Lớp: Quản trị - Luật 16/2
Thành viên tham gia thảo luận:
STT Họ và tên MSSV Phân công công việc
1 Phạm Hồng Thiên Thanh 1055060134 Đưa ra dự báo
2 Võ Ngọc Thúy Vy 1055060179 Phân tích nguyên nhân
3 Nguyễn Minh Thanh Tâm 1055060132 Phân tích nguyên nhân
4 Lê Thị Mỹ Thùy 1055060145 Phân tích nguyên nhân
5 Lê Thị Tú 1055060160 Phân tích nguyên nhân
6 Phạm Ngọc Minh Tuyên 1055060165 Đề ra giải pháp
7 Phạm Thị Tú Anh 1055060185 Đưa ra dự báo
8 Đặng Uyên Phương 1055060114 Tìm hiểu thực trạng
9 Vũ Thị Thu Huệ 1055060198 Tìm hiểu thực trạng
10 Nguyễn Tri Túc 1055060164 Tìm hiểu thực trạng
11 Bùi Đại Huynh 1055060203 Tìm hiểu thực trạng
1
Lời nói đầu
Trong cuộc sống, con người luôn phải đối mặt với nhiều lo âu. Mỗi sớm mai
thức dậy, thay vì chuẩn bị cho một ngày mới để yêu thương, chúng ta lại ngập đầu
trong những cơn bão giá. Nào là giá gas, giá điện, đôi khi lại giật mình với giá xăng,
giá gạo… Dường như trước khi bắt đầu hành trình của một ngày mới, con người trên
mọi nẻo đường cuộc sống luôn phải đắn đo cho một quyết định. Quá ít tiền, ta chỉ có
thể chọn một, muốn có được thứ này, đừng mơ đến thứ khác! Những bậc làm cha, làm
mẹ, dù cuộc sống có khó khăn, bộn bề đến mức nào có lẽ cũng không nỡ đánh đổi một
thứ nào khác vì ly sữa của con trẻ. Qua đó, chứng tỏ một nhận định rằng: “Sữa” là một
mặt hàng thiết yếu trong cuộc sống, đặc biệt như ở Việt Nam. Mỗi lần bật TV, ta sẽ lại
nghe thấy những thanh âm trong trẻo: “Sữa cộng palatinose cung cấp năng lượng cho
não giúp con nhanh nhẹn, lanh lợi và thông minh hơn. Sữa cộng, cộng nhiều hơn cho
con” (quảng cáo sữa Cô gái Hà Lan cộng) hay “Thiên nhiên luôn ban tặng cho chúng
ta những điều tốt đẹp nhất nếu chúng ta biết nâng niu, gìn giữ. Vì vậy, chúng tôi đã nỗ
lực không ngừng để sự tinh túy ấy được vẹn nguyên làm nên những giọt sữa ngọt, tươi
ngon, bổ dưỡng, sữa sạch TH True milk, thật sự thiên nhiên”;…Mỗi lần như vậy, nghe
thấy những lời ngọt ngào từ những “ly sữa thơm ngon”, sữa thị trường càng đi vào
lòng người, đặc biệt với trẻ em, những mầm non của đất nước. Nhưng đằng sau vẻ
“ngon ngọt” đó là những vấn đề gì? Một người tiêu dùng từng thổn thức “Cuộc sống là
chuỗi những nghịch lý, cũng chính vì điều đó mà con người mới xuất hiện để xóa bỏ
những nghịch lý ấy”. Có bao giờ các bạn nghĩ rằng giá sữa ở Việt Nam chúng ta cũng
là một biểu hiện của sự nghịch lý đó không, không công bằng trong cung và cầu sữa;
trong mối quan hệ giữa giá và thu nhập; trong doanh thu, chất lượng, giá trị của sữa
nội và sữa ngoại, Chúng ta hãy cùng đến với bài tiểu luận để có những góc nhìn đa
chiều, khách quan hơn về vấn đề này: “NHỮNG NGHỊCH LÝ CỦA GIÁ SỮA TRẺ
EM TẠI VIỆT NAM”.
