Âm Nhạc Và Trí Tuệ
Hiệu ứng Mozart không thể kéo dài sự cải thiện trong
chỉ số thông minh?
Mọi người đều đã từng nghe về Hiệu ứng Mozart - một giả
thuyết cho rằng bạn có thể tăng trí thông minh bằng cách
nghe nhạc giao hưởng - đặc biệt nhạc Mozart.
Các nghiên cứu khoa học đã khám phá ra: ở một số người,
có sự cải thiện ngắn về năng lực tầm nhìn không gian ngay
lập tức sau khi nghe một bản xô nát Mozart (Rauscher -
1003; Hetland 2000).
Tuy nhiên, tuyên bố của nhiều kết quả nghiên cứu đưa ra
lại đầy mâu thuẫn, một số nghiên cứu thông báo rằng họ
không đạt được kết quả đó.
Hơn nữa, cũng không có những bằng chứng thực sự rõ ràng
về việc âm nhạc có giúp tăng cường trí thông minh tạm thời
hay không.
Dường như một điều chắc chắn: con người cải thiện năng
lực hành động của mình khi làm việc trong môi trường âm
nhạc. Việc nghe nhạc có tác dụng nâng cao tâm trạng của
họ và làm họ cảm thấy lanh lợi hơn (Schellenberg 2005)
Điều quan trọng nhất cần lưu tâm: Các ảnh hưởng của âm
nhạc không xuất hiện và kéo dài hơn 10-15 phút.
Vậy, nếu bạn đang tìm kiếm một cách tốt nhất để nâng cao
hiệu quả trí thông minh cho con mình, Hiệu ứng Mozart là
một điều không hoàn toàn chắc chắn.
Âm nhạc có thể giúp con người thấy tỉnh táo lanh lợi trong
việc tập trung vào các nhiệm vụ liên quan tới không gian.
Bằng chứng là khi trẻ nghe nhạc trong giờ học vẽ, các tác
phẩm của trẻ sinh động, hấp dẫn, mang tính sáng tạo và
nghệ thuật cao hơn hẳn.
Nhưng âm nhạc là âm nhạc. Hãy nghe các bản nhạc với
mục đích chính là thưởng thức âm nhạc; đừng quá kỳ vọng
vào một giải pháp toàn năng.
Âm nhạc có tác động tới cấu tạo não bộ?
Hình ảnh kỹ thuật quét về não bộ cho phép các nhà thần
kinh học kiểm tra giả thuyết về sự liên kết giữa âm nhạc và
trí thông minh. Và một số kết quả khá rõ ràng: Những
người làm việc liên quan tới âm nhạc hay học tập-rèn luyện
âm nhạc, có một phần trên não bộ khác với những người
khác.
Ví dụ, nếu bạn kiểm tra bộ não của một người chơi bàn
phím, bạn sẽ thấy vùng não điều khiển chuyển động của
các ngón tay mở rộng hơn so với người bình thường
(Pascual - Leone 2001)
Ngoài ra, những hình ảnh quét về não trẻ 9-11 tuổi tiết lộ
rằng: những đứa trẻ chơi nhạc cụ đều có lượng chất xám
lớn hơn đáng kể trên phần vỏ não có chức năng cảm nhận,
vận động, và thùy chẩm (Schlau 2005)
Thực tế, những người chơi nhạc có một số vùng não bộ với
số lượng chất xám nhiều hơn một số vùng khác (Schaug
2005), và tác động của âm nhạc dường như giúp cảm xúc
và cường độ tập dượt tăng.
Một cuộc khảo sát nhằm so sánh giữa một bên là các người
chơi bàn phím chuyên nghiệp, một bên không chuyên. Mặc
dù cả 2 nhóm đều có tham gia luyện tập âm nhạc, nhóm
chuyên nghiệp luyện tập với thời lượng gấp hơn 2 lần. Kết
quả: Nhóm chuyên nghiệp có não bộ một số vùng số lượng
chất xám nhiều hơn. (Gaser và Schlaug 2003)
Không đơn giản, trong nhiều trường hợp của di truyền phát
sinh, tức: những người nhiều chất xám hơn có thể đều trở
thành nhạc công.
Một cuộc nghiên cứu với đối tượng không phải người chơi
nhạc đưa ra yêu cầu luyện tập các bài về ngón trên piano 2
giờ một ngày. Sau 5 ngày, các hình ảnh quét não cho thấy
vùng não liên đới điều khiển chuyển động tay đã mở rộng
và trở nên tích cực hơn. (Pascual - Leone 2001)
Như vậy, có rất nhiều bằng chứng về sự phát triển của não
bộ đã có phản ứng trong quá trình luyện tập âm nhạc. Có
phải sự khác nhau này cho thấy bản chất âm nhạc tác động
tới trí thông minh?
