ĐỘC TỐ BOTULINUM A
TÓM TẮT
Đặt Vấn Đề: Độc tố botulinum A là một protein do vi trùng yếm khí
Clostridium botulinum tạo ra và là một độc tố mạnh nhất vốn gây ra bệnh
lạp trường độc do ngộ độc thức ăn, Độc tố thần kinh này đã được ứng dụng
trên lâm sàng lần đầu tiên vào năm 1977 để điều trị chứng lé mắt, Từ đó đến
ngày hôm nay, độc tố botulinum A đã trở thành một phương tiện điều trị
quan trọng và có hiệu quả đối với nhiều loại bệnh thần kinh, bệnh mắt và
một nhiều bệnh thuộc các chuyên khoa khác, Tại bệnh viện Đại Học Y Dược
Tp Hồ Chí Minh, độc tố botulinum toxin A đã được chính thức đưa vào ứng
dụng kể từ năm 2003 để điều trị một số bệnh loạn trương lực, liệt cứng và
đau mạn tính,
Mục Tiêu Nghiên Cứu: Nhằm đánh giá hiệu lực và tác dụng phụ của độc tố
botulinum A trong điều trị một số bệnh thần kinh gồm có co thắt nửa mặt,
hội chứng Meige, loạn trương lực cổ, một số thể của loạn trương lực thứ
phát và một số tình trạng đau mạn tính,
Đối Tượng và Phương Pháp Nghiên Cứu: Đây là một khảo sát hồi cứu mô
tả và cắt ngang được thực hiện trên các bệnh án của các bệnh nhân đã được
điều trị bằng độc tố botulinum A tại phân khoa thần kinh bệnh viện Đại Học
Y Dược Tp Hồ Chí Minh từ ngày 7 tháng 5 năm 2003 cho đến ngày 4 tháng
8 năm 2006, Tất cả các chẩn đoán của các bệnh nhân này đều được thực hiện
bởi một bác sĩ giảng viên chính về thần kinh học, dựa theo các đặc điểm lâm
sàng kinh điển liên quan tới từng bệnh rối loạn vận động và dựa theo các
tiêu chuẩn của IHS về đau đầu migraine mạn tính và đau đầu căng cơ mạn
tính, Đánh giá hiệu quả điều trị dựa trên kết quả của ít nhầt một lần khám
kiểm tra 2 tháng sau khi tiêm độc tố botulinum A và một phần thì dựa trên
báo cáo đánh giá của người bệnh, Phần mềm SPSS 11,5 được sử dụng để
phân tích thống kê các dữ liệu,
Kết Quả: Có 184 bệnh nhân đã được điều trị bằng botulinum toxin A
(Dysport
®
) trong khoảng thời gian 40 tháng này, Tổng số lượt tiêm thuốc
chúng cho tất cả các trường hợp là 413 lần, Các loạn trương lực chiếm đa số
(147 bệnh nhân), Độc tố botulinum A cũng đã được tiêm cho 21 bệnh nhân
mắc một chứng đau mạn tính (migrane mạn tính, đau đầu căng cơ mạn và
hội chứng đau cơ cân cơ) và 16 bệnh nhân liệt cứng sau đột quị, Liều trung
bình có tác dụng điều trị ở chứng co thắt nửa mặt là 80 m,u Dysport
®
, ở
chứng loạn trương lực cổ là 355 m,u, Tác dụng điều trị kéo dài trung bình 3-
5 tháng, ngắn nhất là 2 tháng, dái nhất là 11 tháng, Tác dụng phụ nhất thời
hay gặp nhất của tiêm botulinum toxin là xệ mép miệng, sụp mi, yếu một
nửa mặt và song thị (14,83%),
Kết Luận: Khảo sát hồi cứu này một lần nữa lại chứng minh tính hiệu quả
và an toàn vốn đã được biết rõ của botulinum toxin A trong điều trị một số
chứng bệnh loạn trương lực, liệt cứng và đau mạn tính, Khảo sát này cũng
cho thấy có một nhu cầu thật sự ở Việt Nam về việc tiếp tục phát triển
phương pháp điều trị này bới các bác sĩ thần kinh và các bác sĩ thuộc các
chuyên khoa khác đã được huấn luyện kỹ về phương điều trị bằng độc tố
botulinum A, Các nghiên cứu tiền cứu về ứng dụng điều trị botulinum toxin
A cũng rất cần thiết cho tương lai,
ABSTRACT
Background: Botulinum toxin A is a protein produced by the anaerobic
bacterium Clostridium botulinum, It is the most potent toxin known, and
was found to be the cause of botulism, By 1977, this neurotoxin was
introduced the first time into the clinical practice for the treatment of
strabismus, Since then to nowadays, botulinum toxin A has become an
important and efficient mean to the treatment of many neurological
disorders, ophthalmic diseases and other disorders belonging to other
medical and surgical subspecialties, Since 2003, botulinum toxin A was
