Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Nguyễn Thị Hạnh QTKDQT41A
89
Về hoạt động yểm trợ sản phẩm.
Đây là những hoạt động có liên quan đến các dịch vụ sản phẩm và các thông
tin mà công ty cung cấp thêm cho khách hàng. Các dịch vụ sản phẩm chủ yếu là
catalogue, xuất bản phẩm về công ty, phim ảnh (cung cấp thông tin bằng những
hình ảnh sống cho khách hàng nước ngoài).
Các công tác xúc tiến bán hàng.
Công ty cần duy trì và phát huy tác dụng của hoạt động xúc tiến bán hàng
thông qua các hội chợ thời trang tiêu dùng trong nước và quốc tế bằng những
mẫu mã luôn thay đổi, phong phú nhưng thích hợp với thị hiếu tiêu dùng từng
thời kỳ. Hoạt động này thực sự có ý nghĩa đối với công ty trong việc nâng cao
sức cạnh tranh của sản phẩm, vì thị trường dệt may đang có sức cạnh tranh gay
gắt giữa các nhà sản xuất, các s
ản phẩm tương đối giống nhau về chất lượng giá
cả, khối lượng hàng bán lại phụ thuộc vào mức độ quen biết giữa công ty với
khách hàng. Các hình thức chủ yếu của xúc tiến bán hàng là thay đổi hình thức
mẫu mã sản phẩm, khuyến khích mua hàng (giảm giá, tạng quà, bán trả góp ),
trưng bày catalogue tại điểm bán hàng. Ngoài ra các của hàng bán lẻ của công ty
phải được trang hoàng đẹp, đầy đủ về mẫu mã, việc th
ử hoặc đổi hàng phải được
tạo điều kiện thuận lợi nhất. Khi đã có đủ tiềm lực về tài chính, ngoài việc tham
gia trình diễn thời trang hay các cuộc giới thiệu sản phẩm tại các hội chợ, công
ty có thể tự tổ chức địng kỳ các buổi trình diễn thời trang trong nước và tại các
hội chợ trong và ngoài nước để tạo ra phong cách và ấn tượng riêng của công ty
và sản ph
ẩm.
Về các kênh phân phối sản phẩm.
Vấn đề tìm kênh tiêu thụ sản phẩm cũng là vấn đề hết sức quan trọng đối với
công ty, bởi vì sau khi loại bỏ hình thức gia công theo đơn đặt hàng, công ty sẽ
phải lỗ lực hoàn toàn từ khâu tìm nguyên liệu đến khâu sản xuất sản phẩm. Việc
thâm nhập thị trường quốc tế lại rất khó khăn vì khả năng tiếp xúc trực tiếp bằng
sản phẩm và con ngườ
i của công ty với khách hàng mục tiêu sẽ gặp phải những
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Nguyễn Thị Hạnh QTKDQT41A
90
hạn chế về tập quán giao dịch quốc tế, ngôn ngữ. Vì vậy trong thời gian tới công
ty cần phối hợp với các công ty dệt may trong nước và ngoài nước để tạo lập các
kênh phân phối trên các thị trường chủ yếu bằng cách lập các chi nhánh, văn
phòng đại diện tại các nước EU, Nhật Bản, Mỹ, hoặc thông qua các hãng, các
tập đoàn dệt may lớn đã có quan hệ làm ăn lâu dài để phân phối sản phẩm tiêu
dùng của mình tới người tiêu dùng quốc tế, hoặc thông qua các thương nhân
Việt Nam ở nước ngoài để tạo lập từng bước, quan hệ với từng khu vực thị
trường - đặc biệt là các thị trường mới đầy tiềm năng như Bắc Mỹ.
Đa dạng hoá sản phẩm và xây dựng mặt hàng chiến lược.
Hiện nay, khó khăn lớn nhất đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam
là tìm được đầu ra cho sản phẩm. Để giải quyết khó khăn đó, doanh nghiệp chỉ
có con đường là đa dạng hoá sản phẩm.
