- 1 -
MỞ ĐẦU
1 . Lí do chọn đề tài
Thời gian như một dòng sông có thể qua đi nhưng sức sống của nó tạo
nên một khuôn mặt riêng luôn là ấn tượng không dễ phai mờ trong nỗi niềm
sâu kín của mỗi con người. Thời gian có thể đem đến cho con người ta tất cả
nhưng đồng thời nó cũng có thể xóa nhòa đi tất cả. Những gì còn sót lại với
thời gian là những kết tinh có giá trị vô cùng to lớn. Và những sáng tác truyền
miệng của Văn học dân gian là những gì còn “sót lại” đó.
Anh đi đàng ấy xa xa
Để em ôm bóng trăng tà năm canh
Nước non một gánh chung tình
Nhớ ai ai có nhớ mình hay chăng
Văn học dân gian là nốt nhạc ngân mãi theo năm tháng cùng nhịp đập
cuộc sống thời đại mỗi người dân Việt. Trong các thể loại của văn học dân
gian, chúng ta không thể không nhắc đến ca dao. Thông qua những hình
tượng trữ tình, gợi cảm, ca dao đã bổ sung, tô đậm và hoàn thiện về bức tranh
cuộc sống của nhân dân lao động. Nhà thơ Xuân Diệu trong Lời bạt cho sách
Dân ca miền Nam - Trung bộ đã viết: “Những câu ca dao từ Nam chí Bắc như
có đất, như có nước, như có cát, có biển, như có những giọt mồ hôi người,
chúng ta sẽ cảm thấy dần dần tụ lại nơi khóe mắt một giọt ướt sáng ngời. Đó
là một giọt tinh túy chắt ra từ ruột rà của non sông”. Trong sự phong phú và
đa dạng của thế giới nhân vật trong ca dao. Chúng ta thấy rằng hình tượng
song hành Nam – Nữ hiện lên một cách chân thực và đầy đủ, đa dạng và sinh
động thể hiện được tâm hồn của người dân lao động Việt Nam. Những cung
bậc tình yêu của hình tượng song hành Nam – Nữ đã trở thành một hình ảnh
đẹp có giá trị lưu lại muôn đời, đi vào tâm hồn con người nhiều thế hệ.
Nghiên cứu về Hình tượng song hành Nam – Nữ trong ca dao trữ tình
không chỉ giúp người viết nghiên cứu, tập dượt mà còn phục vụ cho việc
giảng dạy ca dao sau này. Đồng thời qua đây chúng ta có thể thấy được nét
đẹp tâm hồn và trí tuệ sắc sảo của người dân Việt Nam được thể hiện qua
những câu ca dao thấm đẫm nghĩa tình. Để rồi chúng ta thêm yêu mến và trân
trọng hơn những sáng tác truyền miệng của người dân xưa !.
- 2 -
2 . Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu trong đề tài là “Hình tượng song hành Nam -
Nữ trong ca dao trữ tình”
- Phạm vi nghên cứu: Để thực hiện đề tài này chúng tôi đi vào tập trung
khảo sát và sưu tầm một số bài ca dao trong kho tàng ca dao dân gian Việt
Nam có chứa hình tượng song hành Nam - Nữ. Qua đó thấy được nét độc đáo
cái hay và cái đẹp của ca dao - dân ca Việt Nam.
3 . Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ca dao là tiếng hát trữ tình của nhân dân lao động, là mảnh đất sâu kín
để người dân gửi gắm vào đó những tình cảm chân thực của cuộc sống: tình
yêu quê hương, tình yêu đôi lứa, nỗi niềm vui buồn của cuộc sống thường
nhật…Nó phản ánh lịch sử xã hội Việt Nam với những phong tục, tập quán
trong các lĩnh vực sinh hoạt vật chất và tinh thần của nhân dân lao động. Bởi
vậy, ca dao dân ca là đề tài được nhiều nhà nghiên cứu, phê bình quan tâm.
Những công trình nghiên cứu về ca dao Việt Nam trong mấy thập kỉ
qua là hết sức phong phú và đa dạng với số lượng ngày càng tăng. Trong đó,
những công trình mang tính chất sưu tầm vẫn chiếm đa số. Chẳng hạn như:
Kho tàng ca dao người Việt (tập I, II, III) do nhóm tác giả Nguyễn Xuân Kính
và Phan Đăng Nhật (chủ biên), Tổng tập văn học dân gian người Việt của
trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Ca dao tục ngữ Việt Nam
của tác giả Phương Thu. Trong khi đó những công trình nghiên cứu, phê bình,
bình giảng ca dao lại khá khiêm tốn, có thể kể ra một số công trình tiêu biểu
như Ca dao Việt Nam và những lời bình của Vũ Thị Thu Hương (tuyển chọn),
Cấu trúc ca dao trữ tình người Việt của tác giả Lê Đức Luận, Bình giảng ca
dao của Triều Nguyên.
Nguyễn Xuân Kính trong cuốn Thi pháp ca dao đã đi sâu phân loại các
loại biểu tượng, hình tượng và theo ông thì “để tạo nên một hình tượng, biểu
tượng, nghĩa đen và nghĩa biểu vật sẽ không được khai thác ở đây chủ yếu là
nghĩa biểu cảm, nghĩa bóng của ngôn ngữ sẽ phát huy tác dụng tối đa của nó”.
Trong cuốn Văn học dân gian của Bùi Mạnh Nhị (chủ biên) đã có bài viết
tìm hiểu về nguồn gốc hình tượng và biểu tượng trong ca dao Việt Nam. Bài
viết của Nguyễn Thị Ngọc Điệp đã đưa ra một cách đầy đủ khái niệm biểu
- 3 -
tượng và hình tượng nghệ thuật “Các hình tượng, biểu tượng được hình thành
từ nhiều con đường khác nhau tạo nên sự đa dạng, phong phú cho hệ thống
thẩm mĩ ca dao. Đáng chú ý là hiện tượng nhiều biểu tượng sóng đôi (song
hành) được hình thành cho thấy nhu cầu thể hiện, giãi bày tâm tư, tình cảm
lứa đôi trong nhân dân là vô cùng to lớn. Điều này hoàn toàn hợp lí và dễ hiểu
vì trong hoàn cảnh khắt khe người dân luôn khát khao vươn tới sự tự do trong
yêu đương mà trước hết là tự do được bày tỏ tình cảm trong lời ca tiếng hát
của mình” .
Về hình tượng song hành (sóng đôi) trong ca dao, Nguyễn Thị Ngọc
Điệp cũng đưa ra nhận định của mình “Bên cạnh những giá trị nội tại với tư
cách là một thành tố của thi pháp ca dao các biểu tượng sóng đôi đã có những
tác động đáng kể đến các thành tố thi pháp khác của thể loại này. Biểu tượng
sóng đôi với số lượng phong phú, cấu trúc đa dạng và chức năng rõ rệt đã góp
phần tạo nên cái hay, cái đẹp trong ca dao”.Tuy nhiên tác giả mới chỉ dừng lại
ở việc đưa ra những luận điểm mà chưa đi sâu vào hình tượng cụ thể.
Nguyễn Thái Hòa trong cuốn Từ điển tu từ - phong cách thi pháp học
đã nêu lên khái niệm song hành một cách tương đối đầy đủ: “Song hành
(sóng đôi, song song) là biện pháp tu từ cú pháp xếp các thành phần cú pháp
của một câu hay nhiều câu cùng một cấu tạo cạnh nhau, thường kèm thêm
phép điệp từ hay cụm từ và phép đối”.
Theo cuốn Từ điển Văn học của Lê Bá Hán (chủ biên) thì “Hình tượng
nghệ thuật trong văn học là làm sống lại một cách cụ thể và gợi cảm những sự
việc, những hình tượng đáng làm ta suy nghĩ về tình cảm và số phận, về tình
người, tình đời trong một chất liệu cụ thể. Hình tượng nghệ thuật chính là cái
khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện bằng tưởng tượng sáng tạo trong
những tác phẩm nghệ thuật”.