formally introduced at the University Medical Center of Ho Chi Minh City
for the management of some forms of dystonia, spasticity and chronic
painful states,
Objectives: To evaluate the efficiency and the side effects of botulinum
toxin A in the treatment of current neurologic disorders including facial
hemispasm, Meige syndrome, cervical dystonia, some forms of secondary
dystonia, and some chronic painful conditions,
Patients and Method: This is a transverse descriptive retrospective study
based on the medical record of the patients being on botulinum toxin A
treatment at the Neurology Division of the Universty Medical Center of Ho
Chi Minh City from May 7, 2003 to August 4, 2006, All the diagnoses were
done by a senior neurologist, based upon the classical clinical features
related to every movement disorders and upon the IHS criteria for chronic
migraine and chronic tension type headache, The evaluation of the treatment
effectiveness was based at least on the clinical examination at 2 months after
the botulinum toxin A injection and upon the patient’s report, Statistical
analysis of the data was done by using SPSS 11,5 software,
Results: 184 patients were on botulinum toxin A (Dysport
®
) treatment
during this period of 40 months, A total of 413 times of treatment with
Dysport injection for all types of disorders was recorded, The dystonias were
the predominant disorders having an indication for botulinum toxin A
injection (147 patients), Botulinum toxin A was also applied to 21 patients
affected by chronic painful states (chronic migraine, chronic tension type
headache and myofascial pain syndrome), and 16 patients affected by post-
stroke spasticity, The mean effective dose of Dysport
®
for hemifacial spasm
was 80 m,u, and 355 m,u for cervical dystonia,The mean duration of
treatment effectiveness was 3-5 months, with the extremes of 2 months and
11 months duration, The most encountered transitory side effects of
botulinum toxin A injection were only found in the treatment of patients
with facial hemispasm, and included mouth weakness, ptosis, unilateral
focal paresis, diplopia,
Conclusion: Our retrospective study does show again the well known
efficiency and safety of botulinum toxin A in the treatment of dysonias,
spaticity and chronic painful states, and does demonstrate a real need to
expand this therapeutical mean by well trained neurologists and physicians,
Future prospective studies on the use of botulinum toxin A are mandatory
for its more efficient application among Vietnamese neurologists,
ĐẶT VẤN ĐỀ
Độc tố botulinum (botulinum toxin) là một độc tố sinh học mạnh nhất từng
được biết từ trước đến nay, Từ năm 1981 đã có báo cáo dùng độc tố
botulinum tiêm vào cơ mắt để điều trị tật lé mắt, Năm 1989, sau nhiều thử
nghiệm lâm sàng và xét nghiệm, Cơ quan quản lý thuốc và thực phẩm Hoa
kỳ (FDA) đã chứng nhận độc tố botulinum type A là thuốc điều trị cho bệnh
nhân lé mắt, co thắt mi mắt và chứng co thắt nửa mặt, Năm 2000, FDA
chứng nhận Botox
®
và độc tố botulinum type B trong điều trị loạn trương lực
cổ (cervical dystonia) và Botox Cosmetic trong điều trị nếp nhăn trán, Hiện
nay độc tố botulinum đã trở thành công cụ điều trị hiệu quả cho ngày càng
nhiều các rối loạn thần kinh cũng như các rối loạn không phải thần kinh,
Trên thế giới, độc tố botulinum là công cụ điều trị hiệu quả và an toàn không
những cho các chỉ định đã được chứng nhận mà còn cho các chỉ định chưa
được chứng nhận (off-label indication)
(3)
, Botulinum toxin đã được dùng thử
nghiệm có hiệu quả trong một số chứng đau như phòng ngừa migraine
(10,11)
và chứng đau có nguồn gốc từ sự co thắt cơ bất thường
(12)
.