Lý do khiến doanh nghiệp phải đa dạng hoá sản phẩm là vì nhu cầu dệt
may trên thế giới vô cùng đa dạng và phong phú, mỗi một dân tộc, một quốc gia,
một tôn giáo, một giới tính, một m
ức thu nhập, một lứa tuổi khác nhau lại có
những nhu cầu ăn mặc rất khác nhau. Tại các quốc gia Châu Phi, những bộ quần
áo có mầu sắc sặc sỡ rất được ưa thích nhưng ở Châu Âu lại đòi hỏi những bộ
quần aó trang nhã lịch sự. Những trang phục thể thao, mạnh mẽ thu hút được sự
quan tâm của tầng lớp thanh niên nhưng lại không được những người lớ
n tuổi
chấp nhận. Cùng một bộ quần áo như nhau, nhưng chất liệu bình dân thích hợp
với những người có thu nhập trung bình, thì với người có thu nhập cao phải là
chất liệu cao cấp. Những ví dụ như vậy còn rất nhiều, do vậy, để tiêu thụ được
nhiều sản phẩm nhất, các doanh nghiệp phải làm ra nhiều sản phẩm khác nhau
để đáp ứng nhu cầu không giống nhau của thị tr
ường.
Hiện nay, hàng dệt may của công ty xuất khẩu chủ yếu sang thị trường
EU, Nhật Bản, Mỹ, Đông Âu Những yêu cầu về sản phẩm khác nhau của các
thị trường này cũng là một yếu tố khách quan đòi hỏi doanh nghiệp phải đa dạng
hoá sản phẩm. Nhật bản và EU là những thị trường có đòi hỏi cao về chất lượng.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Nguyễn Thị Hạnh QTKDQT41A
91
Thị trường Nhật có yêu cầu rất cao về chất lượng sản phẩm, chỉ một vết xước
nhỏ trên mặt vải cũng đủ để coi sản phẩm là hỏng tại thị trường này, nên cần hết
sức chú trọng đến chất lượng sản phẩm, tập trung xuất khẩu hàng cao cấp có giá
trị lớn. Tại thị trường EU, do phải sản xuất theo hạn ngạ
ch nên cũng cần thiết
phải chú trọng đến chất lượng để nâng cao giá trị sản phẩm nhưng có thể đưa
vào các sản phẩm bình dân phục vụ những người có thu nhập trung bình thấp.
Hơn nữa, khi EU xoá bỏ chế độ hạn ngạch với Việt Nam 1/1/2005 thì việc đưa
vào thị trường này những sản phẩm bình dân bên cạnh các sản phẩm cao cấp là
hợp lý nhằm tận dụng khả
năng sản xuất trong nước và khai thác ttriệt để thị
trường. Với thị trường Mỹ, đa dạng hoá sản phẩm là cần thiết vì đây là thị
trường có nhu cầu hết sức đa dạng. Mỹ là một đất nước đa sắc tộc, người Mỹ có
phong cách thoải mái, sống thực dụng nên thị trường này chấp nhận từ những
trang phục sang trọng phục v
ụ các nhà tư bản giàu có đến những bộ quần áo
bình dân phục vụ những người dân lao động. Do vậy, đây là thị trường rất lớn để
doanh nghiệp khai thác với nhiều mặt hàng khác nhau, từ cao cấp đến bình dân.
Tuy nhiên, đa dạng hoá sản phẩm không phải là mỗi doanh nghiệp có thể
sản xuất tất cả các mặt hàng. Tại mỗi doanh nghiệp, bên cạnh khả năng sản xuất
đa dạ
ng, cần phải xây dựng lấy một vài sản phẩm mũi nhọn để làm đầu tầu kéo
các sản phẩm khác của doanh nghiệp phát triển theo. Sản phẩm mũi nhọn còn có
tác dụng như một vũ khí mang tính chiến lược, đặc biệt là khi xâm nhập một thị
trường mới. Trong xây dựng một sản phẩm mũi nhọn, cần chú trọng nghiên cứu,
lựa chọn xây dựng các sản phẩm d
ựa trên truyền thống sản xuất, nhu cầu thị
trường và lợi thế so sánh của doanh nghiệp, tạo dựng được nhãn hiệu hàng hoá,
xây dựng được hình tượng của đơn vị. Ngoài ra, cần chú ý nghiên cứu các
nguyên liệu mới, công nghệ sản xuất mới nhằm tìm ra được các sản phẩm có giá
trị kinh tế cao, có tính độc đáo. Trên cơ sở đó mà chiếm lĩnh được thị phần nhất
định trên thị
trường. Khi có sản phẩm mới ra, cần bắt tay ngay để nghiên cứu
tiếp tục có những sản phẩm mới, làm hậu phương vững chắc trong tiếp cận và
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Nguyễn Thị Hạnh QTKDQT41A
92
chiếm lĩnh thị trường
Đẩy mạnh nghiên cứu thiết kế mẫu mốt, sản xuất thử mặt hàng mới.