TS. Lê Đức Luận trong Giáo trình Thi pháp văn học dân gian đã đưa
ra khái niệm: “Cấu trúc song hành là kiểu cấu trúc thể hiện hai hình ảnh, hai
sự kiện đi song hành với nhau. Biểu hiện của nó là sự đối ứng trong lời ca”.
Trong công trình nghiên cứu Cấu trúc ca dao trữ tình của TS. Lê Đức
Luận đã đưa ra nhận định về hình tượng song hành Nam - Nữ trong ca dao:
- 4 -
“Hình tượng Nam - Nữ trong ca dao được thể hiện qua vai chức năng xã hội
và hình tượng nhân vật trữ tình, đối tượng trữ tình”.
Trong lịch sử nghiên cứu về kho tàng Văn học dân gian Việt Nam đã
có rất nhiều hướng nghiên cứu riêng. Những tinh hoa chắt lọc của một nền
văn học đã dần hé mở ra trước mắt chúng ta với giá trị đặc sắc. Tuy nhiên
chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên biệt về “Hình tượng song hành
Nam - Nữ trong ca dao trữ tình” mà chỉ mới dừng lại ở những nhận định,
những bài viết nhỏ. Trên cơ sở tiếp thu kiến thức của những người đi trước,
chúng tôi đi vào tìm hiểu, nghiên cứu đề tài này. Với hy vọng tìm ra được
nhiều điều mới mẻ, bổ ích và thú vị !.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể sau:
- Tổng quan tư liệu: Trên cơ sở tìm hiểu tài liệu của các nhà nghiên
cứu đi trước để hiểu rõ hơn vấn đề mà mình nghiên cứu
- Phương pháp tiếp cận có hệ thống: sử dụng phương pháp này giúp
chúng tôi tiếp cận tác phẩm một cách cụ thể đê có thể hiểu rõ hơn
vấn đề mà mình nghiên cứu.
- Phương pháp thống kê, phân loại: Dựa vào nguồn tư liệu mà chúng
tôi thu thập và thống kê, phân loại các bài, các câu ca dao theo từng
vấn đề ở mục phân tích, để tập trung làm sáng tỏ nhân vật biểu
tượng động vật trong ca dao.
- Phương pháp phân tích, chứng minh: Sau khi tiếp cận tác phẩm,
chúng tôi tiến hành phân tích phần tư liệu vấn đề đã đưa ra.
- Tổng hơp, đánh giá lại vấn đề.
5 . Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài này gồm hai
chương chính:
Chương I: Những vấn đề chung
Chương II: Hình tượng song hành Nam - Nữ trong ca dao trữ tình
- 5 -
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Văn học dân gian và thi pháp văn học dân gian
1.1.1. Khái niệm văn học dân gian
Theo M.Gorki, văn học dân gian là những sáng tác truyền miệng của
nhân dân lao động, văn học dân gian là một loại văn học biểu hiện thế giới
quan của các tầng lớp lao động, chủ yếu là nông dân và công nhân. Đó là vào
thời kỳ nguyên thuỷ và văn học dân gian Việt Nam hình thành, theo tiến trình
phát triển của dân tộc, từ khi xã hội chưa có chữ viết cho đến ngày nay và mãi
về sau. Nhân dân gọi những sáng tác dân gian bằng những tên nôm na:
Chuyện đời xưa, câu hát, câu hò như hát phường, xã, hát dặm
Văn học dân gian là những tiếng nói của nhân dân, là đúc kết kinh
nghiệm trong lao động sản xuất, trong sinh hoạt thường ngày, qua thời gian
văn học dân gian vẫn được lưu truyền từ đời này sang đời khác cho đến hôm
nay. Tuy có những thay đổi, nhưng căn bản về nội dung vẫn được giữ vững.
Tóm lại văn học dân gian là phần lời của văn nghệ dân gian, một loại hình
nghệ thuật mang tính nguyên hợp, trong đó nghệ thuật ngôn từ đóng vai trò
quan trọng và luôn luôn gắn liền với các thành tố nghệ thuật khác của nghệ
thuật biểu diễn dân gian. Mặc khác, khi dòng văn học viết ra đời, nó là dòng
văn học không chính thống luôn song hành với văn học viết, làm ngôn liệu
cho các hoạt động diễn xướng dân gian.
1.1.2. Khái niệm thi pháp học
Thi pháp là khái niệm Hán - Việt. Thi là thơ, pháp là phương pháp,
biện pháp, nghĩa là phương pháp nghệ thuật sáng tác thơ. Thi pháp học là
ngành khoa học nghiên cứu các phương pháp, biện pháp nghệ thuật thi ca. Đã
có nhiều định nghĩa về thi pháp học được đưa ra trong đó có định nghĩa của
nhà lí luận văn học Nga V. Girmunxki " Thi pháp học là khoa học nghiên cứu
thi ca với tư cách là một nghệ thuật". Ngoài ra, các định nghĩa khác triển khai
chi tiết hơn như viện sĩ V.Vinogradop "Thi pháp học là khoa học về hình
thức, các dạng thức, các phương tiện, phương thức tổ chức tác phẩm sáng tác
ngôn từ về các kiểu cấu trúc và các thể loại tác phẩm văn học" Từ các định
nghĩa đưa ra có thể thấy rằng thi pháp học quan tâm nghiên cứu về cấu trúc
- 6 -
tác phẩm nghệ thuật, thế giới nghệ thuật, phong cách nghệ thuật, loại thể văn
học và thể loại văn học. Thi pháp khác với các bộ môn khác như lý luận văn
học, mĩ học, nói như vậy không có nghĩa là tách bạch giữa thi pháp với các
bộ môn nói trên mà chỉ là sự phân biệt tính đặc thù của nó.
Như vậy, thi pháp học là khái niệm có tính chung nhưng cũng mang
tính đặc thù riêng của nó để phân biệt với các bộ môn khác.
1.1.3. Đặc trưng thi pháp văn học dân gian
Thi pháp văn học dân gian có những điểm tương đồng nhưng cũng có
những điểm khác biệt với văn học viết. Về điểm tương đồng với văn học viết
thì nhà thi pháp Folklore Krapxop đưa ra khái niệm thi pháp chung cho văn
học "Thi pháp với tư cách là một tổ hợp những đặc điểm, hình thức, nghệ
thuật của tác phẩm ngôn từ bao gồm những đặc điểm của cấu trúc tác phẩm
hệ thống những phương tiện phản ảnh để xây dựng cuộc sống, những hình
tượng về con người và tái tạo những hiện tượng khác nhau của thực tại,
những chức năng tư tưởng, thẩm mỹ của cấu trúc tác phẩm và các phưuơng
tiện thể hiện tác phẩm”. Bên cạnh những điểm tương đồng thì thi pháp văn
học dân gian cũng có điểm khác biệt với văn học viết. Đó là văn học dân gian
không có thi pháp phong cách tác giả cá nhân mà chỉ có phong cách văn học
dân gian địa phương và vùng. Thứ hai, thi pháp thể loại mang tính đặc thù các
thể loại như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, giai thoại, tục
ngữ không có trong hệ thống thể loại văn học viết. Thứ ba, đặc điểm ngôn
ngữ của thi pháp văn học dân gian là ngôn ngữ giao tiếp, ngôn ngữ kể. Đây là
đặc trưng riêng của tác phẩm văn học dân gian mà văn học viết dù có chăng
nữa cũng không phải là phổ quát. Thứ tư, nữa là trong hệ đề tài, thi pháp văn
học dân gian chú trọng đề tài tình yêu, hôn nhân, phong tục tập quán, tín
ngưỡng dân gian. Như vậy, từ những đặc điểm trên có thể thấy được đặc
trưng của thi pháp văn học dân gian. Theo Chu Xuân Diên thì " Thi pháp văn
học dân gian là toàn bộ các đặc điểm về hình thức nghệ thuật, về phương thức
và thủ pháp miêu tả, biểu hiện về cấu tạo đề tài, cốt truyện, và phương pháp
xây dựng hình tượng con người " Còn theo Lê Trường Phát thì “Thi pháp
văn học dân gian là thi pháp của những thể loại văn học dân gian”. Từ những
ý kiến trên có thể kết luận rằng: Thi pháp văn học dân gian của tập thể nhân
- 7 -
dân vừa có đặc điểm ngôn từ văn học, vừa có đặc điểm văn bản thực hành
giao tiếp, là loại hình văn học phản ánh bằng ngôn ngữ giới hạn trong những
khuôn mẫu định sẵn mang phong cách dân tộc, phong cách khu vực và địa
phương rõ rệt, được thể hiện trong một hệ thống thể tài riêng biệt, đặc thù.
