Nguồn gốc HIV và AIDS – Phần 3
Thuyết kim tiêm bị vấy nhiễm
Thuyết này là phần mở rộng của thuyết “ người đi săn” ban
đầu . Vào những năm 1950s , bơm kim tiêm plastic sử dụng 1 lần đựơc
nhiều nứơc trên thế giới sử dụng vì rẻ tiền , vô trùng khi tiêm thúôc
. Tuy nhiên , tại các nứơc châu Phi , thì không phải như vậy , trong các
chương trình y tế, số lựơng bơm kim tiêm phải sử dụng rất lớn , cho
nên gây tốn kém nhiều . Vì thế , nhân viên y tế ở đây sử dụng 1 bơm
tiêm để tiêm cho nhiều người nhưng lại không tiệt trùng giữa 2 lần tiêm
. Điều này làm cho các vi hạt virus được truyền từ người nọ sang
ngừơi kia nhanh chóng , tạo điều kiện vô cùng thuận lợi cho virus biến
dị và sao chép khi xâm nhập đựơc vào 1 cơ thể mới , ngay cả khi SIV
ở ngừơi ban đầu bị nhiễm nhưng chưa chuyển đổi thành HIV .
Người đóng vai trò chủ đạo của thuyết này là Preston Marx , vốn
là 1 nhà virus học loài linh trưởng . Marx đã làm việc nhiều năm về
SIV và đã thu đựơc nhiều mẫu máu của khỉ mặt xanh (sooty
mangabeys ) cũng như mẫu máu của dân làng chuyên nghề săn bắt
loài khỉ này khi đi khảo sát tại các tỉnh miền bắc , và miền đông xứ
Sierra Leone . Đem các mẫu nghiệm về Mỹ làm xét nghiệm , Marx
phát hiện là các mẫu máu khỉ mặt xanh cho kết quả dương tính với
SIV và máu của một số dân làng có chứa cả 2 gien HIV và SIV .
Marx tin rằng nhiễm SIV , với tính cách bệnh từ động vật ( retroviral
zoonosis ) đã lưu hành tại đây nhiều thế kỷ , nhưng ông ta không rõ cái
gì đã “ kích hoạt ” thành dịch HIV và thời điểm xảy ra dịch HIV lại
xảy ra khá muộn tức là vào giữa những năm tuộc thập kỷ 70 của thế kỷ
trứơc .
Đến đây , mới thấy vai trò của sự tình cờ . Trên chuyến bay từ
New York đi New Orleans , Marx chú ý đến 1 hành khách đọc 1 bài báo
của 1 trong những đồng sự của mình tại Manhattan . Hành khách này là
Ernest Drucker, giáo sư tại trường Y khoa Albert Einstein tại New York .
Drucker cho biết là ông ta đang nghiên cứu vai trò của các kim tiêm
bẩn đối với sự bùng phát dịch AIDS trong nhóm người nghiện heroin
tại châu Á , Nam Mỹ và Tây Phi . Marx mê mẩn lý thuyết này ngay và
nghĩ rằng bệnh từ động vật do retrovirus và việc sử dụng lại kim
tiêm bẩn , vốn được thực hiện tại châu Phi vào những năm 1950 , có thể
đã làm lây lan HIV từ người này sang ngừơi khác và làm cho vụ dịch
phát triển mạnh . Qua đó , Marx đưa ra thuyết lây chuyển qua hàng loạt
( serial passage ) .
