Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Ngất ngây rượu cần Nam Tây Nguyên doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.75 KB, 4 trang )

Ngất ngây rượu cần Nam Tây Nguyên
Nhiều người cũng đã thưởng thức rượu
cần Tây Nguyên, nhưng ít ai biết đến thứ
“nguyên liệu chính hiệu” để làm nên nó:
Men rừng! Thứ “men” mà từ lâu như sợi
chỉ dệt nên những tấm ui (phụ nữ thường
làm xà rông) - tự nó lưu truyền đời này
qua đời khác, gắn chặt với đời sống cộng
đồng bà con bản địa và làm nên một loại “Thức uống tâm linh” của bản làng -
rượu cần.

Chị Đường Dẫu Hà, ngụ tại Tà Nung (Đà Lạt), người có công khôi phục lại
thương hiệu rượu cần của địa phương trước đây cho biết: “Để làm được một choé
rượu cần phải trải qua rất nhiều công đoạn. Các loại gạo, nếp, sắn…nói chung ngũ
cốc có tinh bột đều làm được rượu. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất vẫn là tạo ra
mùi hương”. Để tạo nên mùi hương đặc trưng cho rượu cần, nhiều người sử dụng
gần 30 vị thuốc như sa nhân, đinh hương, quế, thảo khấu… tạo ra hương vị cay,
đắng, ngọt, thơm… Nhưng, đó vẫn mới chỉ là loại rượu cần thương phẩm. Muốn
có một ché rượu cần ngon đúng nghĩa, theo đồng bào dân tộc Cil ở thôn Măngline
(Đà Lạt) thì cần phải có loại men rừng. Nhưng loại men này không mấy người làm
được.

Vào mùa xuân, khi cây atisô rừng bắt đầu ra hoa và cho nhựa…, những người làm
rượu cần vào tận rừng sâu để tìm rễ và bông của loại cây này (đây là hương liệu
chính của rượu cần) mang về phơi khô và giã thành bột để làm men (đồng bào
K’Ho gọi là “dòng”). Anh Păng Til Mút cho biết: “Đây là loại men có tính độc mà
đồng bào còn gọïi là “pơ ngai”. Loại men này có thể gây chết người ở liều lượng
cao. Tuy nhiên, ở liều lượng nhỏ, nó chỉ làm cho tâm hồn ngất ngây mà thôi. Kế
đến lấy bột men trộn đều với cơm gạo, nếp hoặc bắp , sau đó giã thành bột và tạo
thành những “vú men” cỡ như cái chén đem hong trên bếp lửa và sau một thời
gian ngắn sẽ hoá thành men có màu trắng đục. Đây mới chính là loại men rừng


dùng để làm rượu cần đúng nghĩa.

Điều đặc biệt, việc làm rượu cần còn phụ thuộc rất nhiều vào những chiếc choé.
Choé càng cổ rượu càng ngon vì ruột những chiếc choé cổ không tráng men dễ
dàng để cho men rượu bám và lên men. Theo đồng bào dân tộc bản địa ở đây, để
cho “ra lò” một choé rượu cần ngất ngây men rừng như vậy ít nhất phải mất 6
tháng. Khi đó, trị giá của ché rượu cần trở thành “vô giá”… Đó cũng chính là niềm
vinh hạnh của người được mời thưởng thức những ché rượu này, nhưng nghịch lý
của loại rượu chính hiệu này lại không “sống” được bên cạnh những ché rượu cần
thương phẩm.

* THỨC UỐNG TÂM LINH

Không phải ngẫu nhiên mà rượu cần trở thành một thức uống tâm linh của đồng
bào dân tộc ít người ở vùng Nam Tây Nguyên. Bởi rượu cần được làm từ men của
rừng, uống ở rừng, “tắm” trong không gian văn hoá của lễ hội của rừng… Rượu
chỉ dùng trong một không gian văn hoá tâm linh, văn hoá lễ hội xung quanh bếp
lửa, nhà dài…với những nghi thức mời rượu huyền ảo trong tiếng cồng, chiêng
mênh mang, vang vọng ở chốn đại ngàn.