Như vậy, thi pháp văn học dân gian mang trong mình những dấu ấn riêng,
một phong cách riêng có thể dễ dàng nhận rõ phân biệt với các thể loại khác.
Đồng thời cũng thể hiện nét đẹp riêng trong kho tàng văn học Việt Nam.
1.2. Hình tượng nghệ thuật và hình tượng song hành trong ca dao
1.2.1. Hình tượng nghệ thuật
Nếu như những nhà khoa học diễn đạt trực tiếp ý nghĩ và tình cảm của
mình bằng các khái niệm, trừu tượng, các định lý, công thức thì nhà văn, nghệ
sỹ diễn đạt bằng “hình tượng” - nghĩa là bằng cách làm sống lại một cách cụ
thể và gợi cảm những sự vật, sự việc, những hiện tượng đáng làm cho ta suy
nghĩ về tính cách và số phận, về tình đời, tình người qua một chất liệu cụ thể.
Và trong khi “Sáng tạo ra những hình tượng nghệ thuật, nhà văn không xuất
phát từ những tiền đề logic chung chung mà xuất phát từ sự thụ cảm cuộc
sống, không xuất phát từ những khái niệm trừu tượng mà từ những hiện tượng
cụ thể của hiện thực”.
Trong lịch sử của nghành “Lý luận văn học”, đã có nhiều nhà nghiên
cứu đưa ra khái niệm, định nghĩa về “Hình tượng nghệ thuật”. Mỗi định nghĩa
được trình bày theo những quan điểm riêng, có một số định nghĩa đáng lưu ý
như: Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong Từ điển thuật ngữ
văn học định nghĩa “Hình tượng nghệ thuật chính là các khách thể đời sống
được các nghệ sỹ tái hiện bằng trí tưởng tượng, sáng tạo trong những tác
phẩm nghệ thuật”. Phương Lựu trong cuốn Lý luận văn học đã khái quát
“Hình tượng nghệ thuật là khách thể tinh thần, mọi phương diện biểu hiện chỉ
có ý nghĩa là khi nào làm sống lại các khách thể đó và người đọc tác phẩm,
chỉ khi nào thâm nhập được vào thế giới tinh thần đó mới có thể nảy sinh
được sự thưởng thức và đồng cảm”.
Qua đó chúng ta có thể hiểu rằng : Hình tượng nghệ thuật là phương
diện đặc thù của văn học nghệ thuật để phản ánh hiện thực khách quan qua
lăn kính chủ quan của nghệ sỹ. Vì vậy, xây dựng hình tượng nghệ thuật đồi
- 8 -
hỏi nhà văn phải có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tình cảm, cảm xúc với một
triết lý tỉnh táo, sắc bén. Giữa sự khái quát với những nét cụ thể riêng biệt,
giữa con mắt quan sát, phân tích hiện thực khách quan với dấu ấn chủ quan
của mình để xây dựng được con người trong tác phẩm là con người “lạ mà
quen biết”. Có như vậy thì tác phẩm văn học mới vừa là hình ảnh của hiện
thực đời sống, vừa là đứa con tinh thần của nhà văn. Vừa truyền thụ được tâm
lý, nguyện vọng ấp ủ của nhà văn tới người đọc, tác động tới những góc cạnh
của tâm hồn vi diệu, sâu thẳm trong đáy lòng độc giả. Có như vậy thì hiện
tượng mà nhà văn khám phá mới “làm phong phú thêm nền văn hóa tinh thần
cho loài người”, mới là “khái quát những quá trình hiện thực, những cảm xúc,
khát vọng của con người”.
1.2.2. Song hành và hình tượng song hành trong ca dao
Theo cuốn Từ điển Tiếng Việt của Quang Hùng thì song hành là hai
hình ảnh thường đi liền nhau, song song và đi ngang nhau. Song hành còn
được gọi với thuật ngữ khác là sóng đôi.
Nguyễn Ngọc Điệp đưa ra khái niệm biểu tượng sóng đôi là những
hình tượng luôn cặp đôi với nhau được tạo thành bởi hai sự vật, hai hình ảnh
đi song song với nhau, liên kết bền vững trong nhiều bài ca dao.
Nguyễn Thái Hòa đã đưa ra khái niệm ״Song hành (sóng đôi) là phép
song song, là biện pháp tu từ cú pháp xếp các thành phần cú pháp của một
câu hay nhiều câu cùng một cấu tạo cạnh nhau thường kèm thêm phép điệp
từ hoặc cụm từ và phép đối″.
Như vậy song hành thường kèm thêm phép điệp ngữ là việc lặp lại các
từ ngữ nhằm nhấn mạnh để tăng thê giá trị biểu cảm của lời văn.
Song hành cũng là cơ sở của phép đối và câu đối. Đối là một dạng của
kết cấu song hành, kiểu kết cấu có mặt trong văn chương của tất cả các dân
tộc. Đối là một trong phương thức tổ chức lời văn bằng cách điệp cú pháp
nhằm tạo ra hau vế, mỗi vế là một câu đối tương đối hoàn chỉnh được viết
thành hai dòng cân xứng, sóng đôi với nhau. Phép đối có tác dụng tạo ra sự
cân xứng hài hòa, bổ sung cho nhau về ý nghĩa, nhac điệu thể hiện cái đẹp
cân xứng theo quan niệm truyền thống của người Việt Nam ta.
- 9 -
Hình tượng song hành trong ca dao rất phong phú và đa dạng. Nó hiện
lên từ các hiện tượng tự nhiên, trong thế giới thực vật, động vật hay chỉ đơn
giản là những đồ vật, sự vật gần gũi với đời sống của con người. Riêng về
mảng ca dao tình yêu lứa đôi sự xuất hiện của những hình tượng song hành
góp phần thể hiện rõ tình yêu đôi lứa. Tác giả dân gian đã đưa ra hình tượng
song hành trong ca dao để bộc bạch những nỗi niềm tâm tư, tình cảm của tình
yêu đôi lứa hay đó cũng là những tâm sự của người bình dân xưa gửi gắm vào
trong ca dao. Thế giới hình tượng trong ca dao được xây dựng nên dường như
đã tồn tại trong tâm thức mỗi con người Việt Nam để rồi cộng hưởng với
nhau tạo nên một rung động thẩm mĩ sâu sắc, một nét truyền thống của quê
hương dân tộc. Kho tàng ca dao Việt Nam đã chứa đựng nhiều hình tượng
song hành, sóng đôi với nhau. Sau đây tôi sẽ khảo sat một số hình tượng song
hành trong ca dao để thấy được sự phong phú trong cấu trúc ca dao trữ tình.