Tại Việt Nam, trong vài năm gần đây đã bắt đầu ứng dụng độc tố botulinum
type A trong điều trị một số bệnh rối loạn vận động của chuyên khoa thần
kinh, cũng như một số bệnh thuộc các chuyên khoa khác như mắt, tai mũi
họng, thẩm mỹ, hậu môn học, tiết niệu, Kể từ năm 2003, phương pháp điều
trị các chứng loạn trương lực bằng độc tố botulinum đã được đưa vào ứng
dụng tại phân khoa thần kinh của Bệnh Viện Đại Học Y Dược Tp Hồ Chí
Minh và bước đầu đã đáp ứng tốt nhu cầu điều trị của người dân về nhóm
bệnh này, Những nhận định chính xác và hệ thống về phương pháp điều trị
bằng độc tố botulinum này trong điều kiện Việt Nam là rất cần thiết cho việc
triển khai tiếp tục kỹ thuật này ở một qui mô rộng rãi hơn cho những thời
gian sắp tới, và đó cũng chính là lý do để chúng tôi tiến hành khảo sát hồi
cứu về những gì đã được thực hiện trong vài năm vừa qua trong lĩnh vực
này.
Mục tiêu của nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Đánh giá hiệu quả và tính an toàn của độc tố botulinum A trong điều trị rối
loạn vận động, đau kháng trị và liệt cứng,
Mục tiêu cụ thể
- Nhận định về các thể lâm sàng thường gặp của các rối loạn vận động có chỉ
định điều trị bằng độc tố botulinum A.
- Nhận định về tính hiệu quả của độc tố botulinum A trong điều trị.
- Nhận định về các tác dụng phụ thường gặp của độc tố botulinum A.
- Bước đầu nhận định về liều lượng độc tố botulinum có hiệu lực điều trị trong
một số chứng loạn trương lực thường gặp ở người Việt Nam.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Đây là một khảo sát cắt ngang mô tả
Phương pháp thu thập dữ liệu
Chúng tôi tiến hành hồi cứu tất cả các hồ sơ bệnh án của các bệnh nhân được
điều trị bằng độc tố botulinum A tại phân khoa thần kinh Bệnh viện Đại Học
Y Dược từ 7/5/2003 đến 04/8/2006,
Các bệnh nhân này đều được điều trị bằng độc tố botulinum A có tên thương
mại là Dysport
®
do công ty Beaufour-Ipsen sản xuất, Chẩn đoán các bệnh
được một bác sĩ giảng viên chính về thần kinh học thực hiện và kiểm tra,
Chỉ định tiêm độc tố botulinum A (Dysport
®
) được áp dụng cho gồm có một
số lớn các bệnh nhân bị rối loạn vận động, ngoài ra còn được áp dụng cho
một số ít bệnh nhân bị đau kháng trị và một số ít bệnh nhân bị liệt cứng gây
đau và trở ngại lớn cho sinh hoạt thường ngày,
- Các rối loạn vận động sau đây được đưa vào điều trị sau khi đã được chẩn đoán
theo các tiêu chuẩn lâm sàng đã mô tả trong Handbook of botulinum toxin
treatment do Peter Moore chủ biên
(7)
, bệnh trong nhóm này gồm có chứng co thắt
nửa mặt, hội chứng Meige, loạn trương lực cổ, loạn trương lực trong bệnh Wilson,