Đối với hàng dệt may, ngoài tiêu chuẩn tốt, bền, giá rẻ thì tính thời trang,
kiểu dáng của sản phẩm có vai trò rất quan trọng. Thực tế ở nhiều thị trường, cả
trong nước và thế giới, người tiêu dùng rất coi trọng đến mẫu mã hàng dệt may,
họ sẵn sàng bỏ nhiều tiền hơn để chi trả cho một sản phẩm có chất lượng như
các sản phẩm khác nhuưng có kiểu dáng v
ượt trội.
Hiện nay, tại Việt Nam, nghiên cứu thiết kế mẫu thời trang còn mới mẻ,
chưa có kinh nghiệm, giao lưu với các nhà tạo mẫu thời trang quốc tế còn hạn
chế, tiếp cận với thị trường thế giới còn quá ít, chưa đáp ứng được yêu cầu trong
nước và xuất khẩu. Sản phẩm may mặc chủ yếu được làm theo mẫu do khách
hàng nước ngoài đưa sẵn, ho
ặc làm theo kiểu sao chép- cắt dán từ những mẫu có
sẵn của nước ngoài. Các cơ sở thiết kế mẫu trong nước là viện mẫu thời trang
hay các nhà nghiên cứu tạo mẫu thời trang, các nhà may nổi tiếng ở Hà Nội, Tp
HCM với cơ sở vật chất và đội ngũ nhân lực còn yếu, thiếu kiến thức về sáng
tác, thiết kế mẫu thời trang, thiếu thông tin nên chỉ đáp ứng được khoả
ng 10-
20% yêu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Để cải thiện khả năng thiết kế mẫu thời trang, doanh nghiệp cần chủ động
phối hợp với các cơ sở nghiên cứu thông qua đặt các đơn hàng, vừa tạo điều
kiện để các cơ sở này nâng cao năng lực của mình, vừa đem lại lợi nhuận cho
doanh nghiệp vì làm mẫu tại cơ sở chuyên nghiệp chắc ch
ắn sẽ rẻ hơn tự doanh
nghiệp xây dựng cho mình một đội ngũ thiết kế mẫu. Bởi lẽ các cơ sở này nắm
bắt thường xuyên hơn nhu cầu, thị hiếu trên thị trường, có đội ngũ nhân lực lành
nghề trong lĩnh vực tạo mốt, có những thiết bị chuyên dụng Ngoài ra, khi có
được mẫu mốt cần mạnh dạn tổ chức triển khai sản xuất th
ử và khi thành công
thì nhanh chóng đưa ra để chiếm lĩnh thị trường. Ở đây, cũng cần có sự hỗ trợ
tích cực của chính phủ trong việc bảo hộ bản quyền, kiểu dáng công nghiệp,
chống hàng giả nhằm tránh tình trạng doanh nghiệp phải bỏ ra nhiều kinh phí
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Nguyễn Thị Hạnh QTKDQT41A
93
vào việc tìm ra một sản phẩm mới nhưng chỉ sau khi lô hàng đầu tiên được đưa
ra thì đã bị làm giả, làm nhái, gây thiệt hại không nhỏ. Đây có lẽ cũng là một lý
do khiến doanh nghiệp ngại không đầu tư vào thiết kế mẫu. Song trong tương
lai, doanh nghiệp nên có kế hoạch xây dựng một phòng thiết kế mẫu cho riêng
mình. Bởi lẽ, trong cơ chế thị trường, một doanh nghiệp chỉ có thể tồn t
ại bằng
chính thực lực và sự am hiểu thị trường của chính mình, tránh những thông tin
giả của đối thủ cạnh tranh tung ra.
2.2. Kiến nghị đối với nhà nước.
Để nâng cao sức cạnh tranh hàng hoá của doanh nghiệp, bên cạnh những
lỗ lực của doanh nghiệp cần có những sự hỗ trợ từ phía nhà nước.
