Tải bản đầy đủ (.pdf) (269 trang)

phát triển giáo dục việt nam trong nền kinh tế thị trường và trước nhu cầu hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.98 MB, 269 trang )


bộ khoa học và công nghệ
_____

Đề tài độc lập cấp nhà nớc
Mã số: ĐTĐL.2007G/53




Cơ quan chủ quản Đề tài
: Văn phòng Chính phủ
Cơ quan chủ trì Đề tài: Văn phòng Hội đồng Quốc gia Giáo dục





báo cáo tổng hợp đề tài

phát triển giáo dục việt nam trong
nền kinh tế thị trờng và trớc
nhu cầu hội nhập quốc tế










Chủ nhiệm Đề tài:
Pgs.TS. trần quốc toản





8719


Hà Nội - 2010


MỤC LỤC
_______


Phần thứ nhất
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN GIÁO
DỤC TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ
HỘI NHẬP QUỐC TẾ

1
Chương I. Một số quan điểm và khái niệm cơ bản về phát
triển giáo dục trong nền kinh tế thị trường

1
1.1. Tư tưởng kinh tế giáo dục của Chủ nghĩa Mác
1

1.2. Vốn nhân lực (Human Capital)
6
1.3. Một số khái niệm về giáo dục trong kinh tế thị trường
9
Chương II. Giáo dục trong điều kiện kinh tế thị trường
23
I. Các yếu tố và quá trình giáo dục trong điều kiện kinh tế thị
trường
23
II. Tác động của kinh tế thị trường đối với giáo dục
32
Chương III. Bản chất của Giáo dục trong điều kiện kinh
tế thị trường

46
I. Giáo dục là phúc lợi xã hội và Giáo dục là hàng hoá dịch vụ
46
1. Giáo dục là phúc lợi xã hội
46
2. Dịch vụ Giáo dục, đào tạo
48
3. Đặc điểm của thị trường hàng hoá dịch vụ giáo dục đào tạo
51
II. Một số vấn đề về cơ sở giáo dục vì lợi nhuận và cơ sở giáo dục
không vì lợi nhuận
60
1. Cơ sở giáo dục - đào tạo vì lợi nhuận
60
2. Cơ sở giáo dục - đào tạo không vì lợi nhuận
64


II
3. So sánh giữa các cơ sở giáo dục - đào tạo vì lợi nhuận và các cơ
sở giáo dục đào tạo không vì lợi nhuận
65
Chương IV. Cơ chế phát triển giáo dục - đào tạo trong
điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế

68
I. Giáo dục trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế 68
1. Kênh gián tiếp 69
2. Kênh trực tiếp 70
II. Chi phí giáo dục - đào tạo trong điều kiện kinh tế thị trường và
hội nhập quốc tế
72
1. Chi phí giáo dục, đào tạo 73
2. Chi phí hữu hình và chi phí vô hình trong giáo dục, đào tạo 74
3. Chi phí hữu hình và chi phí vô hình đối với trường công và
trường tư
75
4. Bản chất kinh tế - xã hội của nguồn tài chính của Nhà nước chi
cho giáo dục - đào tạo
77
III. Sự thay đổi chức năng của các chủ thế tham gia giáo dục, đào
tạo trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
79
1. Những chủ thế chủ yếu tham gia vào quá trình giáo dục, đào
tạo
79

2. Mối quan hệ công - tư trong phát triển giáo dục, đào tạo 81
IV. Hình thành cơ chế phát triển giáo dục mới 84
1. Vai trò của Nhà nước 85
2. Vai trò của cơ chế thị trường 86
3. Tự chủ của các đơn vị cung ứng HHDV giáo dục đào tạo 87
4. Trách nhiệm của người học 88
5. Vai trò của xã hội 89
Phần thứ hai
MỘT SỐ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ PHÁT TRIỂN
GIÁO DỤC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ
HỘI NHẬP QUỐC TẾ

90
Chương I. Một số mô hình giáo dục trong các nền KTTT
90

III
1.1. Đặt vấn đề 90
1.2. Một số mô hình giáo dục trong các nền KTTT 92
Chương II. Những vấn đề rút ra từ kinh nghiệm phát
triển giáo dục của các nước trên nền KTTT

109
2.1. Quan niệm về giáo dục và chính sách đầu tư cho giáo dục 109
2.2. Đa dạng hoá các loại hình giáo dục và sự hình thành các thị
trường hàng hoá dịch vụ giáo dục
112
2.3. Vận dụng các yếu tố của thị trường để phát triển giáo dục 115
2.4. Chú trọng nâng cao chất lượng và đảm bảo công bằng giáo
dục

122
2.5. Kiểm định chất lượng - một công cụ quan trọng để đảm bảo
chất lượng giáo dục
123
2.6. Vai trò của Nhà nước và của thị trường trong giáo dục 125
Phần thứ ba
THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VIỆT NAM
TRONG QUÁ TRÌNH CHUYỂN ĐỔI SANG KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

127
Chương I. Thực tiễn phát triển giáo dục Việt Nam trong
các giai đoạn

127
1.1. Giai đoạn 1955 đến 1975 127
1.2. Giai đoạn 1976 đến 1986 132
1.3. Giai đoạn 1986 đến nay 136
Chương II. Phân tích, đánh giá sự tác động của kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế đối với giáo dục
và đào tạo trong thời gian qua

146
2.1. Sự thay đổi nhận thức


2.2. Sự thay đổi vai trò của nhà nước, nhà trường, người học và
gia đình

148

2.3. Những ảnh hưởng của quá trình hội nhập, toàn cầu hóa về
giáo dục
152
2.4. Một số vấn đề về tài chính giáo dục trong nền kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế
157

IV
2.5. Đánh giá phát triển giáo dục - đào tạo trong nền kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế qua các cuộc khảo sát
169
2.6. Đánh giá tổng quát sự phát triển của giáo dục Việt Nam trong
thời gian qua
182
Phần thứ tư
PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO VIỆT NAM
TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ HỘI
NHẬP QUỐC TẾ TRONG GIAI ĐOẠN MỚI
Chương I. bối cảnh, yêu cầu và quan điểm phát triển giáo
dục - đào tạo trong giai đoạn mới

185
I. bối cảnh trong nước và quốc tế 185
1. Bối cảnh trong nước 185
2. Bối cảnh quốc tế 187
3. Cơ hội và thách thức đối với phát triển giáo dục - đào tạo Việt
Nam
189
II. Yêu cầu, sứ mạng và mục tiêu của giáo dục - đào tạo Việt Nam
trong giai đoạn mới

191
III. Quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục - đào tạo trong điều kiện
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
195
Chương II. Cơ chế và giải pháp phát triển giáo dục - đào
tạo trong điều kiện kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế

197
I. Cơ chế phát triển giáo dục - đào tạo trong điều kiện kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế

197
1. Vai trò chủ đạo của nhà nước 198
2. Vai trò của thị trường - cơ chế thị trường 199
3. Tự chủ của các cơ sở giáo dục - đào tạo 200
4. Trách nhiệm của người học 200
5. Vai trò của xã hội 201

V
II. Vấn đề đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát
triển giáo dục - đạo tạo trong điều kiện kinh tế thị trường và
hội nhập quốc tế

