Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Sự ra đời của ngành sinh học phân tử pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.12 KB, 4 trang )

Sự ra đời của ngành sinh học phân tử

Ngành di truyền học ra đời vào thế kỷ thứ XX: Đầu tiên những công
trình của Mendel (1822-1884) được nghiên cứu trở lại, đến năm 1900,
thuyết di truyền do nhiễm sắc thể ra đời.
Vào đầu thế kỷ XX người ta khám phá ra ADN như một chất sinh
hóa mang thông tin di truyền. (support biochimique de l'information
génétique) và làm sáng tỏ cấu trúc ADN.
Những năm 70 ngành sinh hóa phân tử bùng nổ (Biologie
Moléculaire) .
Và bình minh của thế kỷ XXI gia tài di truyền của con người được
giải mã
1) Sự xuất hiện ngành di truyền học
Ngành di truyền học hiện đại này có từ các công trình của Mendel ,
người đầu tiên thực hiện các lý thuyết về di truyền. Ông in ra các kết quả
năm 1866, nhưng lúc bấy giờ ít được chú ý. Cho đến năm 1900 thì người ta
mới nghiên cúu và khám phá trở lại
2) Nhiễm sắc thể, chât mang di truyền
Nhờ những công trình của Thomas Morgan (1866-1945) trên ruồi
drosophile đã dẫn đến sự phát triển của thuyết nhiễm sắc thể về tính di
truyền. Các gene nằm trong nhiễm sắc thể và theo Sturtevant thì các gene có
thể có một trật tự trong nhiễm sắc thể, và thành lập các giq"n đồ gene đầu
tiên. Cũng trong phòng thí nghiệm của Morgan mà các các thủ tục về thí
nghiệm biến đổi gene (procédures de mutagenèse expérimentales) được
Muller phát triển.
3) Sự hội tụ của ngành sinh hóa và di truyền
Lúc bấy giờ người ta biết sự hiện diện các gene trong nhiễm sắc thể
nhưng chưa biết tính chất sinh hóa các gene hay cách hành động của chúng.
Garrod thiết lập sự liên hệ đầu tiên giữa gene và enzym từ sự quan sát
căn bệnh di truyền.
Beadle và Tatum đào sâu liên hệ này nhờ một hệ thống dẫn tới thực


nghiệm: nấm Neurospora crassa.
Tổng hợp các công trình này đưa đến một kết luận là các gene kiểm
soát sự tổng hợp các enzym, và mỗi protein được mã hóa (codé) bởi một loại
gene riêng biệt.
4) ADN chất sinh hóa mang thông tin di truyền
Năm 1928: Hiện tượng đầu tiên cho phép phát triển về sự nhận diện
chất di truyền là sự biến đổi vi khuẩn do Griffith, người Anh tìm ra.
Hiện tượng này lúc bấy giờ được xem là một thử nghiệm về hoạt
động sinh học (activité biologique) mà nhờ đó người ta có thể xác định được
bản chất của chất di truyền (matériel génétique}. Thử nghiệm này lại được
Avery dùng để làm sáng tỏ bản chất sinh hóa của matériel génétique: đó là
ADN. Tuy nhiên sự khám phá này cũng được đón chào bởi nhiều người hoài
nghi. Phải đợi có nhiều công trình khác kế tiếp mà thực tế này mới được
chấp nhận: đặc biệt là công trình của Chargaff hay Hershey.
Sự chấp nhận toàn toàn và vĩnh viễn có được khi Watson và Crick
làm sáng tỏ của cấu trúc ADN
5) Ảnh hưởng của các nhà vật lý học
Ảnh huởng các nhà vật lý học sẽ đánh dấu ngành génétique phân tử.
Có những người, như Schrödinger đóng vai trò như một nhà quan sát.
Những người khác cống hiến tất cả sự nghiệp của họ cho ngành này vì họ
nhận biết rằng khoa học này là một biên giới (lãnh vực) mới của sự hiểu
biết khoa học.
Pauling và Delbrück đóng một vai trò xác định sự tiến triển của khoa
học này.
Delbrück đặc biệt là người sáng lập ra nhóm phage (groupe du
phage) với Luria và Hershey
6) Cấu trúc ADN
Cuối cùng, đó là nhờ sự sáng tỏ của cấu trúc ADN mà ngành sinh hóa
phân tử biết thành công rực rỡ. Sự thành công này không những là công
trình của Watson và Crick; mà cũng là của các nhà nghiên cứu Franklin và

Wilkins

×