Thuyết lây chuyển qua hàng loạt ( serial passage )
Tiến trình lây chuyển hàng loạt bắt đầu khi 1 ngừơi vốn
bị phơi nhiễm với SIV từ 1 bệnh retrovirus súc vật chuyển sang ,
được tiêm 1 mũi tiêm ; sau đó kim tiêm tiêm người này đựơc dùng để
tiêm thúôc cho 1 người khác , giúp cho SIV được truyền sang người thứ
2 và gây nhiễm virus cho người đó . Người thứ 2 sau đó lại nhận 1 mũi
tiêm khác bằng 1 cây kim mới , cây kim này tương tự như trường hợp
trên , được sử dụng lại để tiêm cho người thứ 3 . Qui trình này cứ tái
diễn và qua mỗi lần lây chuyển thì SIV thích ứng và trở nên mạnh
hơn đối với hệ thống miễn dịch của con người . Con virus như thế
đựơc lây chuyển qua nhiều người do kim tiêm bị vấy bẩn và tiến trình
này rốt cuộc đã chuyển đổi virus SIV lành tính trở thành HIV có
độc tính cao . HIV bị biến đổi này có đủ độc lực để có thể lây
truyền qua quan hệ tình dục và từ đó ó vụ dịch khởi phát .
Lịch sử sử dụng bơm tiêm và kim tiêm tại châu Phi đã
chứng minh cho thuyết này . Sau chiến tranh thế giới lần 2 , Penicilline
đựơc sử dụng để điều trị nhiễm trùng rộng rãi . Vào năm 1943 , chỉ sử
dụng 21 triệu mũi tiêm , đến năm 1949 , con số này là 120 triệu . Trong
những năm thuộc thập kỷ 1950 , WHO và các cơ quan y tế khác đã phát
động nhiều chương trình y tế khắp châu Phi . Nghèo đói và nguồn lực
hạn chế buộc châu lục này phải sử dụng lại bơm tiêm và kim tiêm .
Trong 2 năm ( 1917-1919 ) , để tiêm chủng cho 90.000 người , ngừơi
ta chỉ dùng có 6 bơm kim tiêm . Từ 1952 đến 1957 , UNICEF đã cho
tiêm 12 triệu mũi tiêm trong chiến dịch thanh toán bệnh ghẻ cóc ( yaw)
tại Trung Phi . Cho đến năm 2000, bản tin của WHO vẫn còn nêu là
có từ 20% đến 60 % các trạm y tế tại một số nứơc quá nghèo tại châu
Phi vẫn còn sử dụng kim tiêm không vô trùng . Việc sử dụng các kim
tiêm không vô trùng đã làm tăng theo cấp số nhân cơ hội lây chuyển
hàng loạt virus SIV ở người và đã kích hoạt virus SIV lành tính trở
thành HIV có độc lực cao . Marx đã chứng minh thực nghiệm rằng SIV
có tính sinh bệnh cao gấp 1000 lần khi chỉ đựơc lây chuyển hàng loạt
qua 3 con khỉ . Thuyết này có ít sơ hở hơn thuyết vaccin OPV nhiễm
bẫn và thuyết người thợ săn bị thương (cut hunter) . Chỉ có 1 điểm mà
thuyết này không giải thích đựơc vì sao có 1 khoảng thời gian “ lặng”
giữa thời điểm sử dụng kim tiêm không vô trùng và thời điểm dịch
HIV xuất hiện .
Thuyết chủ nghĩa thuộc địa
Thuyết chủ nghĩa thuộc địa hay thuyết “giữa chốn địa ngục“ dựa
theo tên 1 quyển tiêu thuyết "Heart of Darkness" của Joseph Conrad .
Thuyết này dựa trên tiền đề người thợ săn bị thương nhưng có tính toàn
diện và khá đặc trưng hơn. Thuyết này do Jim Moore, một nhà nhân chủng
học Mỹ chuyên về hành vi của loài linh trưởng , cùng với 2 sinh viên
Amit Chitnis và Diana Rawls đưa ra trong một báo cáo đăng trên tờ “
AIDS Research and Human Retroviruses “ vào năm 2000 .