2
I) Thực trạng giá sữa nói chung và giá sữa trẻ em nói riêng tại Việt Nam
1. Tình hình chung về giá sữa thế giới những năm gần đây:
Sữa là một trong những mặt hàng thiết yếu của thế giới và rất được quan tâm vào
những năm gần đây. Từ năm 2009 đến nay giá sữa trên thị trường thế giới có nhiều
biến động mạnh. Giảm mạnh và dần phục hồi vào cuối năm 2009, tiếp tục không ổn
định trong năm 2010 và giảm mạnh nhất trong tháng 9/2011, rồi tăng lên và giảm nhẹ
cho đến nay. Giá sữa nguyên liệu lên xuống thất thường ảnh hưởng mạnh tới giá sữa
thành phẩm trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Ví dụ gần đây:
Theo thống kê của Cục Quản lý giá, trong năm 2011 và đầu năm 2012, thị trường
sữa thế giới tiếp tục có sự tăng giảm về giá. Trên 3 thị trường sữa lớn nhất thế giới là
Australia, Tây Âu, New Zealand và Mỹ, giá sữa nguyên liệu trong giai đoạn từ tháng
9/2011 đến tháng 3/2012 có sự giảm nhẹ. Đầu năm 2012, giá sữa giảm trung bình
khoảng 100 USD/tấn (tương đương giảm 2,5%). Các công ty sản xuất sữa thường nhập
sữa nguyên liệu thành các đợt. Mỗi đợt cách nhau 3-4 tháng. Như vậy, theo suy luận
logic, trong giai đoạn cuối năm 2011 đến đầu năm 2012, các nước chuyên nhập khẩu
sữa nguyên liệu sẽ có giá bán sữa trong nước giảm theo thị trường sữa nguyên liệu trên
thế giới. Điều này liệu có đúng ở Việt Nam?
2. Tình hình giá sữa Việt Nam những năm gần đây
a) Giá sữa năm 2009
Theo thống kê, từ năm 2009 đến nay, giá sữa không giảm mà tăng khá cao. Ta có
thể gọi năm 2009 là cột mốc quan trọng của giá sữa ở Việt Nam. Cuộc khủng hoảng
sữa chứa melamine diễn ra vào cuối năm 2008 tạo thời cơ cho các hãng sữa thi nhau
tăng giá với một tốc độ chóng mặt. Hệ quả của việc tăng giá này là giá sữa của chúng
ta được xếp vào hàng cao nhất thế giới. Nếu giá chung của các loại sữa bột, sữa
tươi được quy ra lít thành phẩm thì giá bán lẻ sữa trong nước vào khoảng 25.000
đống/lít. So sánh với các nước khác như Ấn Độ, Thái Lan, Malaysia và các nước Âu,
Mỹ thì ta hơn họ 9.000 - 15.000 đồng/lít, nghĩa là giá sữa trong nước gần gấp đôi giá
sữa một số nước khác. Điều đáng nói là giá sữa nguyên liệu thế giới trong những năm
này lại liên tục giảm, giảm tới 40 - 60% so với trước.
3
Chúng ta hãy cùng tìm hiểu giá sữa của một hãng sữa khá nổi tiếng tại Việt Nam
để thấy rõ hơn vấn đề giá sữa thuộc diện cao nhất thế giới của nước ta:
Bảng giá đối chiếu nhãn hiệu sữa Enfa A+ các loại:
Mã hàng Giá vốn
hàng bán
của Mead
Johnson
Việt Nam
Mead
Johnson
VN bán
cho NPP
Mead
Johnson VN
đề nghị bán
cho NTD
So với giá
vốn
Enfa Grow
A+ loại 900 gr
Gần
113.000
Hơn
200.000
Gần 277.000 Gần 245%
Enfa Pro
A+ loại 900 gr
Hơn
130.000
Hơn
207.000
Gần 287.000 Gần 220%
Enfa Kid A+
loại 900 kg
Hơn
107.000
Hơn
172.000
Hơn 237.000 220%
Qua bảng đối chiếu giá sữa Enfa A+ các loại, chúng ta có thể thấy giá sữa của
hãng này khi đến tay người tiêu dùng đã hơn gấp đôi giá vốn, một con số khủng khiếp,
qua đó minh chứng cho nhận định rằng ngành kinh doanh sữa đang là ngành siêu lợi
nhuận.
b) Giá sữa giai đoạn 2010 – đầu 2011
Đến năm 2010 – đầu năm 2011, giá sữa ở nước ta tiếp tục tăng nhưng không còn
thuộc diện cao nhất thế giới nữa. Một khảo sát cuối năm 2010 của Phòng Thương mại
châu Âu (Eurocham NFG) đã kết luận giá sữa Việt Nam đang ở mức không quá cao
trong khu vực.