Chính sách về thị trường.
Để có được chính sách thị trường thích hợp, thúc đẩy sự phát triển để xuất
khẩu của ngành dệt may trước hết cần thấy được các yếu tố ảnh hưởng tới thị
trường. Đó là:
- Uy tín của sản phẩm. Việc tạo được uy tín cho một sản phẩm trên một thị
trường là cực kỳ khó khăn. Nó bao gồm từ việc xây dựng mẫu mã chất l
ượng,
chủng loại, kiểu cách sản phẩm đến các dịch vụ bán hàng và sau bán hàng. Đối
với công ty, có được uy tín với khách hàng không những nâng cao doanh số tiêu
thụ mà còn có nghĩa là đã có khả năng chuyển từ gia công xuất khẩu sang xuất
khẩu trực tiếp. Khi đó, bên cạnh sự phát triển của ngành dệt may và các ngành
có liên quan, hiệu quả thu ngoại tệ cũng tăng nên đáng kể.
- Quan hệ chính trị ảnh hưởng tớ
i quan hệ thương mại. Quan hệ thương mại
chỉ là một bộ phận trong quan hệ kinh tế đối ngoại nhưng lại là một bộ phận thu
ngoại tệ trực tiếp cho đất nước. Sự tham gia phân công lao động quốc tế trên
phạm vi toàn cầu và khu vực thông qua ngoại thương đã đảm bảo cho sự phát
triển cân đối của nền kinh tế quốc dân và thu ngoaị tệ đáp ứng nhu c
ầu vốn ở
giai đoạn đầu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Sự phát triển của ngoại
thương không thoát khỏi ảnh hưởng của quan hệ chính trị. Quan hệ chính trị tốt
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Nguyễn Thị Hạnh QTKDQT41A
94
tạo đà cho việc hợp tác, tương trợ về đầu tư, chuyển giao công nghệ, là tiền đề
để ký kết các hiệp định về thương mại, về thông tin, về cấp phát hạn ngạch; là
cơ sở pháp lý đảm bảo cho doanh nghiệp hai bên tiến hành làm ăn với nhau, tạo
tiền đề thuận lợi trong thanh toán, giải quyết tranh chấp
Từ sự phân tích về những yếu tố ảnh hưở
ng trên, để nâng cao hiệu quả cạnh
tranh cho hàng dệt may Việt Nam, Nhà Nước cần có các chính sách về thị
trường như:
- Nhà nước mà trực tiếp là Bộ Thương Mại cầng xây dựng được tiến trình gia
nhập WTO có hiệu quả
- Nhà nước tích cực tham gia các diễn đàn quốc tế và khu vực để Việt Nam
nhanh chóng trở thành thành viên của WTO.
- Quan hệ tốt với các thị trường lớn nhhư EU, Bắ
c Mỹ, tạo dựng được khuôn
khổ pháp lý tốt đối với các thị trường này để sản xuất hàng tiêu dùng Việt Nam
nói chung và hàng dệt may nối riêng được hưởng các ưu đãi đặc biệt như hạn
ngạch, tối huệ quốc và có điều kiện để xuất khẩu với khối lượng lớn.
- Tạo điều kiện cho ngành dệt may tham gia vào các hoạt động quốc tế, các
diễn đàn chuyên ngành của khu vực để có điều kiện tham gia vào sự phân công
lao động quốc tế.
- Thực hiện nghiêm túc công ước quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ công nghiệp
để các sản phẩm dệt may có chất lượng cao mang nhãn hiệu " made in Việt
Nam" giữ được uy tín ,trên thị trường.
- Có quy chế phù hợp (bao gồm trách nhiệm và quyền lợi) về hoạt động của
các nhân viên thươ
ng vụ của các đại sứ quán của Việt Nam ở nước ngoài trong
việc cung, cấp thông tin, giúp ngành dệt may mở rộng thị trường.
Chính sách tài chính
Để đáp ứng nhu cầu về vốn đầu tư, các chính sách tài chính cần có là:
- Nhà nước đảm bảo cấp vốn đầu tư ban đầu và vốn lưu động cho các doanh
nghiệp nhà nước theo đúng luật định.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Nguyễn Thị Hạnh QTKDQT41A
95
- Cho phép ngành dệt may được sử dụng một phần quỹ bảo hiểm rủi ro của
nhà nước ở những công trình trọng điểm
- Kéo dài thời gian miễn thuế thu nhập cho các công trình đầu tư mới hoặc
đầu tư mở rộng tạo tiền đề cho việc trả lãi vay.