202
III. Các giải pháp chủ yếu phát triển giáo dục - đào tạo trong điều
kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
204
1. Những giải pháp chung 204
1.1. Đẩy mạnh đổi mới tư duy giáo dục 204

1.2. Đổi mới mạnh mẽ và tăng cường quản lý nhà nước về giáo
dục, đào tạo
205
1.3. Hoàn thiện về thực hiện có hiệu quả cơ chế tự chủ các cơ sở
giáo dục - đào tạo
208
1.4. Hoàn thiện và phát triển hệ thống giáo dục 211
1.5. Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình và phương pháp
giáo dục - đào tạo
212
1.6. Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất và năng lực của đội
ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục - đào tạo
213
1.7. Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục đào tạo 214
1.8. Đẩy mạnh xã hội hóa, huy động sự tham gia của toàn xã hội
và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển và nâng
cao chất lượng giáo dục, đào tạo
215
1.9. Đảm bảo ngày càng tốt hơn công bằng, bình đẳng và các
chính sách xã hội trong giáo dục, đào tạo
215
2. Vận dụng cơ chế và các giải pháp phù hợp với từng cấp, bậc
học và điều kiện phát triển của từng vùng, địa phương
216
2.1. Đối với giáo dục mầm non 217
2.2. Đối với giáo dục phổ thông 217
2.3. Đối với giáo dục nghề 217
2.4. Đối với giáo dục đại học và sau đại học 218
2.5. Đối với giáo dục không chính quy và phí chính quy


VI
2.6. Chính sách phát triển giáo dục, đào tạo cho các vùng 220
KẾT LUẬN 221
TÀI LIỆU THAM KHẢO 224




1

BÁO CÁO TỔNG HỢP KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU


Phần thứ nhất

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC
TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ HỘI NHẬP
QUỐC TẾ

Chương I
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN
GIÁO DỤC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

I.1. Tư tưởng kinh tế giáo dục của chủ nghĩa Mác
1


1.1.1. Học thuyết lao động giáo dục

Marx- Engels cho rằng, cái gọi là lao động chính là chỉ lao động sản

xuất (SX) vật chất có thể trực tiếp tạo ra giá trị sử dụng. “lao động trước
hết là một quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong
đó, bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian, điều tiết và
kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên”
2
. Nội dung của nó là sự biến
đổi vật chất, kết quả của nó là sản phẩm vật chất. Điều này cũng chính như
lời Marx nói: “Nếu đứng về mặt kết quả của nó, tức là đứng về mặt sản
phẩm mà xét toàn bộ quá trình, thì cả tư liệu lao động lẫn đối tượng lao
động đều biểu hiện ra là tư liệu SX, còn bản thân lao động thì biểu hi
ện là
lao động SX
3
”.



1
Đặng Ứng Vận Phát triển GD đại học trong nền kinh tế thị trường. NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội 2006
2
Marx K. Tư bản (bản dịch tiếng Việt NXB Tiến bộ Mátxcơva – NXB Sự thật Hà Nội 1984.
Phần 1 trang 230. Bản tiếng Anh: Labour is, in the first place, a process in which both man and
Nature participate, and in which man of his own accord starts, regulates, and controls the
material re-actions between himself and Nature. – lao động là quá trình mà trong đó có sự tham
gia của con người và tự nhiên, và trong đó con người tự nguyện khởi đầu, điều chỉnh và chế
ngự tương tác vật chất giữa họ và tự nhiên.
3
Sách dã dẫn Phần 2 trang 7.




2

Nếu quan sát từ hình thái xã hội và quan hệ SX tư bản chủ nghĩa thì chỉ
có lao động SX tư bản, SX giá trị thặng dư mới là lao động SX. Nếu sức lao
động chỉ là tạo giá trị tiêu dùng cho chính mình, không tạo ra giá trị thặng
dư thì đó không phải là lao động SX. “Chỉ có người lao động nào SX ra giá
trị thặng dư cho nhà tư bản, hoặc phục vụ cho tư bản tự tăng thêm giá trị, thì
mới đượ
c coi là người lao động SX”
4
. Marx- Engels đã nói: “người thầy
giáo - nếu được phép chọn một ví dụ ngoài lĩnh vực SX vật chất – là một
người lao động SX, nếu như người đó không những mở mang đầu óc cho
trẻ em, mà còn là vì anh ta đã nai lưng ra làm giàu cho nhà kinh doanh.
Nhà kinh doanh này bỏ tư bản vào một xưởng dạy học, hay bỏ vào một
xưởng lạp xường, thì tình hình cũng không thay đổi chút nào cả
3
”. Căn cứ
vào lý luận liên quan tới lao động SX và lao động phi SX của Marx-
Engels, về phạm vi mà khái niệm lao động SX bao hàm, quan sát tính chất
của lao động GD có thể rút ra được một số luận điểm chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, lao động GD là một loại lao động có tính phục vụ (hoặc
dịch vụ ) có thể tạo ra giá trị sử dụng đặc biệt cho xã hội; là một loại hoạt
động không có không
được trong SX, như Marx nói: “Có một số dịch vụ là
đào tạo, duy trì khả năng lao động, làm cho khả năng lao động thay đổi
hình thái v.v Tóm lại là làm cho khả năng lao động có tính chuyên môn

hoặc chỉ làm cho khả năng lao động được tiếp tục duy trì, ví dụ việc phục
vụ của giáo viên trong trường học, việc phục vụ của bác sĩ. Trả phí để có
được những loại dịch vụ này cũng chính là để có được kh
ả năng lao động
bổ sung, thay thế cho khả năng lao động của chính mình. Những loại dịch
vụ này nên gia nhập vào phí SX hoặc phí tái SX khả năng lao động”
5
.

Giá trị sử dụng đặc biệt của loại lao động này có tên gọi đặc biệt -
“phục vụ”- là vì không lấy vật làm đối tượng mà hướng tới một con
người
6
. Nhưng điều đó không làm cho nó có sự khác biệt với những dụng
cụ, máy móc phục vụ con người khác, ví dụ đồng hồ, máy mát xa, đĩa CD
dạy học Có thể nói, lao động GD có yếu tố mang tính SX, đầu tư GD có
tính chất đầu tư cho SX.


4
Sách đã dẫn Phần 2 trang 8.
5
Marx-Engels toàn tập (Bản tiếng Trung) NXB Nhân Dân. Bắc Kinh. 1971. Quyển 26 Tập 1
trang 159. Cũng xem
37
(bản tiếng Việt).
6
hoặc thậm chí cả động vật do con người nuôi




3


Thứ hai, từ góc độ khái niệm lao động SX mở rộng, GD là lao động
bồi dưỡng đào tạo những nhân viên quản lý, kiến trúc sư, nghệ nhân, người
thiết kế mà không thực hiện trên đối tượng lao động SX. Cũng có thể nói
GD có tính SX gián tiếp.

Thứ ba, tính SX của lao động GD chủ yếu phản ánh lực lượng SX xã hội
mà GD có thể trực tiếp SX ra. GD SX ra khả năng lao động cho người lao
động và phát triển lự
c lượng SX có hình thái tri thức khoa học cho xã hội.

Thứ tư, việc đầu tư phát triển giáo dục (cụ thể là mở trường học) trong
kinh tế thị trường về bản chất không khác với việc đầu tư vào các ngành
sản xuất vật chất.

