng vặc như sao Khuê. Suốt đời ông ôm một hoài bão lớn vì dân, vì
nước đậm tính nhân văn. Đúng như lời ngợi ca của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng:
“Nguyễn Trãi, người anh hùng dân tộc, văn võ song toàn. Văn là chính trị, chính trị cứu
nước, cứu dân, nội trị, ngoại giao, “mở nền thái bình muôn thuở, rửa nỗi thẹn nghìn thu”.
Võ là quân sự: chiến lược và chiến thuật “yếu đánh mạnh”, “ít địch nhiều”, “thắng hung
tàn bằng đại nghĩa”. Văn và võ đều là vũ khí, mạnh như vũ bão, sắc như gươm dao”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Văn Hùng – Đoàn Ánh Phương (2007), Nguyễn Trãi cuộc đời và tác phẩm,
NXB Văn hoá Thông tin
2. Nguyễn Đăng Na (2005) Văn học trung đại Việt Nam, tập1, Nhà xuất bản Giáo
dục, Hà Nội.
3. PGS.TS Nguyễn Phong Nam (2010), Giáo trình Tác gia văn học trung đại Việt
Nam, Đại học sư phạm Đà Nẵng, Tài liệu lưu hành nội bộ.
4. Bùi Văn Nguyên (2000), Văn chương Nguyễn Trãi- Rực ánh sao khuê, Nhà xuất

bản khoa học xã hội, Hà Nội.
5. Nguyễn Hữu Sơn (2003), Nguyễn Trãi về tác gia tác phẩm, Nhà xuất bản Giáo
Dục, Hà Nội.
6. PGS.TS Trần Thị Băng Thanh (chủ biên) (2004), Tinh tuyển văn học Việt Nam-
tập4- Văn học thế kỉ XV-XVII, Nhà xuất bản Khoa học- xã hội, Hà Nội.
7. Viện sử học (1978), Nguyễn Trãi toàn tập, NXB Khoa học xã hội.

×