Chính sách phát triển nguồn nguyên liệu.
Nguyên liệu dành cho ngành công nghiệp dệt may được chia thành 2 loại:
một loại có nguồn gốc từ thiên nhiên như bông, đay, tơ tằm ; một loại có nguồn
gốc từ các quá trình hoá học như sợi tổng hợp, nhân tạo. Trên thế giới, nhiều
nước đã biết phát huy lợi thế về từng chủng loại nguyên liệu để phát triển ngành
công nghiệp dệt may của mình như Nhật, Trung quốc là những nướ
c phải nhập
khẩu gần như toàn bộ số nguyên liệu thiên nhiên nhưng nhờ tự túc dược nguồn
nguyên liệu hoá học nên công nghiệp dệt may cũng hết sức phát triển. Ngược
lại, nhiều quốc gia trên thế giớ là các nước xuất khẩu bông nhưng công nghiệp
dệt may lại kém phát triển như: Pakisttan, Uzbekistan Do vậy, có thể thấy rằng
có được nguồn nguyên liệu chỉ là điều kiện cầ
n chứ không phải là điều kiện đủ
để phát triển ngành dệt may. Việt Nam thuận lợi về điều kiện tự nhiên để phát
triển nguồn nguyên liệu thiên nhiên nhưng để phát triển ổn định và bền vững cần
có những điều kiện sau:
- Chính phủ phê duyệt quy hoạch vùng nguyên liệu các loại sơ thiên nhiên cho
ngành dệt may bao gồm vùng trồng bông, vùng trồng dâu nuôi tằm, vùng trồng
đay Từ
đó, có các chính sách hợp lý trong việc bảo đảm cung cấp lương thực
và các nhu yếu phẩm khác cho nông dân các vùng này, đồng thời có cơ chế thích
hợp trong việc khai thác, bảo toàn và phát triển vùng nguyên liệu lâu dài.
- Cho phép trích tỷ lệ % trong doanh thu để lấy nguồn bù đắp cho quy hoạch
và phát triển vùng nguyên liệu.
- Giảm hoặc miễn thuế GTGT đối với sản phẩm được sản xuất từ nguyên liệu
trong nước ( bông, đay, tơ tằm) để
ngành dệt may dùng số tiền đó đầu tư cho các
hộ cung cấp nguyên liệu.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Nguyễn Thị Hạnh QTKDQT41A
96
- Đẩy nhanh qua trình xây dựng các khu công nghiệp hoá dầu, làm tiền đề cho
việc sản xuất các loại sơ sợi tổng hợp, góp phần tạo thế chủ động về nguyên liệu
cho ngành.
Chính sách hỗ trợ xuất khẩu
.
Hiện nay, Việt Nam chưa thành lập được quy bảo hiểm xuất khẩu cũng
như quỹ hỗ trợ xuất khẩu để khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn tham gia
hoạt động này, nhất là trong điều kiện thị trường thế giới đầy biến động. Các
doanh nghiệp nhỏ, vốn ít vẫn không giám mạo hiểm bán hàng theo phương thức
bán trả chậm, trả góp mặc dù đủ đ
iều kiện ký kết hợp đồng xuất khẩu. Vẫn
chưa có hiệp hội ngành may mặc xuất khẩu để hỗ trợ trong việc nghiên cứu thị
trường, hỗ trợ về giá cả Tuy nhiên, đã có quỹ thưởng xuất khẩu. Vừa qua, bộ
thương mại đã ban hành quy chế quản lý và sử dụng quỹ thưởng xuất khẩu nhằm
khen thưởng, động viên và khuyến khích các doanh nghiệp s
ản xuất kinh doanh
có thành tích xuất sắc và đạt hiêụ quả cao trong hoạt động xuất khẩu. Để hỗ trợ
tích cực hơn nữa trong hoạt động xuất khẩu của các doanh nnghiệp, nhà nước
cần sớm thực hiện các giải pháp sau:
- Thành lập quỹ bảo hiểm và quỹ hỗ trợ xuất khẩu chung cho cả nước và cho
phép công ty doanh nghiệp Hà Nội thành lập quỹ hỗ trợ khi giá cả th
ị trường thế
giới có nhiều biến động, gặp nhiều rủi ro trong việc thực hiện hợp đồng ngoại
thương, trong quá trình vận chuyển hàng xuất khẩu.