1.1.2. Tái sản xuất xã hội và giáo dục

Tái SX sức lao động bao hàm sự phục hồi và duy trì sức lao động hiện
có và tiếp tục bồi dưỡ
ng sức lao động mới. Sức lao động được bồi dưỡng
và đào tạo cần phải thông qua GD mới có thể thực hiện được. Vì thế, GD
là phương pháp của tái SX sức lao động. Chức năng chủ yếu của GD đối
với tái SX sức lao động là:

Thứ nhất, GD có thể tái SX khả năng lao động của con người. Marx
từng nói “GD sẽ tái SX khả năng lao động của giai cấp công nhân” đồng
thời cũng “bao hàm sự truyền thụ và tích luỹ các kĩ năng từ nhiều thế hệ

7
”.
“Chúng tôi hiểu sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng
lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang
sống. Và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi SX ra một giá trị sử dụng
nào đó”
8
; “Thị trường (TT) lao động” “là một chi nhánh đặc biệt của TT
hàng hóa (HH)”
9
, sức lao động cũng là HH, nó thuộc về HH của bản thân
người công nhân, là đối tượng mà người chủ nhà máy, hiệu buôn mua, dựa
vào giá trị thặng dư mà khả năng lao động của người công nhân tạo ra để
có được lợi nhuận cao.


7
Marx K. Tư bản (bản dịch tiếng Việt NXB Tiến bộ Mátxcơva – NXB Sự thật Hà Nội 1984.
Phần 2 trang 90
8
Sách đã dẫn Phần 1 trang 218
9
Sách đã dẫn Phần 1 trang 220



4


Thứ hai, GD có thể thay đổi tính chất và hình thái của khả năng lao

động của con người. Trong Tư bản luận, Marx chỉ ra: “ muốn cải tạo bản
tính chung của con người để làm cho nó có được kiến thức và những thói
quen khéo léo (kỹ năng) trong một ngành lao động nhất định, nghĩa là
muốn cho nó trở thành một sức lao động phát triển và đặc thù, thì cần phải
có một trình độ học vấn hay GD nào đó”
10
. GD với tư cách là một hình
thức phục vụ, nó có thể làm khả năng lao động thay đổi hình thái, từ hình
thái lao động chân tay (thể lực) làm chủ yếu sang hình thái lao động trí óc
làm chính, cũng có thể nói là từ lao động giản đơn, lao động thông thường
sang lao động phức tạp và chuyên môn, những nhà khoa học, kiến trúc sư,
nhân viên kĩ thuật

Thứ ba, Marx từng nói: “Trong lực lượng SX cũng bao hàm cả khoa
học”, “tư bản lấy sự phát triể
n lịch sử hiện có của lực lượng SX làm tiền
đề,- trong những lực lượng SX này cũng bao hàm khoa học”. Marx còn
nói: “ tự nhiên không làm ra bất kì máy móc nào, không tạo ra xe cộ, máy
móc, đường sắt, điện báo, máy dệt chạy con suốt v.v nhưng chúng là vật
chất tự nhiên được biến thành cỗ máy chế ngự tự nhiên theo ý chí của con
người, là lực lượng tri thức được vật hoá”
11
. Khoa học thuộc về lực lượng
SX có hình thái tri thức. Loại lực lượng SX này trước khi ứng dụng vào
quá trình SX hiện đại thì cũng không phải là tư liệu lao động riêng, cũng
không phải là dùng trực tiếp cho quá trình SX. GD là phương pháp quan
trọng của tái SX lực lượng SX có hình thái tri thức khoa học.
1.1.3. Học thuyết giá trị lao động và giáo dục
Chi phí GD là bộ phận cấu thành giá trị sức lao động.
Marx nói: “Những chi phí đào tạo ấy khác nhau tùy theo tính chất

phức tạp của sức lao động. Do đó, những chi phí học tập ấy đều gia nhập
vào tổng số những giá trị được chi phí để SX ra sức lao động”
12
.


10
Sách đã dẫn Phần 1 trang 223. Theo bản dịch tiếng Trung có thể hiểu là “ thay đổi bản chất
của con người bình thường làm cho họ có được kĩ năng và kĩ xảo của công việc lao động nhất
định, trở thành sức lao động chuyên môn và hoàn thiện thì cần có được sự GD và đào tạo nhất
định
11
Marx-Engels toàn tập (Bản tiếng Trung) NXB Nhân Dân. Bắc Kinh. 1971. Quyển 46 Tập 2
trang 119-120.
12
Marx K. Tư bản (bản dịch tiếng Việt NXB Tiến bộ Mátxcơva – NXB Sự thật Hà Nội 1984.
Phần 1 Trang 224. Cũng xem 37 trang 579



5


Theo sự phát triển của thời đại và sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật, vị
trí của chi phí GD trong tổng giá trị sức lao động càng ngày càng quan
trọng, càng ngày càng được nâng cao. Thời kì đầu của chủ nghĩa tư bản, khi
còn sử dụng máy hơi nước, sức lao động có mức GD sơ cấp thì về cơ bản
cũng đã có thể đáp ứng nhu cầu SX. Đến giai đo
ạn điện khí, lao động cần
phải đạt được mức độ GD trung cấp thì mới có thể đáp ứng nhu cầu SX.

Tiến vào thời đại mới mà máy tính điện tử là đại diện sức lao động chuyên
ngành được đào tạo, bồi dưỡng ở trình độ đại học và cao đẳng mới có thể
đáp ứng được nhu cầu SX. Cách đây 53 năm
13
, Hồ Chí Minh đã nói “Trong
một xưởng máy tự động chỉ có mấy người công nhân người công nhân
điều khiển xưởng máy đó phải có trình độ không kém kỹ sư, vì phải tính
toán nhiều”.

Do vậy có thể nhìn thấy xu thế là theo sự phát triển của khoa học kĩ
thuật và sự ứng dụng rộng rãi của nó trong quá trình SX, kết cấu tỉ lệ của
các yếu tố cấu thành tổng giá trị sức lao
động sẽ thay đổi lớn, trong đó, chi
phí GD và bồi dưỡng sẽ chiếm tỉ trọng ngày càng cao.

Lao động phức tạp có giá trị kinh tế cao

Lao động phức tạp được nói tới trong tương quan với lao động giản
đơn
14
. Giữa mức độ phức tạp trong lao động, chi phí GD, thời gian tiêu hao
cho GD, giá trị bản thân, giá trị sản phẩm làm ra được của sức lao động
phức tạp v.v đều có mối quan hệ tỉ lệ thuận.

Marx viết: ”Một lao động được coi là cao hơn, phức tạp hơn so với
lao độngxã hội trung bình, là biểu hiện của một sức lao động đòi hỏi những
chi phí đào tạo cao hơn, ngườ
i ta phải tốn nhiều thời gian lao động hơn để
SX ra nó, và vì vậy nó có một giá trị cao hơn so với sức lao động giản
đơn”

15
. Marx còn nói: “Do các chức năng của người công nhân có cái
tương đối phức tạp, có cái tương đối đơn giản, có cái ở cấp độ tương đối
cao, có cái ở cấp độ tương đối thấp nên bộ máy, tức là sức lao động, của


13
Hồ Chí Minh. Nói chuyện tại Hội nghị cán bộ Đảng ngành GD. 3-8 tháng 6 năm 1957. Xây
dựng Đảng trong sạch vững mạnh. NXB lao động xã hội (2005) trang 106.
14
Simple labour và skilled labour – lao động giản đơn và lao động lành nghề ( bản dịch tiếng
Anh Tư bản luận của Marx của Bert Schultz (1993), chuyển thể website bởi Brian Basgen &
Andy Blunden (1999) hiệu đính bởi Andy Blunden (2005)
15
Sách đã dẫn Phần 1 trang 255.