loạn trương lực sau vàng da nhân và giật cơ, Xác định cơ để tiêm thuốc được dựa
trên thăm khám lâm sàng và không có sự hướng dẫn của điện cơ kim,
- Đau kháng trị được ghi nhận ở một số bệnh nhân mắc hội chứng đau cơ
cân cơ (myofascial pain syndrome), đau đầu hàng ngày mạn tính (gồm
migraine và đau đầu căng cơ), Chẩn đoán đầu migraine mạn tính và đau đầu
căng cơ mạn tính được dựa theo tiêu chuẩn chẩn đoán của International
Headache Society,
(9,10)
Chẩn đoán của hội chứng đau cơ cân cơ được thực
hiện dựa trên sự hiện diện của các điểm cò súng (trigger points) và dải cơ
căng cứng (taut band) và sau khi đã loại trừ chứng fibromyalgia trên các đặc
điểm lâm sàng khác,
(2)
Được xem là đau kháng trị khi các biện pháp điều trị
cắt cơn và điều trị phòng ngừa triệu chứng đau đã liệt kê trong các sách giáo
khoa về điều trị chứng đau có liên quan
(2,10)
đã được thực hiện đầy đủ nhưng
không hiệu quả,
- Liệt cứng gồm các trường hợp liệt cứng do các nguyên nhân khác nhau gây
đau và/hoặc gây giới hạn về mặt chức năng, Các trường hợp này được điều
trị tích cực bằng vật lý trị liệu kết hợp với tiêm Dysport
®
,
Hiệu quả điều trị của Dysport
®
được đánh giá dựa trên ghi nhận của bệnh nhân về
khoảng thời gian có thoái lui triệu chứng phối hợp với thăm khám sau khi tiêm
thuốc được ít nhất là hai tháng,
Tác dụng phụ được đánh giá dựa trên ghi nhận được thông báo qua điện
thoại của bệnh nhân và trên các triệu chứng lâm sàng thấy được khi tái
khám,
Xử lý dữ liệu
Dữ liệu được xử lý bằng phần mềm thống kê SPSS 11,5,
KẾT QUẢ
Số liệu tổng quát
Trong 3 năm từ tháng 07/5/2003 đến tháng 04/8/2006, có 184 bệnh nhân
được điều trị bằng Dysport
®
với 413 lượt điều trị, Có 88 bệnh nhân nam,
chiếm 47,8% và 96 bệnh nhân nữ, chiếm 52,2%, Tuổi trung bình là 52,22 ±
27,72,
Bảng 1: Số liệu tổng quát
Loạn
trương lực
Đau
kháng trị
Liệt
cứng
Nam
63 13 12
N
ữ 84 8 4
T
ổng số
147(79,9%)
21(11,4%)
16(8,7%)
Loạn
trương lực
Đau
kháng trị
Liệt
cứng
bệnh nhân
Tổng lư
ợt
điều trị
345(83,5%)
43(10,4%)
25(6,1%)
Số trư
ờng
h
ợp có tác
dụng phụ
37 0 0
Số lượt
đi
ều trị
trung
bình/b
ệnh
nhân
2,35 2,05 1,56
Tuổi
trung bình
52,39 ±
15,067
40,29 ±
9,915
70,94 ±
80,696
Li
ều điều
tr
ị trung
131,59 205,35 306,60
Loạn
trương lực
Đau
kháng trị
Liệt
cứng
bình(m,u,)
Phần lớn trường hợp loạn trương lực trong nghiên cứu của chúng tôi là co thắt nửa
mặt, loạn trương lực cổ (vẹo cổ co thắt) và hội chứng Meige,
Biểu đồ 1: Thời gian kéo dài tác dụng điều trị ở bệnh nhân mắc các bệnh
loạn trương lực được điều trị Dysport
®
:
Bảng,2: Các loại loạn trương lực
Loại bệnh Số
bệnh
nhân
Co thắt nửa mặt 103
Loạn trương lực cổ 15
Hội chứng Meige 18