- Chính Phủ sớm ra quyết định thành lập hiệp hội dệt may Việt Nam nhằm tập
hợp và hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia xuất
khẩu. Đồng thời nhanh chóng xúc tiến việc thành lập c
ơ quan xúc tiến thương
mại chuyên về thị trường xuất khẩu, trong đó có thị trường hàng dệt may
- Chính phủ cần tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp sản xuất
hàng dệt may xuất khẩu như: hỗ trợ vốn, cho vay vốn với lãi xuất thấp đối voí
các doanh nghiệp thiếu vốn để sản xuất hoặc thực hiện hợp đồ
ng khi đã có thị
trường và đối tác để xuất khẩu hoặc doanh nghiệp mở rộng hoặc tham gia vào
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Nguyễn Thị Hạnh QTKDQT41A
97
thị trường mới
- Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho các vệ tinh cung ứng dịch vụ, nguyên
phụ liệu cho hàng dệt may xuất khẩu: chính sách cho vay vốn, trợ giúp về mặt
KHKT đối với nông dân vùng nguyên liệu, với các hộ gia đình sản xuất phụ
liệu
Đổi mới hoàn thiện chính sách thuế.
Hệ thống thuế Việt Nam trong những năm qua mặc dù đã được sửa đổi
song còn tồn tại nhiều điểm bất hợp lý có ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt sản xuất
kinh doanh nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Do đó, vấn đề đặt ra là
phải bổ sung và sửa đổi một số luật thuế:
Thuế xuất khẩu:
Cũng như các ngành xuất kh
ẩu khác, ngành dệt may xuất khẩu cũng phải
chịu thuế xuất khẩu. Hiện nay, ngành dệt may xuất khẩu chịu thuế xuất khẩu là
0%. Như vậy trên thực tế, hàng dệt may xuất khẩu được miễn thuế xuất khẩu.
Tuy có lợi thế là nguyên vật liệu nhập khẩu sau khi xuất khẩu được sản phẩm sẽ
được hoàn thuế nhập khẩu nhưng thuế xuất nh
ập khẩu quá cao, thời gian hoàn
thuế lâu làm cho giá thành sản xuất cao lên, dẫn tới không có lợi thế cạnh tranh
về giá. Đối với các doanh nghiệp thì đây là một khó khăn lớn vì hầu hết nguyên
liệu phục vụ cho ngành dệt may đều phải nhập khẩu. Thuế xuất của nhiều loại
nguyên liệu nhập khẩu lên đến 40-60%, chỉ có một số ít nguyên liệu chính là có
thuế suất thấp hoặc được miễn thu
ế.
Đối với ngành dệt may, quy định thời hạn tạm miễn thuế nhập khẩu cho
sản xuất hàng xuất khẩu là 9 tháng cho hàng gia công may mặc là tương đối dài,
phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của ngành, tạo điều kiện thuận lợi cho
doanh nghiệp trong việc ký kết hợp đồng, tổ chức sản xuất và xuất khẩu sản
phẩm. Tuy nhiên, việc hoàn thuế nhập, tái xuất và thuế
nhập khẩu nguyên liệu
lại quá chậm. Nguyên nhân chủ yếu là do thủ tục rườm rà, cơ quan thu thuế và
cơ quan hoàn thuế không phối hợp với nhau gây thiệt hại và mất thời gian cho
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Nguyễn Thị Hạnh QTKDQT41A
98
doanh nghiệp. Để khắc phục những vướng mắc và toạ điều kiện cho ngành dệt
may phát triển hoạt động xuất khẩu, về thuế xuất nhập khẩu có một số kiến nghị
sau:
- Áp dụng thuế suất 0% đối với các nguyên liệu chính như bông, các loại sợi,
phụ kiện
- Phải hoàn thuế cho các doanh nghiệp tham gia cung ứng nguyên phụ kiện
đầu vào
- Đố
i với vải nhập khẩu thì thuế suất 40-60% là rất cao. Chính phủ nên xem
xét vấn đề này
- Việc hoàn thuế tái xuất cần tiến hành nhanh hơn.
