Khoảng sinh học và ứng
dụng lâm sàng
1. Định nghĩa:
Khoảng sinh học (biologic width) là phần mô
mềm bám dính vào chân răng trên xương ổ
răng, bao gồm: biểu mô bám dính + mô liên kết
trên xương ổ răng.
Khoảng sinh học đóng vai trò là 1 hàng rào ngăn
cản sự xâm nhập của vi khuẩn vào các thành
phần nha chu quan trọng bên dưới như xương ổ
răng, dây chằng nha chu, xê măng. Trên răng
lành mạnh thường không phát hiện vi khuẩn
trong phạm vi 2.5 mm tính từ bờ xương ổ răng.
Theo nghiên cứu của Gargiulo và cộng sự năm
1961, kích thước trung bình của phần biểu mô
bám dính là 0,97 mm, của phần mô liên kết trên
xương ổ răng là 1,07 mm. Theo Vacek và cs
(1994) 2 kích thước lần luợt là 1.14 mm và 0,77
mm (Hình 1).
Mặc dù kích thước của phần biểu mô bám dính
có thể thay đổi từ 1-9 mm, kích thước vùng mô
liên kết trên xương ổ răng tương đối hằng định,
tùy theo vị trí xung quanh răng của từng răng.
Ở răng lành mạnh, đa số các tác giả thống nhất
khoảng sinh học có kích thước trung bình là 2
mm, bao gồm 1mm biểu mô bám dính và 1mm
vùng mô liên kết trên xương ổ răng (Hình 2).
[Only Registered Users Can See Links](2).JPG
Hình 1
[Only Registered Users Can See Links]
Hình 2
Khi có 1 yếu tố tác động (sâu răng, răng nứt
gãy, bờ phục hồi) đưa vi khuẩn đến gần xương
ổ răng ở khoảng cách < 2mm, khoảng sinh học
bị xâm phạm. Tiếp theo sẽ có 1 phản ứng nhằm
di chuyển các cấu trúc nha chu quan trọng
(xương ổ răng, dây chằng) về phía chóp răng để
tái thiết lập hàng rào bảo vệ. Biểu hiện đầu tiên
của phản ứng này là hiện tượng viêm nướu, tiếp
theo là tụt nướu hoặc tạo túi nha chu, tùy theo
dạng sinh học của mô nha chu.
Do đó, trên lâm sàng, các biểu hiện thường gặp
của hiện tượng xâm phạm khoảng sinh học trên
lâm sàng là tụt nướu, túi nha chu hoặc viêm
nướu dai dẳng mặc dù tình trạng vệ sinh răng
miệng khá tốt (Hình 3-6)
[Only Registered Users Can See Links]
Hình 3
[Only Registered Users Can See Links]
Hình 4
[Only Registered Users Can See Links]
Hình 5 và 6
2. Ứng dụng lâm sàng:
Trên lâm sàng, việc xác định khoảng sinh học,
tránh xâm phạm khoảng sinh học hoặc thay đổi
vị trí của khoảng sinh học 1 cách chủ động đóng
vai trò quan trọng trong sự thành công của Nha
khoa phục hồi.
a. Xác định khoảng sinh học:
Mặc dù khoảng sinh học có kích thước trung
bình là 2mm, y văn ghi nhận kích thước này có
thể thay đổi từ 0.75 – 4.3 mm. Do đó việc xác
định kích thước khoảng sinh học ở từng vị trí
của răng là cần thiết.
Phương pháp xác định khoảng sinh học chính
xác nhất là thăm dò tới đỉnh xương ổ răng
(sounding to bone). Sau khi gây tê, dùng cây đo
túi đo túi nha chu (được khoảng cách là a), tiếp
tục đưa cây đo túi xuyên qua vùng biểu mô bám
dính và mô liên kết trên xương ổ răng cho tới
khi chạm vào đỉnh xương ổ răng (được khoảng
cách là b). Kích thước khoảng sinh học: c = b - a
(Hình 7).
[Only Registered Users Can See Links] [Only
Registered Users Can See Links]
Hình 7
b. Xác định vị trí đường hoàn tất tránh vi phạm
khoảng sinh học:
Trong nhiều trường hợp phục hình hay bờ phục
hồi được chỉ định đặt dưới nướu do:
· Cần tăng khả năng lưu giữ do thân răng ngắn
· Sâu răng hay phục hồi trước có bờ dưới nướu
· Cần phài thay đồi chiều hướng răng
· Lý do thẩm mỹ
Về phương diện nha chu, đường hoàn tất dưới
nướu có nguy cơ sinh học cao do khó hoàn tất
và khả năng xâm phạm khoảng sinh học.