Qua việc khảo sát, sưu tầm có thể đưa ra một số hình tượng tự nhiên đi
song hành với nhau như: mây - núi, mây - trời, mây - gió, trăng - gió, trăng -
mây, trăng - trời, sông - nước, nước - non Có thể đưa ra một số câu ca dao
như :
+ Mây - gió :
Nói gió nhưng chạnh lòng mây
Tuy rằng nói đấy nhưng đây chạnh lòng
+ Trăng - Sóng :
Vì trăng cho sóng bạc đầu
Trăng lặn rồi gió biết đưa ai
+ Sông - Nước :
Nước ngược anh bỏ sào xuôi
Khúc sông bỏ trắng, ai người sầu riêng
Nước chảy cho đò trôi nghiêng
Anh vui chung thiên hạ, em sầu riêng một mình
+ Nước - Non :
Anh đi đàng ấy xa xa
Để em ôm bóng trăng tà năm canh
Nước non một gánh chung tình
- 10 -
Nhớ ai ai có nhớ mình hay chăng
+ Sóng - Ghềnh :
Bao giờ cho sóng bỏ ghềnh
Cù lao bỏ bể thì anh quên nàng
Hay những biểu tượng song hành trong thế giới thực vật như : Trầu -
Cau, Trúc - Mai, Mận - Đào, Cam - Quýt, Lựu - Đào
+ Trầu - Cau :
Ước gì anh hóa ra cơi
Để cho em đựng cau tươi trầu vàng
+ Trúc - Mai :
Đợi chờ trúc ở với mai
Đợi chờ anh ở với ai chưa chồng
+ Mận - Đào :
Đến đây mận mới hỏi dào
Vường hồng đã có ai vào hay chưa
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào
+ Cam - Quýt :
Vì cam nên quýt đèo bồng
Vì em nhan sắc cho lòng nhớ thương
+ Nghệ - Gừng :
Đôi ta như nghệ với gừng
Dẫu sao đi nữa cũng đừng tiếng chi
+ Lan - Huệ :
Cá sầu cá chẳng quạt đuôi
Như lan sầu huệ, như tôi sầu mình
Trong thế giới động vật biểu tượng song hành cũng rất phong phú và
đa dạng :
+ Loan - Phượng :
Ước gì anh được vô phòng
Loan ôm lấy phượng, phượng bồng lấy loan
+ Rồng - Phụng :
- 11 -
Phụng với rồng cùng đồng nhan sắc
Trách ai làm phụng bắc rồng nam
+ Tằm - Nhện :
Tằm ươm tơ, nhện cũng giăng tơ
Gan vàng sao khéo thờ ơ dạ vàng
+ Phượng - Công :
Cất lên bốn giọng cho chuông
Để cho phượng múa với công đôi hồi
+ Cóc - Nhái :
Cóc chết bỏ nhái mồ côi
Chẫu ngồi chẫu khóc: chàng ơi là chàng
Các vật thể nhân tạo cũng được thể hiện một cách sinh động trong hình
tượng song hành. Với các hình ảnh như :
+ Thuyền - Bến: Là hai hình ảnh xuất hiện khá dày trong ca dao tình yêu đôi
lứa phản ánh tình yêu Nam - Nữ :
Gương không có thủy gương mờ
Thuyền không có lái lững lờ giữa dòng
Mong sao nghĩa tình thủy chung
Cho thuyền cặp bến, gương trong ngàn đời
+ Mâm - Đũa:
Đôi ta làm bạn thong dong
Như đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng
Vì chưng cha mẹ nói ngang
Cho nên đũa ngọc, mâm vàng xa nhau
+ Kim - Chỉ:
Nhớ ai như sách nhớ bìa
Như kim nhớ chỉ canh khuya nhớ chàng
Như vậy, chúng ta thấy rằng hình tượng song hành trong ca dao trữ tình
hết sức phong phú và đa dạng, tác giả dân gian xưa đã rất tài tình khi đưa
những hình tượng song hành vào trong ca dao nhằm gửi gắm vào trong đó
những suy nghĩ, tâm tư, tình cảm của mình.
- 12 -
1.3. Ca dao và tình yêu Nam – Nữ trong ca dao
1.3.1. Ca dao là gì ?
Từ xưa đến nay có rất nhiều nhà nghiên cứu đưa ra nhiều định nghĩa
khác nhau về ca dao.
Theo T.S Lê Đức Luận thì “Ca dao là lời ca dân gian, lời ca là lời của
các làn điệu dân ca”. Còn theo Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Lê Bá Hán
thì “Ca dao còn gọi là phong dao. Thuật ngữ ca dao được dùng với nhiều
nghĩa rộng, hẹp khác nhau. Theo nghĩa gốc thì ca dao là bài hát có khúc điệu,
dao là bài hát không có khúc điệu. Ca dao là danh từ ghép chỉ toàn bộ những
bài hát lưu hành phổ biến trong dân gian có hoặc không có khúc điệu. Trong
trường hợp này ca dao đồng nghĩa với dân ca, ca dao có thể là thơ dân gian
truyền thống”. Còn theo Vũ Ngọc Phan trong cuốn Tục ngữ, ca dao, dân ca,
Việt Nam thì “ca dao là một loại thơ dân gian có thể ngâm được như các loại
thơ khác và có thể xây dựng thành các điệu dân ca”. Theo Chu Xuân Diên
“Ca dao là lời của bài hát dân ca đã tước bỏ đi tiếng đệm, tiếng láy…Sự phân
biệt giữa ca dao, dân ca chỉ là ở chỗ khi nói đến ca dao, người ta thường nghĩ
đến những lời thơ dân gian, còn khi nói đến dân ca, người ta thường nghĩ đến
những làn điệu, những thể thức hát nhất định… Khái niệm ca dao đã được
quy định dung để chỉ bộ phận cốt lõi nhất, tiêu biểu nhất. Đó là những câu hát
đã trở thành cổ truyền của nhân dân”.
Như vậy, qua nhiều cách định nghĩa khác nhau về thể loại ca dao,
chúng ta thấy rằng: Ca dao là một mảng sáng tác hết sức rộng lớn, vì vậy khó
có thể tìm ra được một khái niệm chung nhất. Ngay bản thân tên gọi ca dao và
dân ca đã gây nên một cách hiểu không rạch ròi. Cả hai tên gọi đều có yếu tố
ca, một bên là dân ca, một bên là ca dao. Gọi ca dao để chỉ “một thể thơ dân
gian” không thỏa đáng với thực tế, ca dao có nhiều thể thơ như : lục bát, song
thất lục bát, thể vãn….Gọi ca dao cho “tất cả những sáng tác thơ ca những
sáng tác thơ ca nào mang phong cách những câu hát cổ truyền” lại quan niệm
ca dao với một hàm quá rộng, bao gồm cả ca dao mới. Gọi ca dao là “thơ dân
gian” lại vô tình đồng nhất giữa sáng tác văn học viết và sáng tác dân gian. Ca
dao là thơ nhưng không phải là thơ bởi ca dao là “thơ sáng tác theo điệu nói”
(Trần Đình Sử), thực tế trong kho tang ca dao, có những bài có giá trị nghệ
- 13 -
thuật cao, là mẫu mực cho các nhà thơ sau này học tập nhưng cũng có bài
không phải là thơ, có một số bài thơ do các nhà nho sáng tác theo thể lục bát
đã đi vào kho tang ca dao nhưng số đó không nhiều.
Như vậy theo chúng tôi, ca dao là lời ca dân gian. Lời ca là lời của các
làn điệu dân ca. Mặt khác, khi đã đi vào kho tàng lời ca thì nó có vai trò độc
lập của nó, có những bài dân ca nội dung không thay đổi, nhưng về làn điệu
thì thay đổi hoàn toàn. Những dân ca ấy phần nhiều được xây dựng từ một lời
ca sẵn có và bài ca dao ấy được phổ biến rộng rãi.
1.3.2. Tình yêu Nam – Nữ trong ca dao
Nội dung biểu hiện của ca dao tình yêu đôi lứa rất phong phú và đa
dạng thể hiện những cung bậc khác nhau của tình cảm. Chủ thể trữ tình là
những chàng trai, cô gái dưới vai “Anh - em”, “Chàng - nàng”, “Mình - ta”,
“Trúc - mai”, “Mận - Đào” tình yêu bắt đầu từ những buổi gặp gỡ trong lao
động đã nảy sinh những tình cảm đáng yêu.