Thuế GTGT: Từ 1/1/1999, hệ thống thuế doanh thu không được sử dụng
mà thay vào đó là thuế GTGT nhăm tránh đánh thuế trùng lặp và chấn trỉnh
công tác hạch toán kế toán.
Hàng dệt may xuất khẩu thuộc dạng khuyến khích xuất khẩu, chịu thuế
GTGT ở mứ
c 0%, đồng thời còn được thoái thuế GTGT các khâu sản xuất
trước.
Chính sách về hạn ngạch và giấy phép xuất khẩu hàng dệt may.
Về hạn ngạch
Đối với hạn ngạch xuất khẩu nhằm đưa việc giao hạn ngạch hàng năm
vào nề nếp và khuyến khích các doanh nghiệp không ngừng đổi mới công nghệ,
nâng cao chất lượng sản phẩm, Liên Bộ Công Nghiệp- Kế hoạch đầu tư-Thương
mại đã ban hành thông tư số 29/1999/TTLB về việc giao hạn ngạch năm 2000.
Chính sách này đã sự linh hoạt, mang nhiều tính ư
u tiên cho những doanh
nghiệp có khả năng sản xuất hàng xuất khẩu, sử dụng nhiều nguyên liệu trong
nước song vẫn có những kiến nghị cần giải quyết sau:
- Cần phân bổ hạn ngạch sớm từ đầu năm để các doanh nghiệp có kế hoạch
sản xuất kinh doanh chủ động
- Việc phân bổ hạn ngạch phải căn cứ vào năng lực sả
n xuất kinh doanh thực
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Nguyễn Thị Hạnh QTKDQT41A
99
sự của các doanh nghiệp, đảm bảo công bằng nghiêm minh không phân biệt đối
xử giữa các doanh nghiệp
- Nâng tỷ lệ hạn ngạch phân bố theo hình thức thưởng lên 50% vào năm 2003
và tiến tới 100% hạn ngạch sẽ được phân bổ theo thành tích xuất khẩu vào thị
trường phi hạn ngạch. Đồng thời đưa mặt hàng dệt may xuất khẩu sang thị
trường phi hạn ngạch vào danh sách các mặt hàng được trợ cấ
p nóng.
- Theo dõi chặt chẽ thường xuyên việc thực hiện hạn ngạch ở các doanh
nghiệp đảm bảo cho việc thực hiện hạn ngạch có hiệu quả.
Về việc cấp giấy phép.
Đây là một trong những công cụ quan trọng của nhà nước để quản lý và
điều tiết hoạt động xuất khẩu. Trong những năm qua, nhờ cải cách trong thủ tục
hành chính, cũng như điều kiện được cấp hạn ngạch song việc xin cấp giấy phép
cho từng chuyến hàng làm các doanh nghiệp mất nhiều thời gian. Bên cạnh đó là
nạn quan liêu, cửa quyền trong khi làm thủ tục hải quan cũ
ng làm cho doanh
nghiệp tốn không ít thời gian chi phí tiền bạc.
KẾT LUẬN.
Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần như hiện nay, mức độ cạnh
tranh là rất quyết liệt. Sự tồn tại của cạnh tranh phải được chấp nhận nhưng
không được lo sợ. Tôn trọng cạnh tranh không kể loại hình hay quy mô của nó
là điều có lợi. Sự tôn trọng đó có thể tạo ra những suy nghĩ độc đáo, làm tăng
hiệu quả sản xuất, t
ạo ra khả năng tiếp thị và nâng cao lợi nhuận. Có thể rút ra
được những bài học từ cạnh tranh để phấn đấu và bảo đảm rằng sản phẩm và
hoạt động của công ty mình tốt hơn đối thủ cạnh tranh.
Trong bối cảnh đó các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải chấp nhận
cạnh tranh. Công ty dệt may Hà Nội không phải là một ngoại lệ. Trong thời gian
qua, công ty đ
ã tham gia canh tranh ở nhiều thị trường khác nhau. Công ty đã
đạt được một số kết quả như KNXK không ngừng tăng, năm sau cao hơn năm
trước, mẫu mã chủng loại hàng hoá ngày càng phong phú, một số mặt hàng tạo