6

anh ta yêu cầu mức độ GD rất khác nhau, từ đó có giá trị vô cùng khác
nhau”. Sức lao động có tri thức tất nhiên phải trả giá cao hơn. Sản phẩm của
một giờ lao động phức tạp có giá trị cao hơn nhiều lần so với sản phẩm của
một giờ lao động giản đơn.

Lao động GD sẽ ảnh hưởng đến việc hình thành giá trị kinh tế xã hội

Lao động GD có thể t
ạo ra giá trị kinh tế xã hội, tức là bồi dưỡng sức
lao động trí tuệ, sức lao động thành thạo, và tái SX khoa học; kết hợp với

tư liệu SX vật chất tạo ra của cải vật chất. Đây là một loại giá trị kinh tế xã
hội gián tiếp. Marx trình bày và phân tích tác dụng của sức lao động trong
điều kiện chủ nghĩa tư bản: “một thứ hàng hóa mà bản thân giá trị sử d
ụng
của nó có cái đặc tính độc đáo là một nguồn sinh ra giá trị”, “một thứ hàng
hóa mà khi tiêu dùng nó thật sự thì vật hóa được lao động và do đó sẽ tạo
ra được giá trị”
16
. Điều bổ sung này nói rõ, sức lao động và chỉ có sức lao
động mới là lực lượng sáng tạo ra của cải vật chất của xã hội. Nhưng sức
lao động có thể tạo ra giá trị mới thì tuyệt đối không thể được hình thành
một cách tự nhiên, cũng không phải là một quá trình tự nhiên, nó có mối
tương quan mật thiết với mức độ GD của sức lao động. Nhìn chung, của
cải vật ch
ất của xã hội do sức lao động tạo ra có tỉ lệ tương thích với mức
độ GD của sức lao động.

Từ những phân tích trên đây có thể nói học thuyết giá trị lao động của
Marx-Engels cho rằng tài sản vật chất của xã hội do người lao động sáng
tạo ra, lao động tạo ra giá trị, quan điểm trao đổi ngang giá trị, dựa vào lao
động mà trả lương là nền tảng lý luận tính toán đầu tư
và hiệu quả kinh tế
của đầu tư GD.

I.2. Vốn nhân lực (Human Capital)

1.2.1. Nguồn nhân lực và vốn nhân lực.

Vốn nhân lực là khái niệm tương ứng với vốn vật lực. Dựa vào quan
điểm của Shultz quan niệm toàn bộ về vốn nên bao hàm hai mặt người và

vật, tức là vốn nhân lực và vốn vật lực.



16
Sách đã dẫn Phần 1 trang 217



7

Gọi là vốn nhân lực là chỉ kiến thức, kĩ năng kết tinh ở bản thân người
lao động và khả năng mà họ biểu hiện ra
17
. Loại năng lực này là nhân tố
quan trọng cho sự tăng trưởng của SX. Nó là một loại vốn có giá trị kinh
tế. Từ định nghĩa góc độ cá thể thì vốn nhân lực là chỉ sự tồn tại trong cơ
thể con người, sau này hoà với các yếu tố chất lượng có được như tri thức
kĩ năng, năng lực, sức khoẻ có giá trị kinh tế. Định nghĩa từ góc độ c
ộng
đồng thì vốn nhân lực tồn tại trong cơ thể của từng người trong một cộng
đồng của một quốc gia hoặc một khu vực, sau này tổng hoà với các yếu tố
chất lượng như tri thức kĩ năng, năng lực và sức khoẻ có giá trị kinh tế của
cả cộng đồng.

Vốn nhân lực và nguồn nhân lực cũng có sự khác biệt. Nguồn nhân
lực là một loại khái niệm về lượng, vốn nhân lực là một khái niệm về chất.
Nguồn nhân lực không phản ánh được sự khác biệt về tố chất của con
người mà vốn nhân lực thì lại phản ánh sự khác biệt năng lực của con
người. Nguồn nhân lực là nguồn chưa khai thác mà vốn nhân lực thì là kết

quả của khai thác nguồn nhân lực.

Vốn nhân lực và vốn vật lự
c có khác biệt nhưng lại có quan hệ, vừa
có tính tương đồng lại có tính khác biệt. Tính tương tự của nó biểu hiện là:
kết quả của tác dụng vốn nhân lực và vốn vật lực đều có thể làm cho thu
nhập cá nhân và thu nhập quốc dân tăng cao; đều thông qua hình thức đầu
tư mà hình thành và thực hiện. Đầu tư cho con người thì hình thành vốn
nhân lực, đầu tư cho vật lực thì hình thành vốn vật lực; đề
u có tính chất tư
bản, đều có tác dụng đem lại lợi nhuận cao, đều có thể đem đến sản phẩm
thặng dư.

1.2.2. Đặc điểm chủ yếu của vốn nhân lực.

Vốn nhân lực tồn tại trong cơ thể con người, không thể chia cắt với
người chuyển tải. Vốn nhân lực mà một người có thể có là có hạn. Tính có
hạn này chủ
yếu xuất phát từ sự chi phối của các điều kiện tự nhiên như
thể lực, tinh lực và tuổi tác của một cá nhân, đồng thời, còn bị chi phối bởi


17
Human Capital: The set of skills which an employee acquires on the job, through training and
experience
, and which increase that employee's value in the marketplace. Nội dung này có thể
tìm được trên website:




8

điều kiện XH, tức là cá nhân đó được rèn luyện, giáo dục như thế nào.
Việc hình thành và phát huy hiệu quả và năng lực của vốn nhân lực còn
phải chịu ảnh hưởng của cá nhân người chuyển tải.

1.2.3. Quan điểm cơ bản của lý luận vốn nhân lực.

Thứ nhất, chất lượng dân số quan trọng hơn số lượng dân số. Xuất
phát điể
m cơ bản của lý luận vốn nhân lực là nâng cao chất lượng của dân
số, tăng cường tố chất của dân số. Hiện nay then chốt của sự phát triển
kinh tế thế giới là chất lượng của dân số.

Thứ hai, trong điều kiện hiện đại hoá kinh tế thì tác dụng của đầu tư
vốn nhân lực lớn hơn nhiều đầu tư vố
n vật lực.

Thứ ba, đầu tư GD là yếu tố cốt lõi tạo nên giá trị của vốn nhân lực.
Chất lượng và tố chất của dân số không hoàn toàn tương đồng giữa các
nước, nguyên nhân cơ bản của nó là mức độ đầu tư GD của các nước là
khác nhau, mức độ GD bình quân xã hội là khác nhau.