Mặc dù chưa có một tài liệu nào chính thức nói về nguồn gốc ra đời của rượu cần,
nhưng theo các già làng cho biết, thuở xưa xuất phát từ việc cúng bái thần linh,
một số người dùng “men” được chế biến từ cây rừng trộn với cơm hèm, ủ vào
trong những quả bầu khô để dâng cho thần linh. Sau lễ, mọi người đập bầu và chia
nhau phần cơm để “mút” (từ của dân tộc bản địa Đà Lạt), và cụ Nhím (cách gọi
trân trọng của đồng bào ở đây dành cho con vật thiêng: Nhím rừng) thấy được mới
bày cho cách ủ rượu cần, và cách dùng cần để uống, cũng vì vậy mà người dân tộc
có thói quen trước khi uống rượu cần đều mời thần linh và cụ Nhím uống trước.
Hiện nay, một số bôn làng ở Di Linh, Đơn Dương vẫn còn giữ thói quen mỗi khi
uống rượu cần thường buộc một sợi lông Nhím vào cần để ghi nhớ công lao của

Cụ Nhím.

Đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng Nam Tây Nguyên này xem rượu cần là “thức
uống tâm linh”, bởi nó vừa có thần thánh, lại vừa có con người hiện hữu bên ché
rượu. Cái đẹp của rượu cần chính là ở nghi thức mời rượu, mỗi tộc người có một
cách mời rượu khác nhau, từ đó góp phần tạo nên văn hoá cho rượu cần.

* CÁCH THƯỞNG THỨC RƯỢU

Không ít người đã từng nếm thử rượu cần, nhưng để lĩnh hội hết cái hồn, cái men
nồng ngất ngây của rượu cần thì quả là không dễ. Tôi có may mắn, đã từng được
uống và cũng không bao giờ quên cái lần uống đầu tiên - khi về công tác tại vùng
đồng bào dân tộc ít người tại Tà Nung (TP. Đà Lạt) ấy. Với tôi, lần uống rượu cần
đầu tiên đó, nó say đắm đuối như mối tình đầu, vừa êm dịu, vừa ngất ngây, diệu
vợi… Và tôi, tôi đã bay tận cùng trong cái nắng hanh hao nhuộm vàng sắc hoa dã
quỳ của buổi chiều mùa khô Tây Nguyên trên những ngôi nhà trầm mặc. Trong
không gian của ngôi nhà dài huyền ảo lung linh mặt người, rồi ánh lửa hồng bùng
lên thay cho ánh hoàng hôn tắt lịm, tôi như ngất ngây với thứ thức uống là lạ, ngọt
lừ, dìu dịu say lúc nào không biết, bên tai chỉ còn nghe văng vẳng tiếng cồng ầm
ừ, tiếng chiêng vang vọng, tiếng khèn bức bối dội âm ba vào vách núi hoà lẫn với
tiếng thác đổ, tiếng tác tác của con nai hoà lẫn với tiếng của đại ngàn xanh ngát
màu xanh.

Đồng bào dân tộc ít người ở vùng Nam Tây Nguyên thường hay có cách đãi khách
quý bằng rượu cần. Ché rượu cần được mang ra để ở giữa nhà sàn, chủ nhà cầm
cần bằng hai tay hơi nâng lên như tế lễ để đưa cần cho người được tiếp đãi cắm
cần vào ché. Nếu khách đông, mỗi người sẽ chuyền cần cho nhau bằng hai tay từ
phải qua trái, nếu cầm một tay phải cầm tay phải vì đối với người đồng bào dân
tộc thiểu số cầm tay trái là khinh họ. Người chủ nhà phải uống trước một ly để
chứng tỏ rượu không có độc tiếp đến mới mời khách. Thường thì khi được mời,

khách phải uống cạn ống nước đầu tiên, theo truyền thống, uống tình cảm là xoay
vòng; uống thân thiện, tri kỷ thì cùng uống, còn uống hoà giải - phải có kèm theo
con gà, hoặc vòng cườm để làm chứng, người chịu lỗi uống trước, gà sẽ được làm
thịt và lấy giò để cho già làng xem người có lỗi thành thật hay không. Riêng trong
lễ đâm trâu, thì mọi người thi nhau uống, mỗi làng sẽ đại diện một người, ai uống
nhiều hơn thì làng đó thắng.

×