Quyển "Heart of Darkness" (tạm dịch Giữa chốn địa ngục )
của Joseph Conrad tuy có tính tiểu thuyết nhưng cũng đủ để tả cảnh
kinh hoàng của chế độ cai trị thuộc địa tại Congo thuộc Bỉ . Chế độ cai
trị thuộc địa của Bỉ dưới thời Hoàng đế Leopold cực kỳ hà khắc và tàn
bạo . Uớc tính số người Phi chết vì ách thuộc địa tại châu Phi xích
đạo thuộc Pháp và Congo thuộc Bỉ từ 1880 cho đến khi chiến tranh
thế giới lần 2 bắt đầu còn cao hơn số nô lệ được bắt ra khỏi châu Phi
của 400 năm trứơc cọng lại . Đợt kiểm tra dân số đầu tiên vào những
năm 1920 ứơc tính số dân tại 2 thuộc địa này là 15 triệu người . Tài liệu
điều tra dân số cũng cho biết là có 15 triệu ngừơi khác đã chết trong 2
thập kỷ trứơc đó . Tỉ số chết lên tới 50% , trong khi tỉ số tử vong vì dịch
hạch tại châu Âu cao nhất cũng chỉ tới 35%. Dân bị trị chết vì chế độ ăn
thiếu thốn , điều kiện vệ sinh thấp và yêu cầu lao động nghiệt ngã . Có
bác sĩ , nhưng trang bị thiếu thốn khiến cho việc chữa trị những bệnh
địa phương trở thành qúa khó khăn . Do đó , việc tái sử dụng bơm tiêm
và kim tiêm không vô trùng rộng rãi là thực tế đương nhiên. Moore tin
rằng nhiều công nhân đã đựơc tiêm phòng chống một số bệnh như đậu
mùa (để giúp cho họ sống và lao động ) bằng kim tiêm không sạch .
Nhiều trại còn đem cả gái bán dâm tới để mua vui cho công nhân, càng
tạo thêm điều kiện thuận lợi cho sự lây truyền trong tương lai Tất cả
những yếu tố này cũng đủ để làm suy giảm sức khoẻ cả quần thể , cho
nên , một con tinh tinh ốm và lạc bầy cũng có thể trở thành nguồn thực
phẩm bổ sung cho đám công nhân đói ăn và cho phép SIV dễ dàng
xâm nhập vào lực lượng lao động và chuyển thành HIV trong điều kiện
hệ thống miễn dịch của họ bị suy giảm .
Một số lượng lớn công nhân thậm chí chết trứơc khi xuất hiện
những triệu chứng đầu tiên của bệnh AIDS , và những ngừơi bị ốm
không hề có gì khác biệt với những người trong cộng đồng vốn đầy
bệnh tật . Mà nếu có biết rằng họ bệnh đi nữa , thì tất cả các bằng
chứng ( kể cả các bệnh án ) cho biết sự hiện diện của trại lao động này
cũng bị tiêu huỷ để xoá đi bằng chứng là con số dân địa phương bị
chết lên đến mức kinh hoàng là 50% . Trong hoàn cảnh này , tác nhân lây
bệnh lây từ người này sang ngừơi khác là điều không thể tránh khỏi .
Thuyết này cũng giống như thuyết kim tiêm bị vấy bẩn , không
giải thích đựơc vì sao có một khoảng thời gian chậm trễ từ khi bắt đầu
có HIV vào những năm 1930 và dịch AIDS lan rộng bắt đầu vào những
năm 1950 . Tuy nhiên , như Moore lý luận , liệu vụ dịch đã bùng nổ hoặc
chỉ xuất hiện lẻ tẻ từng ca một , rồi cứ 2 hoặc 3 năm lại tăng gấp đôi ?
Nếu vậy , sẽ cần tới ít nhất là 1 thập kỷ để có đủ số ca dồn lại đủ để
ghi nhận là 1 hội chứng . Mặt khác , liệu các thầy thúôc thuộc địa quá tải
vì công việc có đủ sức để phân biệt đựơc hội chứng mới xuất hiện
này trong số biết bao nhiều bệnh nhiễm trùng đầy rẫy tại đây? Moore
cho rằng , "thời gian trì trệ dài này có thể chỉ là do ta cảm nhận mà
thôi" . Yếu tố cuối cùng mà Moore dùng để củng cố lý thuyết của
mình dựa trên thực tế là các trại lao động được xây dựng vào thời điểm
mà người ta tin rằng HIV được truyền sang người lần đầu tiên- tức là
những năm đầu của thế kỷ 20.