Các loạn trương lực cục bộ khác
loạn trương lực sọ mặt
loạn phát âm co thắt
loạn trương lực cơ thẳng bụng
loạn trương lực nhiều đoạn
1
1
1
1
Loạn trương lực toàn thể 3
Các rối loạn vận động khác
loạn trương l
ực của bệnh
Wilson
loạn trương l
ực do di chứng
2
1
1
Loại bệnh Số
bệnh
nhân
vàng da nhân
myoclonus cơ sàn miệng v
à cơ
da cổ
Thời gian kéo dài tác dụng điều trị của Dysport
®
ở bệnh nhân loạn trương
lực trung bình 3-6 tháng,
Tác dụng phụ thường gặp nhất là xệ mép, kế tiếp là liệt mặt một bên và sụp
mi,
Bảng 3: Tác dụng phụ khi điều trị Dysport
®
ở bệnh nhân bị co thắt nửa mặt
Loại tác dụng phụ S
ố bệnh
nhân
Đơ miệng 2
Xệ mép 20
Liệt mặt một bên 6
Sụp mi 6
Song thị 2
Khó nuốt 1
Đặc điểm các trường hợp co thắt nửa mặt
Co thắt nửa mặt là loại rối loạn vận động được điều trị Dysport
®
nhiều nhất,
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 103 bệnh nhân được điều trị với 236 lượt
điều trị, Nữ giới thường gặp hơn nam giới, Ảnh hưởng bên phải và trái
tương đương nhau,
Bảng 4: Đặc điểm các trường hợp co thắt nửa mặt
Nam 38
N
ữ 65
Bên phải 50
Bên trái 53
Tuổi trung bình
55,42 ±
12,399
Th
ời gian từ lúc
kh
ởi phát đến lúc
sớm nhất
trễ nhất
2 tháng
17 năm
điều trị
Tổng lượt điều trị 236
Số lượt điều trị/bệnh nhân
2,3
Liều lượng(m,u)
83,90 ±
18,880
Thời gian kéo dài tác dụng trung bình 3-5 tháng
Biểu đồ 2: Thời gian kéo dài tác dụng ở bệnh nhân co thắt nửa mặt được
điều trị Dysport
®
:
Các tác dụng phụ thường gặp nhất của tiêm độc botulinum trong co thắt nửa
mặt là xệ mép và liệt mặt một bên (bảng 3),
Đặc điểm các trường hợp loạn trương lực cổ
Trong 3 năm, đã có 15 bệnh nhân được điều trị với 32 lượt điều trị,
Bảng 5: đặc điểm các trường hợp vẹo cổ
Nam
12
N
ữ 3
Tuổi trung bình
39,80 ±
14,006
Th
ời gian từ lúc
kh
ởi phát đến lúc
điều trị
sớm nhất
trễ nhất
1 tháng
34 năm
Tổng lượt điều trị 32
Số lượt điều trị/bệnh nhân
2,13
Liều lượng(m,u)
355,31 ±
101,885
Không có trường hợp nào có tác dụng phụ, Thời gian tác dụng kéo dài
khoảng 10 tháng,
BÀN LUẬN
Về đặc điểm tổng quát của việc ứng dụng độc tố botulinum trong điều
trị
Độc tố botulinum là các protein có cấu trúc phân tử tương tự nhau và có
trọng lượng phân tử khoảng 140-170 kDa, Các neurotoxin được tổng hợp ở
dạng chuỗi polypeptide đơn và có độc tính yếu, Khi được phóng thích khỏi
vi khuẩn Clostridium botulinum, chúng sẽ được phân tách và hoạt hoá bởi
enzym ly giải protein và tạo thành phân tử chuỗi kép có độc lực mạnh hơn
nhiều có cấu tạo gồm một chuỗi nặng (H, trọng lượng phân tử 85-105 kDa)
và một chuỗi nhẹ (L, trọng lượng phân tử 50-59 kDa) nối với nhau bởi cầu
disulphide, Giá trị điều trị của độc tố botulinum xuất phát từ khả năng gây