Thứ tư: Đầu tư GD có lợi hơn so với đầu tư vật lực, s
ẽ đem đến lợi
nhuận cao hơn. Mức hiệu quả của đầu tư GD cao hơn so với mức hiệu quả
của đầu tư vật lực. Vì thế trọng điểm tích luỹ vốn có xu hướng chuyển từ
vốn vật lực sang vốn nhân lực, cần tăng tổng lượng đầu tư GD.

1.2.4. Tính hợp lý và hạn chế xã hội của lí luận v

ốn nhân lực

Tính hợp lí chủ yếu được thể hiện ở chỗ nó đã nhấn mạnh việc nâng
cao năng lực của con người để phát huy tác dụng của nhân tố này trong
quá trình phát triển kinh tế. Đây là lí do chính để lí luận này có thể được
truyền bá rộng rãi. Lí luận vốn nhân lực nhấn mạnh việc nâng cao chất
lượng dân số và chất lượng người lao động, điều này không nhữ
ng có lợi
cho việc nâng cao tỉ lệ SX xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, mà còn có
lợi cho việc cải thiện chất lượng cuộc sống của người lao động; coi GD là
một ngành đầu tư có tính SX, điều này đã phá vỡ quan niệm GD truyền
thống cũ kĩ, mang tính gợi ý rất cao.




9

Lí luận vốn nhân lực có tính hạn chế về giai cấp và xã hội rất rõ. Nếu
phân tích lí luận vốn nhân lực từ góc độ đạo đức và nhân tính, thì nó coi tất
cả là tư bản hoá, làm cho con người chỉ như là tư bản và hạ thấp giá trị của
con người. Khái niệm “vốn nhân lực”, được lợi dụng để che giấu bản chất
bóc lột của giai cấp tư sản; theo đó, nề
n kinh tế phương Tây sở dĩ tăng
trưởng được là do kết quả của việc đầu tư vào nhân lực. Còn theo học
thuyết giá trị lao động của chủ nghĩa Mác, thì chỉ có lao động mới tạo ra
giá trị, sự phát huy và vận dụng năng lực lao động của con người là nguồn
gốc của tất cả của cải trong xã hội, không phải tư bản mà chính là sức lao
động có thể t
ạo ra giá trị. Lí luận vốn nhân lực đã “bôi đen” sự thực sức

lao động tạo ra giá trị, một lần nữa đưa ra luận điệu tư bản tạo ra giá
trị
18
.

Thứ hai, phân tích từ góc độ chính trị, những điều mà lí luận vốn nhân
lực đã đề cập có nhiều điểm phù hợp với quan niệm giá trị mà chế độ chủ
nghĩa tư bản đang cần. Nó cho rằng nguyên nhân để tạo ra sự khác biệt
giữa các mức lương hoàn toàn là do trình độ GD, không hề liên quan tới
chế độ chủ nghĩa tư bản, làm cho người ph
ải nhận mức lương thấp tin rằng
như vậy là công bằng. Trên thực tế trong xã hội phương Tây, nguyên nhân
tạo ra sự khác biệt về tiền lương giữa người lao động và các thành viên
khác trong xã hội là từ rất nhiều phương diện như: địa vị xã hội, chủng tộc,
tuổi đời và tuổi nghề.

I.3. Một số khái niệm về giáo dục trong kinh tế thị trường
1.3.1. Các vấn
đề cơ bản của kinh tế thị trường, của cơ chế thị trường.
a) Các hệ thống kinh tế
Về mặt thực tiễn lịch sử tồn tại nhiều mô hình phát triển kinh tế-xã
hội khác nhau thể hiện mối quan hệ giữa các chủ thể chính: nhà nước, các
thành phần kinh tế và thị trường (TT). Sự khác nhau về vai trò, vị trí và
chức năng của các chủ thể đó t
ạo nên sự khác biệt về mô hình, hệ thống
kinh tế.



18

Cận Hi Bân Kinh tế giáo dục học NXB Giáo dục nhân dân Bắc Kinh (2001)



10

Hệ thống kinh tế thuần TT (TTT) với hai yếu tố cơ bản: sở hữu tư
nhân các nguồn lực (quyền sở hữu tư nhân) và phi tập trung hóa việc ra
quyết định lựa chọn và sử dụng các nguồn lực (TT điều tiết, không phải
nhà nước điều tiết).
Hệ thống kinh tế thuần chỉ huy (TCH - kế hoạch hóa tập trung) có đặc
tr
ưng cơ bản là: Nhà nước sở hữu và kiểm soát tất cả các nguồn lực kinh
tế; tập trung hóa việc ra quyết định vào tay nhà nước (Chính phủ) bằng kế
hoạch hóa; TT không có vai trò điều tiết.
Các hệ thống kinh tế hỗn hợp: mặc dù có một số ít nền kinh tế được
coi là TTT (như Mỹ trong thế kỷ XIX), hoặc là TCH (như hệ thống kinh tế
kế hoạch hóa tập trung bao cấ
p trước đây của các nước XHCN), hầu hết
các nền kinh tế hiện nay nằm trong khoảng giữa hai thái cực này- gọi là
các nền kinh tế hỗn hợp. Các nền kinh tế này không thỏa mãn đầy đủ các
tiêu chí của nền kinh tế TTT hoặc nền kinh tế TCH. Các nền kinh tế có vai
trò của cơ chế TT vượt trội hơn so với vai trò của Nhà nước-được gọi là
nền kinh tế TT hỗn hợp (HH) (vẫn có vai trò củ
a nhà nước); các nền kinh
tế có vai trò của Nhà nước vượt trội hơn so với vai trò của cơ chế TT-được
gọi là nền kinh tế chỉ huy hỗn hợp (kinh tế CH HH) (vẫn có yếu tố TT).

b) Sự phân bổ và điều tiết các nguồn lực, các quan hệ trong nền
kinh tế thị trường


TT được hình thành khi có người mua và người bán một sản phẩm
hoặc một dịch vụ nào đó và cùng nhau tham gia vào ho
ạt động trao đổi.
Mỗi loại sản phẩm hoặc dịch vụ có khu vực địa lý tồn tại. Một số TT ở cấp
địa phương, một số TT ở cấp quốc gia, một số TT ở cấp liên quốc gia, cấp
thế giới. Mức độ cạnh tranh trong nền kinh tế TT là một chỉ số cơ bản để
đánh giá, phân loại TT nói chung hoặc TT của một sả
n phẩm hay dịch vụ
cụ thể nào đó. Ở hai cực là TT thuần cạnh tranh (TTTCT) và TT thuần độc
quyền (TTTĐQ). Hầu hết các loại TT nằm ở giữa hai loại (hai cực) này.

TTTCT có 05 đặc điểm cơ bản: i) có số lượng người mua và người
bán (đủ lớn) một loại sản phẩm hay dịch vụ nào đó để không ai trong số họ
có thể một mình tác động
đến giá bán; ii) mỗi người bán phải cung cấp



11

hàng hóa (sản phẩm hay dịch vụ) đủ tiêu chuẩn, để người mua hài lòng và
có thể mua của bất kỳ người bán nào; iii) giá của sản phẩm hay dịch vụ
phải được tự do lên xuống theo điều tiết của TT mà không có bất kỳ sự can
thiệp nào của Chính phủ; iv) người mua và người bán phải di động (bất kỳ
người mua nào cũng được tự do lựa chọn người bán và mua của người nào
bán v
ới giá thấp nhất. Tương tự người bán phải được tự do di chuyển giữa
những khách hàng và bán cho ai sẵn sằng trả giá cao nhất cho sản phẩm
hay dịch vụ của mình); v) người bán phải được quyền chấm dứt hoạt động

bán của mình nếu họ muốn, và người mua cũng có quyền tham gia SX và
bán sản phẩm nếu họ thấy họ có khả năng.