Thuyết âm mưu
Một số người cho rằng HIV do con ngừơi tạo ra . Chẳng hạn , qua
một cuộc điều tra mới đây được thực hiện tại Mỹ , có một số khá lớn
ngừơi Mỹ gốc Phi tin rằng HIV được tạo ra trong một chương trình
chiến tranh sinh học, với ý đồ tiêu diệt đám dân da đen và dân tình dục
đồng giới . Nhiều ngừơi cho rằng chương trình này đựơc chương trình
virus ung thư đặc biệt = 'Special Cancer Virus Program' (SCVP) của chính
phủ Mỹ bảo trợ , có sự giúp đỡ của CIA . Một số khác thậm chí còn tin
rằng virus đã lây lan ( cả cố ý hoặc vô tình ) sang hàng ngàn ngừơi trên
khắp thế giới thông qua chương trình tiêm chủng vaccin phòng bệnh
đậu mùa , hoặc chương trình thử nghiệm tiêm Vaccin viêm gan B cho
những ngừơi tình dục đồng giới nam. Trong khi không có thuyết nào
trên đây bị bác bỏ thẳng thừng , dù rằng các bằng chứng đưa ra còn qúa
mỏng manh , và thừơng bỏ qua mối liên kết giữa SIV và HIV , hoặc
thực ra thì HIV chỉ mới phát hiện trên người sớm lắm cũng chỉ vào
năm 1959 . Các thuyết này cũng quên đến 1 chi tiết là vào thời điểm
bệnh AIDS xúât hiện đầu tiên , trên thế giới chưa hề có công nghệ di
truyền (genetic-engineering technology )
Để kết luận , tạm lấy lời của Katrak Sarosh , là có thể chúng ta
không bao giờ biết được AIDS thực sự bắt nguồn từ đâu và khi nào . Có
nhiều lý thuyết đựơc đưa ra và mỗi lý thuyết đều có những điểm đáng lưu
ý . Tranh luận và bảo vệ lý lẽ của từng thuyết vẫn còn liên tục diễn ra
khốc liệt và trong trừơng hợp thuyết vaccin OPV bị nhiễm bẩn , việc
tranh luận đã vượt ra ngoài khuôn khổ của các thảo luận khoa học .
Từ 4 lý thuyết đựơc trình bày , một kết luận chung là do một số
lý do còn chưa rõ nguồn gốc của AIDS không phải bình thừơng , tự
nhiên. Có 1 cái gì đó đã “ kích “ SIV lành tính thành HIV độc tính ,
mặc dù con ngừơi đã từng bị phơi nhiễm với SIV trong hàng ngàn năm .
Cũng có lý khi cho rằng 3 trong 4 lý thuyết đều có liên quan đến những
hậu qủa xui xẻo , dù rằng không có chủ ý , của tiến bộ y học vào thời
điểm triển khai các chương trình y tế .
Thời điểm xuất hiện HIV.
Trong vài năm gần đây , ngừơi ta không những có thể phát hiện
sự HIV hiện diện trong mẫu máu hoặc huyết tương , mà còn có thể xác
định ra từng phân typ virus .
Khi nghiên cứu các phân typ virus của một số trừơng hợp đầu tiên
nghi nhiễm HIV còn lưu giữ mẫu nghiệm có thể giúp ta hiểu được thời
điểm HIV xuất hiện đầu tiên cũng như tiến hoá sau này .
Có 3 tình huống HIV sớm nhất mà ta biết đựơc :
1 mẫu bệnh phẩm huyết tương lấy năm 1959 từ người ngừơi đàn
ông sống tại Cọng hoà Dân chủ Congo hiện nay .