ức chế phóng thích acetylcholin từ tận cùng thần kinh tiền sinap gây mất chi
phối hoá học tại cho, Hiện nay, độc tố botulinum A đã được ứng dụng điều
trị rộng rãi trong nhiều chứng bệnh khác nhau,
3,7
Ứng dụng lâm sàng của Botulinum toxin
Loạn trương lực
- Co thắt mi mắt và mất thực dụng mi mắt (lid apraxia)
- Loạn trương lực miệng hàm-mặt-lưỡi
- Loạn trương lực cổ (vẹo cổ)
- Loạn trương lực thanh quản (loạn phát âm co thắt)
- Loạn trương lực chi
- Loạn trương lực chuyên biệt động tác (task specific dystonia)
- Các loạn trương lực cục bộ/đoạn khác (nguyên phát, thứ phát)
Các rối loạn vận động khác
- Co thắt nửa mặt
- Run chi, đầu, phát âm, cằm
- Myoclonus khẩu cái
- Tic vận động và tic phát âm
- Rung giật nhãn cầu (nystagmus và oscillopsia),
Co cơ bất thường
- Liệt cứng (đột quỵ, bại não, chấn thương đầu, bệnh xơ cứng rải rác)
- Đơ cứng gây đau
- Lé mắt
- Chứng nghiến răng và hội chứng khớp thái dương-hàm,
- Đau đầu căng cơ mạn
- Co thắt cơ thắt lưng
- Bệnh rễ kèm co thắt cơ thứ phát
- Hội chứng đau cơ cân cơ (Myofascial pain syndrome),
- Co thắt tâm vị (co thắt cơ vòng thực quản dưới),
- Co thắt cơ khít hầu dưới,
- Co thắt cơ vòng Oddi,
- Bàng quang ở người liệt cứng (spastic bladder), mất đồng vận cơ detrusor-
cơ vòng,
- Chứng co thắt cơ vòng hậu môn (anismus),
- Chứng co thắt âm đạo (vaginismus),
Các ứng dụng khác
- Sụp mi bảo vệ,
- Chứng chảy nước mắt nhiều,
- Chứng chảy nước dãi nhiều,
- Chứng tăng tiết mồ hôi,
- Nứt hậu môn,
- Táo bón,
- Béo phì,
- Thẩm mỹ (nếp nhăn trán, vết chân chim, nếp nhăn cơ da cổ, bất đối xứng
mặt),
- Tennis elbow và các chấn thương thể thao khác,
Trong thời gian khoảng 3 năm, từ tháng 07/5/2003 đến tháng 04/8/2006, tại
Phân khoa Thần kinh Bệnh viện Đại Học Y Dược đã có 184 bệnh nhân với
413 lượt điều trị bằng độc tố botulinum type A dưới dạng Dysport
®
, Nhu cầu
điều trị một số chứng bệnh bằng độc tố botulinum A như vậy là đáng kể,
Phần lớn các trường hợp bệnh được điều trị bằng Dysport
®
trong nghiên cứu
của chúng tôi là các bệnh loạn trương lực (dystonias) thuộc nhóm lớn các rối
loạn vận động, Các bệnh loạn trương lực trong lô nghiên cứu của chúng tôi
cũng bao gồm các loạn trương lực nguyên phát và thứ phát thường gặp, đặc
biệt là chứng co thắt nửa mặt, loạn trương lực cổ, và hội chứng Meige,
(3,7)
Đây là nhóm bệnh nhân chúng tôi tiến hành điều trị bằng Dysport
®
sớm nhất
sau khi chẩn đoán bệnh, Liều điều trị thấp nhất, Số lượng bệnh nhân tương
đối nhiều, Thời gian tác dụng kéo dài trung bình 3-6 tháng, Tuy nhiên đây
cũng là nhóm thường gặp tác dụng phụ nhất, chủ yếu là các tác dụng phụ