4
Mức chênh lệch giữa giá sữa ở các nước trong khu vực châu Á.
Theo Eurocham NFG, giá sữa trung bình tại Việt Nam giai đoạn 2010 – 2011 ở
mức thấp trong khu vực Châu Á. Cụ thể, ta thấp hơn Trung Quốc đến 93%, thấp hơn
Indonesia 74%, thấp hơn Singapore 62%, Ngoài ra, từ ngày 15 đến ngày 17/12/2010,
Eurocham NFG cùng một số đại diện báo chí và Hội Bảo vệ Người tiêu dùng Việt
Nam đã làm một cuộc khảo sát tại Singapore và Malaysia về vấn đề biến động giá sữa.
Kết quả cho thấy:
- Sữa Enfapro A+ lon 850 gram, giá tại siêu thị Carrefour (Malaysia) là 504.074
đồng/lon, tương đương 593 đồng/gram. Sản phẩm Enfapro A+ tương tự ở Việt
Nam có giá bán lẻ 341.000 đồng/lon 900 gram, tương đương 379 đồng/gram.
- Sữa Nan Pro 3 lon 900 gram tại siêu thị Carrefour (Singapore) giá bán lẻ tương
đương 460.783 đồng/lon; trong khi giá ở Việt Nam là 307.100 đồng/lon.
Như vậy, khẳng định trên hoàn toàn đúng. Giá sữa trẻ em trong giai đoạn 2010 –
đầu 2011 là không cao so với các nước trên thế giới.
c) Giá sữa năm 2011
Cuộc thống kê 9 tháng đầu năm 2011 đã chỉ ra rằng tháng nào cũng có ít nhất
một nhãn sữa tại Việt Nam tăng giá. Theo đó, giá sữa đã tăng từ 4-15% so với trước.
Các loại sữa bột Dutchlady, Friso, Friso Gold đồng loạt tăng từ 54.000-81.000
đồng/hộp. Như đã trình bày ở trên, trái ngược hoàn toàn với Việt Nam, giá sữa thế giới
giai đoạn này đang giảm, nhất là từ tháng 4/2011 lại càng giảm mạnh.
Đến cuối năm 2011, có khá nhiều hãng sữa tham gia chiến dịch bình ổn giá. Đây
là tín hiệu đáng mừng cho người tiêu dùng. Ví dụ, Công ty Cổ Phần Sữa Việt Nam
5
(Vinamilk) cam kết không tăng giá bán nhóm sữa bột dinh dưỡng cho trẻ em dưới 12
tháng. Công ty Cổ Phần Thực phẩm dinh dưỡng Đồng Tâm (NutiFood) cũng tham gia
bình ổn giá. Điều này một mặt làm ổn định thị trường đầy biến động vào dịp cuối năm,
mặt khác, nó đem lại sự yên tâm cho người tiêu dùng trong thời kỳ “bão giá” như hiện
nay.
Tuy nhiên, ở mặt hàng sữa ngoại thì giá vẫn không ngừng tăng. Có thể nói, giá
sữa ngoại ở nước ta từ trước đến nay chưa bao giờ giảm. Vào những ngày cuối cùng
của năm 2011, sữa Abbott Grow Advance IQ tăng trưởng, hộp 1.8 kg có giá 558.000
đồng tăng lên 608.000 đồng. Sữa bột Abbott Gain Plus IQ hộp 1.7 kg có giá 667.000
đồng tăng lên 727.000 đồng…Mead Johnson cũng tăng giá các mặt hàng Enfagrow,
Enfakid với mức tăng 7-8% Một điều đáng quan tâm là giá sữa bột thế giới lại tiếp
tục giảm và đã xuống mức giảm thấp nhất trong hơn một năm qua nhưng thị trường
sữa nhập khẩu ở Việt Nam chưa bao giờ giảm mà luôn tăng. Đây phải chăng là sự
nghịch lý? Hay ẩn sâu đó còn có nhiều nguyên nhân chúng ta chưa được biết?