Frank M. Spear và Joseph P. Cooney đã đưa ra
Guideline vị trí đường hoàn tất dưới nướu với
mục đích tránh khả năng xâm phạm khoảng
sinh học.
Guideline này được thực hiện với nướu lành
mạnh, độ sâu của khe nướu được dùng làm giá
trị hướng dẫn vị trí đường hoàn tất dưới nướu
với lưu ý cây đo túi thường lấn vào vùng biểu
mô bám dính 0.5 mm trong các trường hợp
nướu lành mạnh.
Guideline vị trí đường hoàn tất dưới nướu:
1. Khe nướu < 1.5 mm: đường hoàn tất đặt dưới
đường viền nướu 0.5mm
2. Khe nướu 1.5-2mm: đường hoàn tất đặt ở vị
trí cách đường viền nướu ½ độ sâu của khe
nướu.
3. Khe nướu > 2mm, đặc biệt ở mặt ngoài: cắt
nướu để khe nướu còn 1,5 mm và thực hiện
đường hoàn tất như loại 1.
Các bước thực hiện:
· Mài cùi đến vị trí đường viền nướu
· Loại 1: đặt chỉ co nướu (loại nhỏ) sao cho phần
trên của sợi chỉ nằm ở vị trí xác định đường
hoàn tất-0.5 mm cách đường viền nướu. Ở mặt
bên, phần trên của sợi chỉ cách viền nướu 1-1.5
mm do khe nướu mặt bên thường sâu 2.5 –
3mm.
· Mài cùi đến phần trên của sợi chỉ, hoàn tất.
· Đặt sợi chỉ co nướu thứ 2 vào giữa mô răng và
nướu, đẩy sợi chỉ thứ 1 về phía chóp.
· Sau thời gian co tách nướu, rút sợi chỉ thứ 2,
lấy dấu. Sợi chỉ thứ 1 vẫn để yên cho đến khi
gắn phục hình tạm (Hình 8).
[Only Registered Users Can See Links] [Only
Registered Users Can See Links] [Only
Registered Users Can See Links] [Only
Registered Users Can See Links] [Only
Registered Users Can See Links]
Hình 8
· Loại 2: dùng 2 sợi chỉ có kích thước lớn hơn,
phần trên của sợi chỉ thứ 2 nằm ở vị trí đường
hoàn tất sau cùng.
· Mài cùi đến phần trên của sợi chỉ thứ 2, hoàn
tất
· Đặt sợi chỉ thứ 3, đẩy 2 sợi chỉ trước về phía
chóp.
· Sau thời gian co tách nướu, rút sợi chỉ thứ 3,
lấy dấu sau cùng.
[Only Registered Users Can See Links] [Only
Registered Users Can See Links]
[Only Registered Users Can See Links] [Only
Registered Users Can See Links] [Only
Registered Users Can See Links] [Only
Registered Users Can See Links]
HÌnh 9
a. Thay đổi vị trí khoảng sinh học:
Trong 1 số trường hợp như thân răng quá ngắn;
cần thay đổi hướng răng sau phục hình; gãy
thân răng có đường gãy nằm trong khoảng sinh
học hoặc trong xương; sâu răng, phục hồi dưới
nướu quá gần xương ổ răng hay các trường
hợp kém thẩm mỹ do cười lộ nướu, đường viền
nướu không hài hòa, chúng ta phải di chuyển
khoảng sinh học về phía chóp răng. Nói cách
khác là phải thực hiện điều trị làm dài thân răng.
4. Kết luận:
Tình trạng lành mạnh của mô nha chu quyết
định sự thành công lâu dài của phục hình cả về
phương diện chức năng và thẩm mỹ. Trong quá
trình điều trị, ở nhiều trường hợp việc đặt đường
hoàn tất dưới nướu là điều không tránh khỏi.
Hiểu rõ quan niệm về khoảng sinh học sẽ giúp
ích cho việc xác định đúng vị trí đường hoàn tất.
Trong trường hợp cần đặt đường hoàn tất ở vị
trí quá gần xương ổ răng, phải tiến hành điều trị
làm dài thân răng trước nhằm đảm bảo đường
hoàn tất cách xương ổ răng > 2 mm, không xâm
phạm khoảng sinh học.