gây liệt cơ tại chỗ thoáng qua,
Những trường hợp đau kháng trị cũng thường gặp trên lâm sàng, Những
bệnh nhân đau kháng trị là các bệnh nhân trẻ nhất, Điều này phù hợp với y
văn vì các bệnh nhân đau kháng trị trong nghiên cứu của chúng tôi chủ yếu
là các bệnh nhân đau cơ cân cơ hay đau đầu hàng ngày mạn tính diễn tiến từ
đau đầu căng cơ hay migraine, Các nghiên cứu trước đây cho thấy hiệu quả
giảm đau của độc tố botulinum là do các cơ chế khác chứ không phải nhờ
tác dụng giảm trương lực cơ, Các cơ chế có khả năng giải thích hiệu quả
giảm đau của Botulinum toxin gồm có:
(3)
- Ức chế phóng thích các chất gây nhạy cảm thụ thể đau ở cơ
- Ức chế phản ứng viêm do thần kinh
- Ức chế chất P, glutamate, và các peptide và chất dẫn truyền thần kinh khác
liên quan đến điều hoà đau,
- Ảnh hưởng trên các sợi hướng tâm thoi cơ, làm thay đổi kiểu phóng lực
của các phóng chiếu trên gai và thay đổi quá trình xử lý cảm giác trung
ương,
Trong 21 bệnh nhân đau kháng trị, có 15 bệnh nhân hội chứng đau cơ cân cơ
và 6 bệnh nhân đau đầu hàng ngày mạn tính, Liều điều trị Dysport
®
để giảm
đau trong nghiên cứu của chúng tôi khoảng 200 m,u, Thời gian tác dụng của
thuốc kéo dài khoảng 8 tháng, Có lẽ do các trường hợp đau kháng trị, ngoài
điều trị Dysport
®
, bệnh nhân cũng được điều trị nội khoa tích cực nên thời
gian cải thiện triệu chứng khá dài, Các tác giả nước ngoài khuyến cáo liều
Dysport
®
ở bệnh nhân hội chứng đau cơ cân cơ khoảng 50-100 m,u cho mỗi
điểm cò súng (trigger point), tổng liều không quá 1000 m,u để tránh các tác
dụng phụ toàn thân; liều Dysport
®
ở bệnh nhân đau đầu căng cơ mạn từ 200-
500 m,u,
(5)
Nhìn chung liều Dysport
®
trong nghiên cứu của chúng tôi thấp
hơn các tác giả nước ngoài, Có lẽ do thể tạng người Việt nam nhỏ hơn, thể
tích cơ nhỏ hơn nên cần liều thấp hơn, Mặc dù cần liều Dysport
®
cao nhưng
đây là nhóm bệnh nhân tương đối an toàn, Chúng tôi không gặp tác dụng
phụ nào tại chỗ cũng như toàn thân ở các bệnh nhân này,
Các bệnh nhân liệt cứng trong nghiên cứu của chúng tôi chủ yếu là do di
chứng đột quỵ nên thường gặp ở người lớn tuổi, Chỉ có một trường hợp liệt
cứng do di chứng bại não, Liều điều trị Dysport
®
trung bình khoảng 300
m,u, Trong nghiên cứu của chúng tôi, do chưa sử dụng một thang điểm
thống nhất để khảo sát trương lực cơ và đau trước và sau điều trị Dysport
®
nên chưa thể đánh giá được mức độ hiệu quả của Dysport
®
ở bệnh nhân liệt
cứng, Các nghiên cứu trước đây cho thấy Botulinum toxin giúp cải thiện có
ý nghĩa về mặt chức năng và giảm triệu chứng đau đi kèm ở các bệnh nhân
liệt cứng do đột quỵ, bại não và bệnh xơ cứng rải rác,
(1,7)