Tình yêu buổi ban đầu được cất lên hết sức trong sáng, đẹp đẽ và mãnh
liệt:
Đôi ta như lửa mới nhen
Như trăng mới mọc như đèn mới khêu
Chỉ bằng đôi câu ca dao ngắn gọn, giản dị tình yêu buổi đầu đời của
đôi lứa yêu nhau thật mãnh liệt. Như ngọn lửa bùng cháy, như ánh trăng mới
mọc sáng trên bầu trời khuya và như ngọn ngọn đèn mới khêu thổi bùng lên
ngọn lửa của tình yêu trong sáng. Tình yêu buổi ban đầu bao giờ cũng là tình
yêu đẹp nhất. Tình yêu ấy chính là ánh sáng của cuộc đời, là sức nóng của con
tim nồng nàn, tha thiết, đắm say.
Và những lời tỏ tình với muôn hình vạn trạng được cất lên để gửi niềm
yêu thương tới người con gái. Một lời tỏ tình chân thành, nhẹ nhàng, đằm
thắm:
Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen
Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà
- 14 -
Ngay từ phút đầu tiên chàng trai đã gây được sự chú ý của cô gái. Sự
bỏ ngỏ trong lời giới thiệu vốn đã rất ngắn gọn của chàng trai làm cho người
đọc và chính người trong cuộc thấy thấy tò mò, bỡ ngỡ. Phải chăng chiếc áo
bỏ quên ấy là cố tình và chàng trai đã khéo léo bịa ra cái cớ ấy. Rất nhẹ nhàng
và tình tứ chàng trai đã tạo ra sợi dây vô tình có sức manh kì diệu níu giữ
bước chân của con người chỉ bằng một câu hỏi bâng quơ :
Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà
Dường như đã có một nụ cười đầy ẩn ý của một sự yêu thương, ánh
mắt tình tứ như một sự rung cảm của tâm hồn đã truyền tới hai trái tim. Câu
hỏi quá bất ngờ làm cô gái bị động chẳng thể lặng thinh tiếp được. Thế rồi rất
tự nhiên cô đã tự nguyện bước chân vào chiếc lưới tơ hồng do chàng trai bày
ra và bị thắt buộc vào một câu chuyện không đâu vào đâu đó mà lại dần dần
bị kéo vào làm người trong cuộc. Tình yêu giản dị của chàng trai đã đưa
đường chỉ lối cho anh tiếp cận với trái tim mềm yếu của cô gái, từng nhịp
sóng lòng đang dâng lên theo từng lớp sóng của tình yêu đôi lứa. Chàng trai
gần như đã thành công trên những chặng đường đầu tiên đi chinh phục cô gái,
tạo đà để cho con đường tình yêu trôi chảy trên dòng sông cuộc đời.
Khi yêu nhau rồi những cung bậc của tình thương yêu, nhớ nhung,
tương tư lại trở thành những mong đợi, khao khát, trăn trở khi họ cách xa
nhau. Tâm trạng đó đã đi vào trong ca dao thật ngọt ngào, sâu sắc :
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đât
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Đèn thương nhớ mà đèn không tắt
Mắt thương nhớ ai mà mắt không ngủ
Nghệ thuật nhân hóa đi theo từng cung bậc tăng tiến. Một chiếc khăn
thương nhớ, nặng sầu tương tư, tĩnh lặng trong không gian tĩnh mịch của đêm
khuya nhưng lại như những cơn sóng lòng đang dâng lên trong tâm hồn, nỗi
nhớ thương da diết. Đến chiếc đèn khi mờ, khi tỏ và kết thúc bằng đôi mắt
nhòe lệ nhớ thương.
- 15 -
Khăn - đèn là hình tượng nghệ thuật độc đáo tựa như cô gái đã thổi hồn
vào cho mọi vật khiến “khăn”, “đèn” cũng như đang mang trong đó tâm trạng
sầu cảm của người con gái giàu lòng yêu thương. Đó là tâm trạng sầu nhớ
nhung của cô gái khi phải xa cách người yêu.
Tình yêu đôi lứa của người dân lao động gắn chặt với công việc, với nề
nếp sinh hoạt gia đình, làng xóm bới thế nó không hề mang sắc thái ủy mị trái
lại nó rất khỏe khoắn, bền chặt, trong sáng dù trong cuộc sống có nhiều trắc
trở, khổ đau. Tình yêu đã thể hiện một sức mạnh tuyệt vời, vượt qua mọi rào
cản, mọi khó khăn của cuộc sống để đến với nhau cho thỏa niềm nhớ mong :
Yêu nhau tam tứ núi cũng chèo
Thất bát sông cũng lội
Tứ cửu thập đèo cũng qua
Ý niệm về sự khó khăn, gian khổ đã không tồn tại, họ chỉ biết bằng mọi
cách vượt qua những khó khăn và thử thách bởi trong tình yêu không có con
đường nào bằng phẳng. Tình yêu nâng họ lên một tầng cao mới, tầng cao của
những trái tim đang hòa quyện lẫn nhau vượt qua bao nhu cầu vật chất tầm
thường. Yêu nhau đôi trai - gái thề thốt chung tình thể hiện quyết tâm sắc đá
thủy chung, không thay lòng đổi dạ, cùng nhau sống trọn đời hạnh phúc :
Trăm năm ước nguyện chung tình
Trên trời dưới đất có mình với ta
Với họ được ở bên nhau dù phải trải qua tất cả những rào cản, quan
niệm xã hội “môn đăng hộ đối’ hay “cha mẹ đặt câu con ngồi đấy ”. Chỉ cần
họ được ở bên nhau trong niềm hạnh phúc giản dị sẽ che chở, sưởi ấm cõi
lòng những người đang yêu. Và chính lời thề nguyện ấy đã góp phần giữ cho
tình yêu mãi mãi bền chặt và lâu dài :
Đố ai quyét sạch lá rừng
Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây
Rung cây, rung cột, rung cành
Rung sao cho chuyển lòng anh với nàng
Những tình cảm anh giành cho em khó bề mà thay đổi nó tựa hồ như
việc quyét sạch lá rừng. Người con gái đã vượt qua tất cả những rào cản của
xã hội để bộc bạch hết nỗi niềm tâm tư của mình :
- 16 -
Hồng Hà nước đỏ như son
Chết đi thì chớ sống còn lấy anh
Tình anh giành cho em là một điều không thể thay đổi, còn tình em
giành cho anh là duy nhất như nước sông Hồng Hà chưa bao giờ đổi màu.
Dẫu phải xa anh nhưng người con gái ấy vẫn mãn nguyện vì được sống trong
tâm tình trọn vẹn gửi đến anh. Từ những lời tỏ tình ngọt ngào đến những lần
tương tư, nhớ thương lệ nhòa, đó là những giây phút để tình yêu thăng hoa.
Tuổi trẻ mang trong mình một trái tim yêu thương, niềm hạnh phúc giản đơn,
tình yêu là kết tinh những gì lắng đọng nhất, ngọt ngào nhất của hai tâm hồn
đẹp thanh khiết. Khi sống trong mạch nguồn ngọt ngào của truyền thống dân
tộc nó càng trở nên đáng trân trọng hơn bao giờ hết. Sự mượt mà, trong trẻo
trong chất trữ tình của ca dao đã làm nên chất thơ và đầy mộng cho cuộc tình
duyên của đôi trai gái để rồi những thế hệ mai sau nhìn vào đó như một tấm
gương về cách sống, nếp nghĩ của bình dân xưa. Tất cả những cung bậc của
tình yêu được nhân dân lao động thổ lộ lúc kín đáo, bóng gió, lúc trực tiếp sôi
nổi, chắt nén trong từng câu chữ ý vị ngọt ngào.