Trên thực tế, có thể có mộ
t số TT hàng hoá (sản phẩm hay dịch vụ)
được coi là thuần cạnh tranh vì đã đáp ứng đầy đủ 05 yêu cầu trên, còn thì
hầu hết các sản phẩm hay dịch vụ chỉ đáp ứng một phần các yêu cầu trên.

TT thuần độc quyền: TTTĐQ tồn tại chỉ có một người bán hàng hoá
(sản phẩm hay dịch vụ). Người bán có thể thao túng được giá cả sản phẩm
hay dịch vụ có l
ợi cho mình. TTTĐQ sẽ cản trở các nhà cạnh tranh tham
gia vào TT, thường với sự trợ giúp của Chính phủ. Hầu hết các TT là
không thuần độc quyền.

TT cạnh tranh không hoàn hảo: Các TT nằm giữa TTTCT và TTTĐQ
được gọi là TT cạnh tranh không hoàn hảo (TTCT KHH) và có không đầy
đủ đặc điểm của các TTTCT và TTTĐQ. Trong thực tế, với những điều
kiện cụ thể, có thể có những TT (sản phẩm hoặc d
ịch vụ) gần giống với
TTTCT hoặc gần giống với TTTĐQ. Điều này không chỉ phụ thuộc vào
trình độ phát triển của nền kinh tếTT, vào tính chất và đặc điểm của sản
phẩm hoặc dịch vụ, vào đặc điểm dân tộc, mà còn phụ thuộc vào quan
điểm xây dựng hệ thống chính trị-kinh tế-xã hội, vào mục đích xã hội của
quá trình phát triể
n
c) Quan hệ cung cầu:

Trong kinh tế TT, quan hệ cung-cầu (C-C) là một quan hệ cơ bản.
Cầu của một sản phẩm hay dịch vụ là số lượng sản phẩm hay dịch vụ

người tiêu dùng sẵn sàng mua ở các mức giá khác nhau, khi các yếu tố



12

khác bất biến. Các yếu tố chủ yếu quy định Cầu là: thu nhập của người tiêu
dùng; giá của hàng hóa liên quan trong tiêu thụ; thị hiếu của người tiêu
dùng; mong muốn của người tiêu dùng; số lượng người tiêu dùng.

Cung của một sản phẩm hay dịch vụ là số lượng sản phẩm hay dịch
vụ mà người bán sẵn sàng bán ở những mức giá khác nhau, khi các yếu tố
khác bất biến. Sự kế
t hợp giá-lượng tạo thành đường Cung cụ thể. Luật
cung chỉ ra rằng: giá sản phẩm hay dịch vụ càng cao thì lượng cung càng
cao, giá càng thấp lượng cung càng nhỏ, khi các yếu tố khác bất biến.

Quan hệ Cung-Cầu “đối thoại” với nhau trên TT, tình hình giá thăng
bằng và lượng mua, được xác định bởi quan hệ giữa người mua và người
bán. Tuy nhiên đối với mỗi sản phẩm hoặc dịch vụ cụ thể quá trình này
còn chị
u tác động, điều tiết có tính quyết định bởi mô hình kinh tế, loại TT,
vai trò của Nhà nước, đặc tính của sản phẩm hoặc dịch vụ đó.

Sự thay đổi nhu cầu của xã hội về một sản phẩm hay dịch vụ nào đó
và việc nền kinh tế đáp ứng với nhu cầu đó là phương thức cơ bản của sự
vận động và phát tri
ển. Vấn đề cơ bản nhất là việc huy động và phân bổ
các nguồn lực của xã hội (kể cả của Nhà nước) như thế nào cho có hiệu
quả nhất để đáp ứng nhu cầu của xã hội về mặt kinh tế và mặt xã hội.

Trong nền kinh tế TT và với loại TTTCT thi vai trò huy động, phân bổ,
điều tiết các nguồn lực trực tiếp do cơ chế TT tác động tr
ực tiếp lên người
SX và người tiêu dùng. Trong nền kinh tế chỉ huy và với TTT ĐQ thì vai
trò phân bổ và điều tiết hoàn toàn thuộc về Nhà nước.

Cả lý luận và thực tiễn đã chứng minh là TT, cơ chế TT không phải là
vạn năng, nó có những hạn chế, khiếm khuyết, bất cập và tác động tiêu cực
tới xã hội, nhất là các lĩnh vực xã hội, dịch vụ công , đồng thời vai trò của
Nhà nướ
c rất quan trọng, có tính quyết định đến định hướng phát triển xã
hội, nhưng không thể tuyệt đối hóa “làm thay” tất cả vai trò của TT, cơ chế
TT. Mô hình kinh tế hỗn hợp là giải pháp để một mặt phát huy cao nhất, có
hiệu quả nhất cả vai trò của Nhà nước và vai trò của TT, mặt khác hạn chế,
khắc phục những bất cập của cả thị trường và Nhà nước. Tuy nhiên, tuỳ
thuộ
c vào trình độ phát triển, điều kiện lịch sử cụ thể, bối cảnh cụ thể mà
mỗi nước lựa chọn mô hình riêng thể hiện sự kết hợp vai trò của Nhà nước



13

và TT sao cho có hiệu quả nhất, không chỉ trên bình diện vĩ mô, mà cụ thể
đối với từng lĩnh vực, từng sản phẩm hay dịch vụ, đặc biệt là trong các lĩnh
vực xã hội, dịch vụ công (như GD, Y tế, Văn hóa ).

d) Hàng hóa và lợi ích công cộng.

Theo quan điểm kinh tế học, có nhiều cách phân loại hàng hóa khác

nhau phụ thuộc vào một số đặc tính của nó
19
. Dựa trên hai tính chất cạnh
tranh (rivalrous
) và loại trừ (excludable) mà hàng hóa được phân thành:
hàng hóa công cộng (public good) và hàng hóa cá nhân (private good).
Hàng hóa công cộng là loại hàng hóa được cung cấp cho mọi người một
cách không cạnh tranh (non-rivalrous
) và cũng không loại trừ (non-
excludable) ví dụ: an ninh đất nước, chiếu sáng đô thị, đèn biển. Trái
ngược với hàng hóa công cộng là hàng hóa cá nhân có cả hai tính chất
cạnh tranh và loại trừ tiêu dùng, ví dụ như một mẩu bánh mỳ, người này ăn
thì người kia không được ăn. Ngoài ra còn có các hàng hoá nằm trung gian
giữa hai loại hàng hóa này (common: chung và club: tập thể). Tuy vậy,
cách phân loại này chỉ mang tính lý thuyết.

Một sự lẫn lộn phổ biến là dùng “public good” để chỉ hàng hóa chỉ do
khu vực công (public sector) cung cấ
p
20
. Mặc dù rằng chính phủ ưu tiên
cung cấp – nhưng không bắt buộc chỉ cung cấp hàng hóa công cộng. Mặt
khác, hàng hóa công cộng có thể tự nhiên mà có, hoặc có thể do các cá
nhân hoặc các tổ chức không của chính phủ (non-state) cung cấp.