Có thể đúng thế. Trong cuộc nghiên cứu trên đối tượng trẻ
em 9-11 tuổi, các em có luyện tập âm nhạc làm một số bài
kiểm tra cùng với các em không có năng khiếu, kiến thức
âm nhạc. Các em này đạt được kết quả cao hơn hẳn trong
các bài thuộc phần từ vựng, nhịp điệu, cũng như có sự định
hướng không gian tốt. (Schlaug 2005)
Những cuộc nghiên cứu khác cũng thống kê phát hiện một
số những chú ý quan trọng sự khác biệt trong kết quả bài
kiểm tra giữa người học nhạc và không học nhạc.
Những trẻ em học nhạc thực hiện tốt hơn trên các
nhiệm vụ nhận thức.
Những người với sự đào tạo âm nhạc thường làm tốt hơn
những người ngang hàng không thích âm nhạc về những
bài kiểm tra thuộc nhận thức. (Schellenberg năm 2006)
Chẳng hạn, một cuộc nghiên cứu với trẻ 4-6 phát hiện rằng:
trẻ em được đào tạo với âm nhạc làm tốt hơn trong cùng
một bài kiểm tra liên quan sử dụng ghí nhớ. (Fujioka 2006)
Những nghiên cứu khác được (được xem xét lại bởi
Schellenberg 2006) cho thấy rằng: Trẻ em có học nhạc thực
hiện tốt hơn đáng kể trên những bài kiểm tra về:
• Kỹ năng không gian - thời gian
• Khả năng toán
• Kỹ năng đọc
• Từ vựng
• Ghi nhớ lời nói.
Và điều này cho thấy những người được đào tạo dạy dỗ
bằng âm nhạc thể hiện khả năng vượt trội trong các bài trắc
nghiệm về trí thông minh.
Schellenberg (2006) phát hiện ra rằng trẻ luyện các bài âm
nhạc có chỉ số IQ cao hơn một chút. Các ảnh hưởng được
tổng hợp trên một số khả năng trí tuệ khác nhau (vd: ngôn
từ, toán học, định hướng không gian-thời gian). Các bài học
âm nhạc đã được kết hợp, liên kết với khả năng - phẩm chất
trí tuệ hay thay đổi, chẳng hạn như:
• Trí nhớ làm việc.
• Tổ chức giác quan.
• Tốc độ xử lí.
Họ cũng liên kết với sự tăng khả năng hiểu lời nói - các
mức độ cao hơn khi học lên trung học phổ thông.
Những sự khác biệt này vẫn tương đối đáng kể sau khi
kiểm tra theo độ tuổi, theo sự hoạt động âm nhạc (luyện tập
- không luyện tập), theo thu nhập gia đình, và cách giáo dục
của cha mẹ.
Tại sao những bài học âm nhạc sẽ giúp tăng cường trí
thông minh?
Như những lưu ý của Schellenberg (2005) và những cuộc
nghiên cứu khác (Shlaug 2005), một số lượng lớn những
giả thuyết có thể giải thích. Ví dụ: Những bài học âm nhạc
có thể tăng trí thông minh bởi vì chúng luyện cho trẻ:
• Sự tập trung chú ý trong một khoảng thời gian dài
• Giải mã một hệ thống các ký hiệu biểu tượng tương đối
phức tạp (ký âm nhạc)
• Nhận ra những mẫu hình âm thanh theo thời gian
• Học về các nguyên tắc, quy luật âm nhạc
• Khả năng ghi nhớ những đoạn nhạc dài.
• Hiểu tỷ lệ số và những cách chia phần (vd: nốt nhạc ¼ =
½ của nốt nhạc đơn)
• Ứng biến theo một quy tắc âm nhạc đã học
Tất cả những lời giải thích này có điểm chung: khẳng định
các bài tập âm nhạc có thể tạo nên chỉ số thông minh cao
hơn.
Nhưng đó cũng chỉ là một hướng tìm hiểu theo cách: Âm
nhạc tạo ra ảnh hưởng, nhưng không là nguyên nhân dẫn
đến tăng trí thông minh.
Có sự liên kết di truyền?
Có thể bố mẹ với trí thông minh cao dường như con họ sẽ
có nhiều khả năng hơn trong các bài tập âm nhạc. Hoặc có
thể những đứa trẻ với chỉ số thông minh cao dường như có
thể gắn bó và yêu thích các bài tập âm nhạc, vì chúng thấy
âm nhạc rất đáng giá, tuyệt vời (Schellenberg 2006).
Cách tốt nhất để phủ nhận những lời giải thích về sự kế
thừa di truyền trong âm nhạc là sử dụng những cuộc kiểm
tra ngẫu nhiên với trẻ em không có sự đào tạo - luyện âm
nhạc từ trước. Một số cuộc nghiên cứu sử dụng cách tiếp
cận này. Kết quả đang gây kích thích trí tò mò với những
người quan tâm.