Nhưng bên cạnh đó Ca dao cũng phản ánh nỗi đau đớn, buồn thương,
tiếc nuối khi tình duyên đứt gánh giữa đường. Có khi người con trai bị phụ
bạc rồi than trách :
Ngày nào em nói em thương
Như trầm mà để trong gương chắc rồi
Bây giờ khóa rớt chìa rơi
Rương long, nắp vỡ bay hơi mùi trầm
Còn người con gái lại trách nhẹ người con trai :
Trách người quân tử bạc tình
Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán sao
Những cung bậc tình yêu thánh thót ngân nga trong lòng người đọc trở
thành những cung đàn của một bản tình ca vô tận, lôi cuốn bao thế hệ. Đặt
những câu ca dao về tình yêu trong hoàn cảnh lúc xã hội lúc bây giờ với
những luật lệ, lễ giáo phong kiến hà khắc ta thấy một tiếng nói phản kháng
mãnh liệt, tiếng nói tố cáo mạnh mẽ xã hội phong kiến sâu sắc, tiếng nói đấu
tranh cho con người được quyền sống, quyền tự do yêu, được định đoạt hôn
- 17 -
nhân và thể hiện khát khao hạnh phúc lứa đôi. Đó là tình yêu trong sáng, đẹp
đẽ, mạnh mẽ, thủy chung không cầu danh lợi, không màng phú quý, quyết
tâm cùng nhau trọn tình cùng nhau vượt qua rào cản lễ giáo phong kiến, Vì
thế nó có giá trị phản phong, giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc.
CHƯƠNG 2. HÌNH TƯỢNG SONG HÀNH NAM - NỮ TRONG
CA DAO TRỮ TÌNH
2.1. Hình tượng song hành Nam – Nữ trong ca dao
Hình tượng trong ca dao có tính phổ quát đó là hình tượng Nam - Nữ,
được biểu hiện qua các vai giao tiếp. Phần lớn hình tượng trong ca dao là
hình tượng ẩn dụ, tượng trưng. Hình tượng Nam - Nữ trong ca dao được thể
hiện qua vai chức năng xã hội và hình tượng nhân vật trữ tình, đối tượng trữ
tình. Mỗi bài ca dao thể hiện một cảnh ngộ, một mảnh đời, một tâm trạng cụ
thể. Tổng hợp toàn bộ những yếu tố trên tạo thành hình tượng hoàn chỉnh về
vai nhân vật Nam - Nữ. Toàn bộ hệ thống lời ca trữ tình dân gian đều tập
trung thể hiện hình tượng thân phận con người. Hình tượng song hành Nam
-Nữ là hình tượng trung tâm của ca dao, ca dao đã xây dựng nên nhân vật trữ
tình tâm trạng. Đây là nhân vật giao tiếp nên có nhân vật là chủ thể trữ tình
và nhân vật là đối tượng trữ tình. Nhân vật trung tâm của ca dao là nhân vật
Nam - Nữ song hành với nhau theo từng cặp giao tiếp đối đáp hay từng phe
đối đáp. Hai vai Nam - Nữ là hai vai vừa tương hợp, vừa đối kháng, vừa cân
bằng, vừa đối trọng. Giữa hai vai có điểm giống nhau là cùng chung thân
phận con người nhưng khác nhau là sự phân cách trọng khinh trọng nam
khinh nữ và do giới tính. Nhờ sự phân cách giới tính mà cân bằng, tương
hợp, vì phân cách trọng khinh do quan niệm phong kiến mà đối trọng, đối
kháng. Sự đối kháng phần nhiều dừng ở mức than trách như câu ca dao:
Anh đến tìm hoa thì hoa đã nở
Anh đến tìm đò thì đò sang sông
Anh đến tìm em thì em đã có chồng
Hỏi yêu nhau như rứa, có mặn nồng không em?
2.2. Hình tượng song hành Nam - Nữ với những cung bậc của tình yêu
- 18 -
Trong ca dao, hình tượng song hành không chỉ là sự sao chép lại hiện
thực đời sống sinh hoạt vật chất và tinh thần của người bình dân xưa mà ẩn
sâu trong đó là sự diễn tả những cung bậc khác nhau trong tâm hồn con
người. Những hình tượng đi song hành, sóng đôi với nhau để thể hiện nỗi
lòng, tâm trạng con người. Mặc dù xuất hiện khá phong phú, đa dạng dưới
nhiều hình tượng và cách biểu đạt khac nhau nhưng cái chung nhất là trong
mỗi câu ca dao đều thấm đượm chất trữ tình.
Ca dao với đề tài đời sống riêng tư và đời sống gia đình thì có lẽ mảng
ca dao về tình yêu Nam - Nữ là bộ phận phong phú nhất trước hết ở số lượng
các câu ca dao. Hầu hết những câu ca dao về tình yêu Nam - Nữ được sáng
tác trong mối quan hệ Nam - Nữ ở nông thôn Việt Nam trước đây. Những đôi
trai gái song hành với nhau trong những buổi lao động, sinh hoạt, họ gặp gỡ
tìm hiểu nhau, thổ lộ tình cảm với nhau trong những buổi lao động, hội hè,
đình đám vui xuân. Hình thức thể hiện là những câu hát đối đáp Nam - Nữ.
Những lời đối đáp, những lời tỏ tình, những lời nhớ nhung, những cung bậc
tình yêu, hạnh phúc Tất cả kết tinh lại để thể hiện mọi cung bậc tình yêu
Nam - Nữ. Do đó trong ca dao - dân ca trữ tình về tình yêu Nam - Nữ có nội
dung phản ánh mọ biểu hiện của tình yêu trong tất cả những chặng đường của
nó.
2.2.1. Hình tượng song hành Nam - Nữ với tình yêu đắm say và niềm hạnh
phúc bình dị
Có ai sống được mà không yêu
Không nhớ không thương một kẻ nào?
(Xuân Diệu)
Từ xa xưa tới nay tình yêu luôn là cái gì đó ấp ủ, nóng bỏng và nảy nở
trong trái tim tất cả những con người Việt Nam. Và khi đã được ca dao chắp
cho đôi cánh bay bổng của tình yêu thì nó lại trở nên ngọt ngào và êm dịu. Có
lúc tình yêu là men say nồng ấm làm cho con người ta êm ái cũng có khi tình
yêu là mật đắng làm trái tim quặn đau, tê dại. Nếu như hôm nay tình yêu cất
lên bởi những không gian ồn ào, náo nhiệt của cuộc sống xô bồ thì ở một thời
xa xưa ấy ông cha ta đã cất lên tiếng yêu ngọt ngào, thanh khiết từ những lũy
tre xanh rì, từ những cánh đồng bát ngát, tình yêu cất lên vô tư không chút
- 19 -
danh lợi mang đậm tính bình dị, mộc mạc, dân dã của thôn quê. Ca dao tình
yêu Nam - Nữ là những cuộc gặp gỡ của trai - gái trong khung cảnh lao động.
Tình yêu trai gái thường được biểu hiện trong mối quan hệ khăng khít với
cuộc sống lao động:
Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng
Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?
Đan sàng thiếp cũng xin vâng
Tre non đủ lá non chăng hỡi chàng ?
Tình yêu buổi đầu tiên được bắt đầu bằng những lời tỏ tình cất lên là
lúc hai tâm hồn thực sự hòa hợp vào nhau, chứa đựng nhịp đập bồi hồi của
trái tim và sợi chỉ đỏ đã đưa đôi Nam - Nữ song hành sát lại gần nhau. Bỗng
chợt họ nhận ra mình sinh ra là của nhau, hạnh phúc chỉ có được khi được kề
vai sát cánh bên nhau:
- Hai đứa mình đôi lứa xứng đôi
Khi đi cúng đẹp khi ngồi cũng cân
- Anh với em như nước với non
Non xanh nước biếc duyên còn dài lâu
Non là hình ảnh tĩnh biểu tượng cho hình ảnh người con gái. Nước là
hình ảnh động biểu tượng cho người con trai. Tình duyên của chàng trai và cô
gái trong câu ca dao trên còn mãi dài lâu như “ non xanh nước biếc ”
Yếu tố lành mạnh trong tình yêu của nhân dân lao động thể hiện ở sự
tiếp xúc và trao đổi tình cảm tự nhiên giữa Nam - Nữ. Chàng trai trong ca dao
có phần lém lỉnh, suồng sã nhưng chất phác :
Gặp em anh nắm cổ tay
Anh hỏi câu này, có lấy anh không
Nhưng đôi khi cũng rất duyên dáng, tế nhị :
Ai làm cho nón quai thao
Để cho anh thấy cô nào cũng xinh
Còn cô gái thì nhẹ nhàng đằm thắm hơn nhiều :
Anh về cuốc đất trồng cau
Cho em trồng ké dây trầu một bên
Mai sau trầu nọ lớn lên
- 20 -
Trầu kia ra trái làm nên cửa nhà
Tình yêu của đôi trai gái làng quê thường gắn liền với lao động, với
công việc nhà nông. Những mối tình thắm thiết, thủy chung nảy nở trên ruộng
lúa nương dâu, bên giếng nước gốc đa, sân đình trong những đêm trăng sáng.