Cũng không nên lầm lẫn nội dung kinh tế của hàng hóa công cộng
(public good) với “lợi ích công cộng“ (public/common good) thường được
dùng để nói đến khía cạnh tập thể (collective) của lợi ích (the good) trong
hoạch định chính sách
21

. Trong nhà nước phúc lợi, GD do nhà nước đảm
bảo không loại trừ bất kỳ ai đều được thụ hưởng và mang lại lợi ích không
chỉ cho các cá nhân mà toàn xã hội, GD đại học được xem là “lợi ích công
cộng” (public good).


19
Wikipedia có thể tra cứu phiên bản tiếng Việt.
20
Lẽ ra nên gọi là ‘state sector’
21
which is usually an application of a collective ethical notion of "the good" in political
decision-making
19
.



14


Tài liệu này sử dụng khái niệm “công” để chỉ những gì thuộc về nhà
nước, do nhà nước chịu trách nhiệm trực tiếp hoặc gián tiếp (public/state) và
“công cộng” để chỉ những gì chung của cộng đồng xã hội (public/common).

1.3.2. Gíáo dục có phải là hàng hóa?

Có nhiều quan điểm khác nhau

1. Sản phẩm và hoạt động của dịch vụ giáo dục là hàng hoá (HH), GD

vì xã hội mà sản xuất ra HH, dịch vụ GD. Loại s
ản phẩm này có tính HH.

2. GD là HH chuẩn công cộng và sản phẩm hỗn hợp. GD bắt buộc là
GD có tính chất cưỡng chế, một loại GD miễn phí, vì vậy nó thuộc HH
công cộng thậm chí là phúc lợi xã hội. Nhưng GD phi bắt buộc lại có tính
chất không thể cùng tồn tại và có tính chất cạnh tranh vì vậy nó thuộc HH
chuẩn công cộng (quasi-public) hoặc HH hỗn hợp.

3. Chỉ có một số thành quả của GD là HH, bản thân GD không phải là
HH. GD có nhiều chức năng và đặc trưng cho nên thành quả do nó tạo ra
là đa phương diện, trong đó thành quả của GD mang tính chất HH hoặc
bản thân nó chính là HH, có cái lại không phải là HH, không mang đặc
tính của HH. Vì vậy, đưa ra một cách chung chung tính HH của GD hoặc
GD là HH là không chính xác.

4. GD không phải là HH và cũng không mang tính chất HH. GD
không giống người SX HH là không ngừng hạ thấp giá thành và theo đuổi
lợi nhuận làm mục tiêu. Những người mà được GD đào tạo không thể bị
coi là HH trên TT, được định giá bán dựa vào giá thành và lợi nhuận. Phần
lớn kinh phí GD là do nhà nước chịu trách nhiệm, học sinh và gia đình chỉ
gánh vác một phần học phí, vì vậy GD chỉ có một bên là nhà trường và
một bên là đơn vị dùng người không thể cấu thành quan hệ mua bán trao
đổi ngang giá. GD không chỉ có chức năng và giá trị kinh tế mà nó còn có
chức năng và giá trị chính trị, chức năng văn hoá, nhấn mạnh quá nhiều
màu sắc lợi ích của GD khó mà bảo đả
m được tính công bằng của GD.





15

Quan điểm của chúng tôi

Trước hết cần làm rõ việc xem xét giáo dục từ giác độ nào. Nếu xét
giáo dục là một ngành, một lĩnh vực hoạt động của xã hội như các ngành,
lĩnh vực kinh tế, xã hội khác thì việc dùng khái niệm “HH giáo dục” là
không chuẩn xác về mặt khoa học và thực tiễn. Nếu coi sản phẩm (kết quả
đầu ra) của giáo dục-những người được giáo dục là hàng hoá giáo d
ục thì
vừa không đúng với bản chất của quá trình giáo dục lại vừa không đúng
với bản chất của quá trình sản xuất hàng hoá. Bởi vì, bản chất cốt lõi của
quá trình giáo dục là “truyền thụ tri thức” giữa các chủ thể; những người
được giáo dục không thể là sản phẩm hàng hoá của cơ sở giáo dục mang ra
thị trường để “bán”. Thực chất là người họ
c tiếp thu được kiến thức (bằng
phương thức bao cấp hay theo cơ chế thị trường) rồi sau đó mới mang sức
lao động (đã được giáo dục-đào tạo) ra “bán” ở thị trường.

Thực chất giáo dục là một quá trình có nhiều chủ thể tham gia và bao
gồm nhiều yếu tố-quá trình có thể là vật thể hoặc phi vật thể. Xét bản chất
c
ốt lõi nhất và kết quả cuối cùng thì giáo dục là quá trình phi vật thể, chính
vì vậy mà giáo dục được xếp vào lĩnh vực dịch vụ. Trong cơ chế kế hoạch
hoá tập trung bao cấp, tất cả các yếu tố-quá trình tham gia vào giáo dục
đều mang tính phi hàng hoá. Tuy nhiên, khi giáo dục vận hành trong điều
kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, hệ thống giáo dục và quá trình
giáo dục tất yếu tương tác với các l
ĩnh vực và quá trình kinh tế, xã hội

khác. Nhiều sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của lĩnh vực khác là yếu tố đầu
vào đối với quá trình giáo dục; nhiều yếu tố, quá trình giáo dục, kể cả sản
phẩm cuối cùng có thể trở thành hàng hoá, dịch vụ lưu thông trên thị
trường. Ngay bản thân quá trình giảng dạy (hay cung cấp tri thức) cũng có
thể trở thành hàng hoá dịch vụ. Đương nhiên không phải tất cả các y
ếu tố,
các quá trình tạo nên giáo dục đều có thể trở thành hàng hoá, dịch vụ và
mức độ “hàng hoá hoá” của các yếu tố, các quá trình đó cũng khác nhau,
không chỉ phụ thuộc vào tương quan giữa tính chất công cộng và tính chất
cá nhân của hình thức, cấp bậc giáo dục, mà còn phụ thuộc vào chính sách
phát triển giáo dục của mỗi nước (trong việc xử lý mối quan hệ giữa nhà
nước và thị trường). Quá trình giảng dạ
y của nhà trường, của người thày
mà người học không phải trả tiền và do Nhà nước bao cấp hoàn toàn-đó
không phải là hàng hoá, dịch vụ; nhưng nếu người học phải trả tiền, phải



16

đóng học phí-đó là hàng hoá dịch vụ. Như vậy trong điều kiện kinh tế thị
trường tồn tại khách quan (với những cấp độ khác nhau) các sản phẩm
hàng hoá dịch vụ giáo dục.

Có một thực tế không thể phủ nhận được là toàn bộ những gì nhà
trường có: từ bàn ghế, đến sách vở, giáo trình, sách giáo khoa đều có thể
mua và bán được và đều có sự can thiệp của các công ty thương mại.
Trong một cơ sở GD hiện đại, đặc biệt là GD đại học, không chỉ có việc
dạy của thầy giáo mà còn có rất nhiều hoạt động dịch vụ và các hàng hóa
khác dùng cho GD. Trong GD từ xa, bài giảng của thầy có thể mua được

qua đĩa CD và các công ty có thể cung cấp mọi thứ cần cho những ai muốn
học nhưng không đến trường được.