Các bằng chứng cho thấy sự luyện tập âm nhạc là nguyên
nhân - không những chỉ đơn thuần ảnh hưởng - mà còn làm
tăng cao trí tuệ:
Một nghiên cứu ngẫu nhiên trên trẻ 4 tuổi: Trong 6-8 tháng
liên tiếp luyện tập âm nhạc dưới sự kiểm soát, hướng dẫn,
kiểm tra của người lớn. Các trẻ em này nhận được sự
hướng dẫn luyện tập âm nhạc tốt hơn, do vậy làm các bài
về kỹ năng không gian kết quả cao hơn. (Rauscher et al
1997). Kết quả này đã được một cuộc thực nghiệm khác
khẳng định (Rauscher 2002).
Một nghiên cứu thực nghiệm ngẫu nhiên khác trên trẻ 6
tuổi: trẻ nhận một trong 4 kiểu đào tạo-luyện tập âm
nhạc trong suốt một năm học:
• Các bài học luyện bàn phím đàn
• Những bài luyện giọng
• Những bài tập kịch
• Không bài tập (không thử nghiệm)
Vào cuối năm học, hầu hết những người đã tham gia nhận
thử nghiệm đều thể hiện sự cải thiện chỉ số IQ. Tuy nhiên,
trẻ em nhận những bài học âm nhạc có sự cải thiện đáng kể
hơn so với những nhóm trẻ em khác (Schellenberg 2004)
Các kết quả này minh chứng cho giả thuyết: Việc luyện tập
âm nhạc có khả năng là nguyên nhân gây ra sự cải thiện chỉ
số IQ
Nhưng, theo nhà nghiên cứu E. Glenn Schellenberg, chúng
ta không biết sự tác động sẽ kéo dài trong bao lâu. Và ít
nhất một cuộc nghiên cứu về rèn luyện âm nhạc đã thất bại
trong sự tìm kiếm mối liên hệ giữa âm nhạc và trí tuệ
(Costa-Giomi 1999; Schellenberg 2006). Schellenberg đã
đề cập tới một vấn đề: nhiều người đã bỏ dở giữa chừng
trước khi cuộc nghiên cứu hoàn tất.
Vì vậy, cần nhiều cuộc nghiên cứu theo chiều sâu hơn
nữa.
Một cuộc nghiên cứu tương tự cũng đang được thực hiện
bởi Gottfried Schlaug và các đồng nghiệp của ông tại
Phòng thí nghiệm âm nhạc và Khả năng thần kinh tưởng
tượng tại trung tâm y tế Deaconess Israel Beth và khoa Y
Havard: theo dõi những tác động của các bài âm nhạc - đặc
biệt là những bài học piano và violin - lên sự phát triển não
bộ và nhận thức.
50 trẻ em, tuổi từ 5-7, bắt đầu tham gia chương trình nghiên
cứu mà không có sự đào tạo âm nhạc trước đó. Trước khi
bắt đầu các bài học âm nhạc, những đứa trẻ này được quét
não và làm một số bài kiểm tra nhận thức để thiết lập cơ sở
nền tảng xuất phát. Những nhà nghiên cứu cũng tiến hành
tách nhóm theo độ tuổi, tình trạng kinh tế xã hội và chỉ số
thông minh lời nói của trẻ.
Sau một năm nghiên cứu, các trẻ em được nhận đào tạo âm
nhạc thể hiện rõ ràng sự cải thiện tuyệt vời trong các kỹ
năng vận động và phân biệt thính giác. Mặc dù không có sự
khác biệt quan trọng theo thống kê giữa các nhóm, các trẻ
em học về âm nhạc cũng thể hiện xu hướng:
• Tăng số lượng chất xám trên vỏ não bộ.
• Tăng kết quả bài kiểm tra ngôn ngữ nói, khả năng không
gian-thời gian và toán
Kết luận:
Không ai bác bỏ quan điểm rằng gen góp phần quyết định
khả năng âm nhạc và trí thông minh. Nhưng những nhà
nghiên cứu nghi ngờ mạnh mẽ rằng sự luyện tập - đào tạo
âm nhạc có thể là nguyên nhân của một số tác động ảnh
hưởng tới chỉ số IQ cho trẻ. Hy vọng rằng, tương lai gần, sẽ
có nhiều hơn các bằng chứng chứng minh rõ ràng quan
điểm này.
Dù sao, các nhà khoa học và các nhà tâm lý - giáo dục vẫn
khuyên các bậc phụ huynh hãy định hướng và tạo điều kiện
cho trẻ tiếp xúc - thưởng thức âm nhạc ngay từ khi còn nhỏ.
Chúng ta cũng không nên xem nhẹ tầm quan trọng của kết
quả thành tựu nghiên cứu khoa học ban đầu về mối liên hệ
giữa âm nhạc với sự thông minh của con người.
Và bên cạnh đó, chúng ta không nên bỏ qua một điều hiển
nhiên: Những bài học âm nhạc về bản chất là đáng giá để
trẻ được học. Khi trẻ học chơi một nhạc cụ âm nhạc, chúng
sẽ hình thành nền tảng cơ bản cho sự đánh giá, thưởng thức
âm nhạc - hình thành thị hiếu âm nhạc trong cuộc sống sau
này.
Source:
Ngọc Mai mamnon.com