Tìm thấy HIV trong mẫu bệnh phẩm mô của 1 thanh niên Mỹ chết
tại St. Louis vào năm 1969.
Tìm thấy HIV trong mẫu bệnh phẩm mô của 1 thuỷ thủ ngừơi Na-
uy chết khoảng năm 1976.
Kết qủa phân tích năm 1998 từ mẫu bệnh phẩm huyết tương lấy
năm 1959 cho thấy HIV-1 đựơc du nhập vào con người khoảng năm
1940 hoặc đầu những năm 1950 , tức là còn sớm hơn so với tính toán
trứơc đây . Cũng từ mẫu bệnh phẩm này , có nhà khoa học khác cho kết
quả còn xa hơn nữa, thậm chí vào cuối thế kỷ 19 .
Tuy nhiên , đến tháng giêng năm 2000, Bette Korber của
phòng thí nghiệm quốc gia Los Alamos , trình bày kết qủa của 1 nghiên
cứu mới tại Hội nghị về các bệnh Retrovirus và nhiễm trùng cơ hội lần
thứ 7 , lại cho rằng ca nhiễm HIV-1 đầu tiên xảy ra vào khoảng năm 1930
( xê dịch 15 năm ) tại Tây Phi . Con số 1930 ứơc tính dựa vào một mô
hình tiến hoá của HIV chạy trên siêu máy tính Nirvana . Nếu ứơc tính
này đúng , có nghĩa là HIV đã có từ trứơc , trứơc những kịch bản mà
các thuyết đề ra (như thuyết vaccin OPV và thuyết âm mưu ) .
Liên quan đến thời điểm HIV-2 lây truyền sang người .
Cho đến tận gần đây , nguồn gốc của HIV-2 chưa đựơc
nghiên cứu mấy . Người ta nghĩ rằng HIV-2 đi từ SIV ở loài khỉ mặt
xanh (sooty mangabey) hơn là từ loài tinh tinh , nhưng ngừơi ta cũng tin
sự nhảy chéo ( crossover ) từ khỉ sang con người cũng xảy ra theo cách
tương tự ( tức là qua cách săn giết khỉ rồi ăn thịt ) . HIV-2 hiếm gặp hơn
, ít lây nhiễm hơn và diễn tiến sang AIDS chậm hơn nhiều so với HIV-
1 . Thành ra , HIV-2 gây nhiễm cho ít người hơn. Và chủ yếu chỉ khu trú
tại một số quốc gia vùng Tây Phi .
Vào tháng 5/2003 , một nhóm các nhà nghiên cứu ngừơi Bỉ do
Anne-Mieke Vandamme đứng đầu , đã công bố kết quả nghiên cứu trên tờ
Proceedings of the National Academy of Science. Bằng cách phân tích các
mẫu nghiệm của nhiều phân typ HIV-2 khác nhau ( A và B) lấy từ các
bệnh nhân và các mẫu nghiệm SIV lấy từ khỉ mặt xanh châu Phi ,
Vandamme kết luận rằng phân typ A đã truyền sang ngừơi vào khoảng
năm 1940 và phân typ B vào năm 1945 ( xê dịch khoảng 16 năm ). Nhóm
nghiên cứu cũng phát hiện virus có nguồn gốc từ Guinea-Bissau ( vốn
là 1 cựu thuộc địa của Bồ đào nha ), và sự lây lan có thể đã xảy ra trong
chiến tranh dành độc lập của nứơc này từ 1963 đến 1974 . Thuyết này có
cơ sở thực tế bởi vì những trường hợp người châu Âu đầu tiên nhiễm
HIV-2 được phát hiện từ các cựu binh người Bồ đào nha , trong đó có
nhiều ngừơi được truyền máu hoặc tiêm thúôc bằng kim tiêm không vô
trùng sau khi bị thương , hoặc có khả năng do quan hệ tình dục với gái
điếm địa phương .