Đối với chứng co thắt nửa mặt
Trong nghiên cứu của chúng tôi, liều điều trị Dysport
®
ở bệnh nhân co thắt
nửa mặt là thấp nhất, khoảng 80 đơn vị, Kết quả này tương tự nghiên cứu
của các tác giả khác,
(4)
Có sự khác biệt về liều Dysport
®
và Botox
®
, Người ta
dùng thử nghiệm bảo vệ chuột (mouse protection assay: MPA) để định liều
chuẩn của các dạng trình bày khác nhau, Một đơn vị độc tố botulinum A là
lượng độc tố tiêm vào khoang phúc mạc đủ để giết chết 50% (LD
50
) số chuột
trong nhóm, Do có sự khác biệt về cách test MPA của các nhà sản xuất nên
1 đơn vị Botox
®
tương đương 3-5 đơn vị Dysport
®
,
(3,5,7,8)
Thời gian tác dụng kéo dài trung bình 3-5 tháng, Ngắn nhất là 2 tháng, lâu
nhất là 11 tháng, Không ghi nhận trường hợp nào không đáp ứng với điều trị
Dysport
®
, Tác dụng phụ khá thường gặp, với 35 trường hợp gặp tác dụng
phụ trong 236 lượt điều trị, chiếm 14,83% trường hợp, Trong nghiên cứu
của chúng tôi chỉ gặp các tác dụng phụ tại chỗ gây yếu cơ tạm thời và tự hồi
phục trong vài tuần, Jitpimolmard và cộng sự nghiên cứu 175 bệnh nhân co
thắt nửa mặt với 855 lượt điều trị bằng Dysport
®
nhận thấy tỷ lệ đáp ứng
97%, thời gian cải thiện triệu chứng kéo dài trung bình 3,4 tháng,
(4)
Tác
dụng phụ thường gặp nhất là sụp mi, chiếm 9,67-27,17%, Sự khác biệt về
hiệu quả điều trị cũng như các tác dụng phụ có lẽ là do khác biệt kỹ thuật
tiêm,
Số lượt điều trị trung bình/bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi là 2,3
lượt, Có 2 bệnh nhân đã được điều trị 7 lượt, Chúng tôi ghi nhận có hiện
tượng khoảng thời gian cải thiện triệu chứng ngắn lại dần ở 2 bệnh nhân này,
Có thể đây là những trường hợp đã xuất hiện kháng thể trung hoà
(neutralising antibody), Tuy nhiên cần có thêm thời gian để theo dõi các
trường hợp này, Một nghiên cứu trước đây nhận thấy có 2% bệnh nhân xuất
hiện kháng thể phong bế (blocking antibody) sau tối thiểu 6 lần điều trị bằng
Dysport
®
,
(6)
Đối với chứng loạn trương lực cổ hay vẹo cổ co thắt
Trong nghiên cứu của chúng tôi, mặc dù số lượng bệnh nhân không nhiều
nhưng cũng có thể thấy vẹo cổ thường gặp ở nam nhiều hơn nữ, Độ tuổi
trung bình của bệnh nhân khi đến điều trị Dysport
®
là 40 tuổi, Tuy nhiên
phần lớn bệnh nhân có khởi phát bệnh từ nhiều năm trước đó, Những bệnh
nhân này hoặc chưa được điều trị hoặc được điều trị nội khoa thất bại, Có
một bệnh nhân khởi phát bệnh từ 34 năm trước, Những trường hợp điều trị
muộn thường kèm biến chứng thoái hoá cột sống cổ và chèn ép tuỷ, Do đó
hiệu quả hồi phục chức năng ở các bệnh nhân này không cao, Trong tương
lai cần có chương trình phổ biến kiến thức về thể bệnh này nhằm giúp chẩn