Đôi trai gái sóng đôi bên nhau trong tình yêu gắn bó, thủy chung. Dường như
tình yêu ấy là chất keo kết dính họ lại với nhau trong một mối lương duyên
tuyệt đẹp trong lễ hội đình đám:
Anh vỗ trống đất kêu vang
Em thổi sáo trúc nhịp nhàng với anh
Yêu nhau đôi Nam - Nữ ước mơ đoàn tụ, được sánh đôi sum vầy:
Đêm qua anh nằm nhà ngoài
Thấy em than vắn thở dài nằm trong
Ước gì anh được vô phòng
Loan ôm lấy phượng, phượng bồng lấy loan
Sức mạnh của tình yêu đôi trai gái đã cho họ sống trong những mong
đợi hòa hợp với những khoái cảm chân chính, những niềm vui, niềm hạnh
phúc để rồi con người ta khao khát được yêu. Một sự sóng đôi hòa quyện
trong ước vọng tình yêu đôi lứa đã được phản ánh một cách rực rỡ trong
những cung bậc tình yêu.
Trong ca dao về tình yêu Nam - Nữ đã diễn tả cung bậc nhớ thương,
tương tư của những ai đang yêu và của những trái tim biết rung động:
Nhớ chàng như vợ nhớ chồng
Như chim nhớ tổ, như rồng nhớ mây
Trong tình yêu một phút xa nhau tưởng như ngàn thế kỉ, những trái tim
đang yêu của đôi Nam - Nữ cứ giục giã để được gặp nhau, ở bên nhau để thỏa
mãn nỗi nhớ thương:
Thiếp xa chàng như rồng nọ xa mây
Như chim chèo bẻo xa cây măng vòi
Thuyền và bến là hai hình tượng nghệ thuật mang vẻ đẹp nhân văn thể
hiện đậm nét cảm hứng về tình thương nỗi nhớ, khát vọng được sống xum vầy
yên vui hạnh phúc lứa đôi. Tâm trạng nhớ mong mòn mỏi sàng nôn nóng thì
càng chậm chạp. Nỗi nhớ thương khiến lòng người héo hon:
- 21 -
Bao giờ cho gạo bén sàng
Cho trăng bén gió cho nàng bén anh
Hình ảnh “gạo bén sàng”, “trăng bén gió” được dùng để biểu đạt cho
tình cảm Nam - Nữ “nàng bén anh”. Có thể nói tác giả dân gian đã lấy bất cứ
một hình tượng nào đó trong tự nhiên, trong cuộc sống hàng ngày để biểu
hiện tâm trạng con người nếu như giữa chúng có một sự tương đồng dù la
mong manh.
Tình yêu Nam - Nữ là đề tài và là nguồn cảm hứng bất tận của mọi
sáng tạo văn học nghệ thuật trong đó có thơ ca đặ biệt là ca dao. Và trong
từng loại hình nghệ thuật bao giờ cũng có cách thể hiện tình yêu với ngôn ngữ
độc đáo riêng, với sắc thái cung bậc tình cảm riêng. Hình tượng song hành
Nam - Nữ cũng đi vào trong ca dao với những cung bậc tình cảm riêng, sâu
sắc:
Anh xa em như bến xa thuyền
Như Thúy Kiều xa Kim Trọng biết mấy niên cho tái hồi
“Quả cau” và “miếng trầu” trong ca dao đã trở thành một hình tượng
hết sức quen thuộc trong ca dao, là hình ảnh ẩn dụ mang ý nghĩa biểu trưng
cho mọi sắc thái đa dạng tinh tế về tình cảm, tình yêu, đạo đức truyền thống
của con người Việt Nam. Ngày xưa, miếng trầu và quả cau là sứ giả của tình
yêu Nam - Nữ. “Trầu” - “Cau” là hai vật luôn đi liền với nhau trong văn hóa
của người Việt Nam. Không thể có “trầu” mà không có “cau” và ngược lại
luôn là cặp song hành bên nhau như những chàng trai, cô gái, những đôi Nam
- Nữ mang trong mình trái tim tình yêu và ước vọng:
Bây giờ em mới hỏi anh
Trầu vàng nhá với cau xanh thế nào
Cau xanh nha với trầu vàng
Tình anh sánh với duyên nàng đẹp đôi
Hình ảnh sóng đôi “mận - đào” cũng là một cặp ẩn dụ rất đắt tạo nên
một hình tượng đẹp góp vào trong ca dao một cách tỏ tình vừa tế nhị vừa lịch
lãm được nhiều người yêu thích. Những câu thơ lục bát giàu vần điệu, liền
mạch, cách đối đáp hết sức tự nhiên, độc đáo:
Bây giờ mận mới hỏi đào
- 22 -
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng đã có nhưng chưa ai vào
Cái tình đôi Nam - Nữ kín đáo dần được bộc lộ, đến lúc này ta mới
nhận ra “chén tình là chén xa xưa”. Và khi nhắc đến “mận - đào” người ta liên
tưởng ngay tới hình ảnh chàng trai, cô gái. Tác giả dân gian đã dùng một cặp
danh tính để thay thế cho đại từ nhân xưng “anh - em”, “chàng - nàng”, “
Nam - Nữ” hình ảnh “mận” là biểu tượng cho người con trai, “đào” là tượng
trưng cho người con gái và “vườn hồng” là vườn tình ái đôi ta. Một cách
thông minh và tế nhị tình yêu đã được cất lên trong khúc khải hoàn ca. Bài ca
giao duyên đã phản ánh tâm hồn trong sáng, trẻ trung, hồn nhiên và lành
mạnh của Nam - Nữ ngày xưa thể hiện niềm khát khao tình yêu, tình yêu hạnh
phúc. Đó là những phím đàn tơ tâm tình, thủ thỉ của người bình dân xưa. Thật
khó có thể thâu tóm được hết vẻ đẹp của những hình ảnh ẩn dụ, so sánh trong
ca dao. Những hình ảnh ấy có quan hệ mật thiết với những biểu tượng góp
phần tạo nên giá trị hình tượng song hành trong ca dao. Thế nhưng tất cả đều
được xuất phát từ tâm hồn người bình dân, từ những gì đã gắn bó với cuộc
sống thôn quê và phản ánh tâm tư, tình cảm của họ. Đôi Nam - Nữ cùng thề
nguyện sánh vai bên nhau:
Đôi ta như khóa với chìa
Trọn niềm chung thủy đừng lìa mới hay
Ở đây “khóa” và “chìa” là biểu tượng cho anh và em, khóa với chìa đi
liền nhau cúng như anh - em phải luôn sánh bước bên nhau, giữ “trọn niềm
niềm thủy chung”, “đừng lìa mới hay”.
Để rồi khi phải xa nhau nỗi nhớ nhung lại tràn về với ước vọng sánh đôi:
Thiếp xa chàng ăn vàng cũng đắng
Thiếp gần chàng ăn hạt muối trắng cũng ngon
Mấy lâu ni ruột thắt gan dòn
Trông cho đây gặp đó kẻo mỏi mòn nhớ thương
Tình yêu Nam - Nữ xứng đôi thật đẹp với mọi cung bậc tâm trạng.