d) Giá sữa đầu năm 2012
Sang năm 2012, một năm mới mở ra và lo lắng về giá sữa sẽ tăng lại bao trùm
nhiều gia đình Việt Nam, nhất là khi tâm lý hầu hết các gia đình trẻ Việt Nam muốn
con mình sinh ra vào năm Rồng. Dù giá sữa ở Việt Nam đang ở mức khá cao so với
các nước trên thế giới nhưng trong thời gian qua, nhất là năm 2012, các hãng sữa đã
có nhiều đợt tăng giá. Đúng mùng 1 Tết Âm lịch, Vinamilk đã khởi xướng cho đợt
tăng giá với mức tăng 5 – 7%. Ngày 13.2.2012, công ty FrieslandCampina Việt Nam
tăng khoảng 700 – 1.500 đồng/sản phẩm (tương đương 5%) các nhãn hiệu Cô Gái Hà
Lan, YoMost, Fristi,… Nestlé VN thì áp dụng điều chỉnh giá lên 8 - 10% đối với một
số sản phẩm. Công ty dược phẩm 3A - đơn vị phân phối sữa của Abbott cũng tăng
khoảng 9% Chính vì tình hình đua nhau tăng giá sữa như vậy mà một người tiêu
dùng đã nói “Gíá sữa liên tục tăng và tăng rất toàn diện, hãng nào cũng tăng, loại
nào cũng tăng, chẳng lẽ lại bắt con mình nhịn sữa à, thôi thì đành cầu Trời, cầu Nhà
nước mình vậy…” quả thực đáng để chúng ta suy ngẫm!
e) Thị phần sữa tại Việt Nam.
6
Cuộc khủng hoảng sữa chứa melamine cuối năm 2008, đầu năm 2009 đã tạo cơ
hội cho các hãng sữa nội “lấn sân” sang thị trường sữa ngoại. Theo nghiên cứu của
Euromonitor, thực trạng phân phối trên thị trường sữa của Việt Nam năm 2009 như
sau: Vinamilk chiếm 35%; Dutch Lady 24%; các sản phẩm sữa bột nhập khẩu (Mead
Johnson, Abbott, Nestlé…) là 22%; 19%, còn lại là các hãng nội địa như Anco Milk,
Hanoimilk, Nutifood… Như vậy, các hãng sữa nội thống trị 54% thị trường và các
hãng sữa ngoại là 46% còn lại. Từ đó, ta có thể khái quát thị phần sữa ở Việt Nam giai
đoạn 2009 như sau:
Tuy nhiên, tình hình đó đã hoàn toàn thay đổi trong thời gian gần đây. Theo một
thống kê được thực hiện vào 5/11/2011, sữa ngoại chiếm đến hơn 70% thị phần sữa
bột Việt Nam, đứng đầu là Abbott, Dutch Lady (tức FreislandCampina hiện nay),
Dumex, Nestlé Trong đó, 4 hãng sữa lớn của nước ngoài là Abbott chiếm 32% thị
phần sữa bột, Dutch Lady 16%, Dumex 8% và Nestlé là 4,2%. Vậy nên, sữa ngoại nói
chung và 4 hãng sữa đang thống trị thị trường Việt Nam nói riêng hoàn toàn có thể dẫn
dắt thị trường theo chiều hướng có lợi cho nhà sản xuất, nhà kinh doanh và nhà phân
phối. Cứ một hãng tăng giá là nhất loạt đều tăng theo.