Việc chuyển một phần việc cung cấp GD cho các cá nhân và tổ chức
không ph
ải của nhà nước đảm nhận và không từ tiền của nhà nước bao cấp
đã khiến cho GD, đặc biệt là GD đại học không còn là dịch vụ thuần công
nữa và cũng không còn là thuần “lợi ích công cộng”. Điều đó nói lên các
yếu tố, các quá trình giáo dục đã tham gia vào thị trường và trở thành hàng
hoá dịch vụ, kết hợp lợi ích công cộng và lợi ích cá nhân. Trong điều kiện
đó, cần nhận thức rõ một s
ố nội dung liên quan sau đây:

Thứ nhất, khi nói, “GD cũng biến thành hàng tiêu dùng cá nhân có thể
mua bán được ở TT toàn cầu thông qua vệ tinh nhân tạo và truyền hình
cáp”
22
thì GD ở đây phải hiểu là việc cung cấp các hàng hoá dịch vụ dạy
học và thu nhận thông tin không qua trực tiếp giáo viên, không ở trong nhà
trường mà bằng phương tiện khác.

Thứ hai là, trong nền kinh tế TT, không thể không đặt ra và giải quyết
những vấn đề về đầu tư, hiệu suất và hiệu quả trong giáo dục gắn với cơ
chế thị trường như trong những lĩnh v
ực kinh tế - xã hội khác cho dù có
những đặc điểm riêng. Vì vậy, không nên quá dị ứng với từ “hàng hóa”.
Trong Tư bản luận Marx đã viết: “HH trước hết là … nhờ có những thuộc
tính của nó mà thoả mãn được một loại nhu cầu nào đó của con người. Dù
cho những nhu cầu đó do dạ dày hay do trí tưởng tượng đẻ ra, thì bản chất



22
(Green, 1997) xem 31.



17

của chúng vẫn không làm cho vấn đề thay đổi gì cả
23
”. Bản thân việc các
thành phần kinh tế ngoài nhà nước tham gia vào cung ứng giáo dục và việc
thu học phí cho dù sinh viên trường công hay tư đã mặc nhiên đưa tính
hàng hoá vào lĩnh vực giáo dục rồi.

Thứ ba là, theo quan điểm triết học giáo dục nói chung và “GD đại
học hiện đại vẫn có một giá trị muôn thuở”
24
, đó là coi việc đi tìm chân lí
khoa học, hoàn thiện nhân cách con người, truyền bá tri thức văn hoá khắp
nhân loại là một mục tiêu của mình. Còn trong khoa học chính trị và đạo
đức học GD chứa đựng phương diện lợi ích công cộng. Việc thúc đẩy lợi
ích công cộng có nghĩa là mang lại lợi ích cho các thành viên của xã hội.
Khái niệm lợi ích công cộng đồng nghĩa với phúc lợi xã hội
25
.

Vì vậy, nếu kết hợp quan điểm kinh tế học với triết học, đạo đức học
và khoa học chính trị thì có thể nói GD tạo ra được những sản phẩm hàng
hóa dịch vụ đặc biệt với nhiều cấp độ và tính chất khác nhau. Cách nói

giáo dục là hàng hoá (hay không phải là hàng hoá) đều không phản ánh
đầy đủ bản chát của vấn đề.

Nói “đặc biệt” vì nó có giá trị cao hơn nhiều so vớ
i những gì mà các
thành tố của nó mang lại. Nó mang tính nhân văn cao cả và giá trị tinh thần
lớn lao không thể tính toán được theo các phương pháp kế toán thông
thường.

1.3.3. Thị trường giáo dục và cải cách giáo dục định hướng thị
trường

Vấn đề TT GD cũng giống như “GD là ngành SX” và “hàng hóa GD”
đang là vấn đề được tranh luận khá quyết liệt. Khái quát lại có 3 loại quan
điểm: không tồn tại TTGD; tồn tại TTGD như các TT hàng hoá dịch vụ



23
Sách đã dẫn Phần 1 trang 51
24
Kerr C The Uses of the university, Cambridge, MA: Harvard University Press. (1995)
25
Nguyên văn định nghĩa của Wikipedia: In ethics and political science to promote the
common good means to benefit members of society. Thus, in essence, helping the common
good equates with helping all people, or at least the vast majority of them. In that sense, the
term could be synonymous with the general welfare
.




18

khác; TTGD là một thị trường đặc biệt. Cả ba loại quan điểm đó đều đã
đưa ra các luận giải cụ thể.

Thuyết liên đới cho rằng: trong điều kiện kinh tế TT và thực hiện cơ
chế kinh tế TT các yếu tố SX đều phải đi vào TT. Ngoài các yếu tố tiền tệ,
vật tư, bất động sản gia nhập TT ra thì nhân tài, lực lượng lao động, khoa
học kĩ thuật… cũng đều phải gia nhập TT, thực hiện phân bố ưu tiên các
yếu tố SX. Đã thừa nhận sự tồn tại của TT lao động, TT khoa học kĩ thuật
và TT thông tin thì ắt phải thừa nhận sự tồn tại TT GD đi kèm và mối liên
hệ chặt chẽ giữa các TT.

Thuyết phạm vi cho rằng hiện nay không phải có hay không có TT
GD hoặc thừa nhận hay không thừa nhậ
n TT GD mà là thực tế GD gia
nhập TT với nhiều ý nghĩa, nhiều mức độ và ở nhiều phạm vi khác nhau.
GD bắt buộc, do chính phủ chịu trách nhiệm toàn bộ hoặc đầu tư phần lớn
cho nên không thuộc hoạt động của TT còn các lĩnh vực GD khác đều
tham gia vào TT.

Thuyết cung cầu cho rằng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện thể
chế kinh tế TT, chủ thể đầu tư GD sẽ đa nguyên hoá. Mỗi một công dân
ngoài việc được hưởng quyền bình đẳng về GD ở mức thấp nhất do nhà
nước cung cấp, phải cung cấp cho nhà trường một mức bồi thường giá
thành GD nhất định, tức là tuân theo quy tắc trao đổi ngang giá cuả kinh tế
TT và quy tắc giá cả do cung cầu quyết định.

Thuyết diễn sinh và mở rộng cho rằng sự phát triển và hoàn thiện hơn

nữa của kinh tếTT tất nhiên kéo theo sự xuất hiệ
n của các TT mới như TT
văn hoá, TT thể thao. GD với tư cách là hệ thống của SX cũng tham gia
vào môi trường TT hoá các hoạt động kinh tế xã hội; tham gia vào vòng
tuần hoàn lớn của kinh tếTT, làm cho trong hệ thống kinh tếTT dần dần
phát sinh thành một TT GD.

Thuyết TT mềm cho rằng cùng với sự phát triển của cơ chế kinh tế
TT, GD tất nhiên phải gia nhập TT và hình thành hệ thống TT GD độc lập,
được coi là một phần c
ấu thành quan trọng của hệ thống TT mềm. TT GD
thuộc TT tư liệu phi vật chất, so với TT tư liệu vật chất nó có tính độc lập.

×