Tình yêu là muôn màu, muôn vẻ và khi họ đã đến được với nhau rồi thì tình
yêu ấy lại là sự gắn kết bền chặt, không có gì thay đổi. Như những màu xanh
- 23 -
vươn lên đón lấy thứ ánh sáng tuyệt vời của cuộc sống để mãi mãi lâu bền,
mãi mãi tươi đẹp. Đối với đôi lứa yêu nhau tình yêu chỉ có thể cảm nhận bằng
cả trái tim mình.
2.2.2. Hình tượng song hành Nam - Nữ với tình yêu muôn vàn cách trở
Đứng trước ngưỡng cửa của tình yêu với những khát khao và những
mong ước giản dị của đôi trai - gái, đôi Nam - Nữ nguyện thề ước nguyện
được ở bên nhau trọn đời. Thế nhưng không có con đường tình yêu nào là
bằng phẳng, đã yêu nhau và nặng lòng sắc son thì khắc vết trong lòng mãi mãi
không bao giờ quên. Để rồi hạnh phúc trong vị ngọt của tình yêu bao nhiêu thì
lại đau đớn bấy nhiêu khi tình duyên cắt ngang đôi đường. Còn tâm hồn nào
khắc khoải bồn chồn, thương nhớ da diết bằng tâm hồn của những đôi Nam -
Nữ yêu nhau mà bị cách trở:
Anh xa em vì bởi thế gian
Cho anh nước mắt nhỏ tràn năm canh
Đến năm canh ngày sáu khắc chàng ơi
Chàng cười nửa miệng thiếp tôi vui nửa lòng
Khi đã gửi trọn niềm yêu giành cho nhau thế nhưng tình yêu ấy không
được chấp nhận họ chỉ còn biết nén lòng đau đớn xót xa trong tiếc nuối và
tuyệt vọng. Chính sự khắc nghiệt của luật lệ, lễ giáo phong kiến, hay những
quan niệm lỗi thời và lạc hậu “Môn đăng hộ đối”, “Cha mẹ đặt đâu con ngồi
đấy”, làm cho bao đôi trai gái yêu nhau đành phải chia lìa:
Đôi ta làm bạn thong dong
Như đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng
Vì chưng cha mẹ nói ngang
Cho nên đũa ngọc mâm vàng xa nhau
Tình yêu trong mọi khoảnh khắc lúc nào cũng có những niềm hạnh
phúc ngọt ngào đi liền với nỗi lo sợ. Có nỗi sợ vu vơ, không định hình,
không nắm bắt được. Có nỗi sợ thoảng qua nhẹ nhàng nhưng cũng có nỗi sợ
da diết , thấm sâu. Trong bài ca dao cũng thế. Ở đây vì sự chia cắt của cha
mẹ đôi Nam - Nữ đã phải xa nhau trong nuối tiếc không nguôi:
Vắn tay với chẳng tới kèo
Cha mẹ anh nghèo cưới chẳng đặng em
- 24 -
Chúng ta nhận thấy được những đau khổ của đôi nam - nữ yêu nhau
trong giai đoạn dưới chế độ phong kiến. Những nếp sống phong kiến đã ảnh
hưởng rất sâu đậm đến người bình dân. Quyền cha mẹ định đoạt tình yêu con
cái là những nguyên nhân dẫn đến những đau khổ tuyệt vọng, là gọng kìm
bóp chết tình yêu nam- nữ. Để rồi tâm hồn họ khắc khoải khôn nguôi trong
nỗi nhớ mong tột cùng. Ấy vậy mà tình yêu mạnh mẽ giữa chàng trai, cô gái
đã giúp họ vượt qua nỗi lo lắng này.
Khi nỗi sợ cha mẹ qua đi thì nỗi sợ tình yêu mỏng manh không bền
vững và đến làm đau đớn trái tim yếu ớt của người con gái, trở thành một nỗi
băn khoăn, day dứt khi người con trai phụ tình bạc nghĩa:
Nào khi anh bủng anh beo
Tay cất chén thuốc, tay đèo múi chanh
Bây giờ anh khỏi anh lành
Anh mê nhan sắc anh tình phụ tôi
Đối với những cô gái thì việc lo sợ về một tình yêu lỡ làng là nỗi lo sợ
không thể nào dứt khỏi. Đúng như nỗi niềm mang niềm oán trách nhẹ nhàng
của câu ca dao:
Bướm xa hoa ôm cành khóc rụi
Thiếp biết chàng sớm tối chưa được bao lâu
Vì ai lật ván tháo cầu
Gái bơ vơ đường gái, trai sầu thảm đường trai
Trong những mối tình không phải lúc nào mọi thứ cũng thuận buồm
xuôi gió, cũng có khi sóng gió bão bùng, có khi mặn nồng trong hạnh phúc
ngọt ngào, có lúc lại vị đắng cay đau khổ và tình yêu trong ca dao cũng vậy:
Tằm giăng tơ, nhện cũng giăng tơ
Gan vàng sao khéo thờ ơ dạ vàng
Tằm và nhện về bản chất là hai loài khác nhau, hai loài tơ khác nhau
vậy mà trong con mắt của người đang yêu lại có sự khác biệt. Đây chính là
hình ảnh ẩn dụ cho anh và em. Hóa ra đây lại là lời trách yêu, lời tỏ tình
khéo léo của chàng trai: anh và em gần gũi với nhau cớ sao em lại thờ ơ, sắt
đá trước tấm lòng thủy chung của anh.
- 25 -
Hay những hình ảnh bướm - hoa cũng chịu cảnh chia lìa. Khi người
con gái bị phản bội họ thốt lên những lời đau đớn, căm giận:
- Khen cho con bướm khôn ngoan
Hoa thơm bướm đậu, hoa tàn bướm bay
Một mai, mai một chờ ta
Bướm ơi sao nỡ lìa hoa cho đành
- Bướm xa hoa, bướm khô hoa tẻ
Liễu xa đào, liễu ngẩn đào ngây.
Trong thực tế ta thường thấy bướm không có hoa để hút nhụy lấy sự
sống, hoa không có bướm để thụ phấn thì hoa sẽ chết. Tác giả dân gian đã
mượn quy luật của tự nhiên đưa ra một hình ảnh song hành, sóng đôi bướm –
hoa để đưa ra quy luật con người, quy luật của tình yêu Nam - Nữ để khẳng
định sự gắn bố mật thiết, nương tựa, sánh vai bên nhau, không thể tách dời
trong tình yêu đôi lứa. Tương tự như vậy với hình ảnh:
Bùn xa bèo, bùn khô bèo héo
Liễu xa đào, liễu ngả đào nghiêng
Từng cung bậc tình yêu được tác giả dân gian thể hiện thật đa dạng,
phong phú để rồi được nhấn mạnh ở cung bậc về sự thủy chung son sắt, một
nút nhấn sâu sắc trong một bản nhạc tình yêu đa thanh điệu, giàu cảm xúc
trữ tình:
Anh ở trên ni vừa thương vừa nhớ
Em ở dưới nớ vừa cảm vừa sầu
Dường như ta đã đọc bài ca dao trong hàng trăm những bài ca dao chứa
chất thương nhớ của đôi trai gái. Câu ca dao đã gieo vào lòng ta những nỗi
bâng khuâng, tha thiết và nhẹ nhàng. Hay hình ảnh thuyền - bến là biểu
tượng ẩn dụ sóng đôi, song hành của đôi trai - gái:
Thuyền về có nhớ bến không
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền
Cặp biểu tượng song hành Thuyền - bến là hình ảnh ẩn dụ cho những
đôi trai gái yêu nhau. Tựa như người con trai và người con gái luôn gắn bó
bên nhau, những ước mơ, hoài bão như cánh buồm no gió đưa những chàng
trai phiêu lưu khắp dòng sông cuộc đời với bao gió bão thử thách. Nhưng dù