f) Tình hình chăn nuôi bò hiện nay
Một trong những nguyên liệu quan trọng nhất của sản phẩm sữa bột chính là
nguồn sữa bò tươi. Hiện nay, ngành chăn nuôi mới chỉ đáp ứng được 28% nhu cầu tiêu
dùng trong nước. Nguyên nhân là do việc chăn nuôi bò sữa ở nước ta còn diễn ra một
cách nhỏ lẻ với hơn 95% các trang trại của nông dân chỉ dưới 10 con/ trại, khâu từ
nông trại đến nhà máy còn hạn chế, người nông dân thiếu vốn cũng như trình độ kỹ
thuật Điều này nghĩa là hơn 70% nguyên liệu sữa cung cấp cho các nhà máy trong
nước sẽ được nhập khẩu từ Châu Âu, New Zealand, Mỹ, Australia và Trung Quốc dưới
dạng sữa bột. Bên cạnh đó, tìm hiểu về Số liệu thống kê của Cục Chăn nuôi - Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn cho thấy: năm 2010, tổng đàn bò sữa của Việt Nam là
137 nghìn con, tăng 22 nghìn con so với năm 2009. Cả sản lượng và chất lượng sữa
đều tăng. Giá sữa không ngừng tăng cao trong những năm vừa qua. Tuy nhiên, trên
7
thực tế, người nông dân chăn nuôi bò sữa vẫn không có lời. Giá thu mua sữa hiện dao
động từ 11.500 - 12.500 đồng/kg tùy theo chất lượng sữa. Giá thức ăn cho bò và giá
sữa bán trên thị trường tăng nhiều lần. Hầu hết các doanh nghiệp đã tăng giá bán sữa 2
– 3 lần trong năm 2011. Trái ngược hoàn toàn, giá mua sữa của các doanh nghiệp
dường như tăng không đáng kể (giá sữa 2 năm trước khoảng 9000 đồng/kg). Nếu tiếp
tục không có lời, phải chăng trong tương lai chúng ta sẽ không còn nhìn thấy bò sữa?
II) Những nguyên nhân khiến cho giá sữa tăng
Như thực trạng đã nêu trên, ta thấy thị trường sữa đã và đang biến động không
ngừng. Chỉ tính riêng đầu năm 2012, Vinamilk đã khởi xướng cho đợt tăng giá với
mức tăng 5 – 7%. Ngay sau đó, thị trường Việt Nam liên tục có sự tăng giá của hàng
loạt các hãng sữa khác. Cụ thể, ngày 13/2/2012, công ty FrieslandCampina Việt Nam
tăng khoảng 700 – 1.500 đồng/sản phẩm (tương đương 5%) các sản phẩm sữa nước và
sữa đặc có đường nhãn hiệu Cô Gái Hà Lan, YoMost, Fristi,…Nestlé Việt Nam thì áp
dụng điều chỉnh giá lên 8 - 10% đối với một số sản phẩm. Công ty dược phẩm 3A -
đơn vị phân phối sữa của Abbott cũng tăng khoảng 9% Vậy nguyên nhân nào dẫn
đến việc tăng giá sữa đáng ngờ như vậy?
Ta có thể đặt hai giả thiết khiến cho giá sữa tăng như sau:
1. Giả thiết cung không đổi, cầu thay đổi:
a) Thu nhập:
Mặc dù tình hình kinh tế hiện nay xảy ra lạm phát cao nhưng điều này không có
nghĩa là thu nhập cùa người dân hạn chế mà ngược lại, thu nhập của người dân, đặc
biệt là ở thành thị, đang tăng. Theo như điều tra thì thu nhập của một người năm 2010
là 1.387triệu đồng/tháng, năm 2011 tăng 863 nghìn đồng lên 2.25 triệu đồng/tháng.
Còn GDP năm 2010 vượt 100 tỳ USD, năm 2011 vượt 200 tỷ USD.
Theo như Định luật nhu cầu Herman Gossen thì ăn, ở, mặc là những nhu cầu cấp
thiết nhất của con người, sự thỏa mãn các nhu cầu phụ thuộc vào thu nhập của con
người, một khi thu nhập càng cao thì con người càng muốn nâng cao sự thỏa mãn hơn.
Và ta có thể gọi đây chính là sự nâng cao chất lượng cuộc sống của con người theo thu
nhập. Trở lại với vấn đề sữa thì ta thấy rằng, khi thu nhập của phụ huynh tăng lên, sau
khi đã thỏa mãn những nhu cầu cơ bản nhất của mình, đó là ăn, mặc, ở, sinh hoạt cần
8
thiết hằng ngày, thì họ sẽ hướng đến nhu cầu cần thiết nhất cho sự phát triển của con
cái, đó chính là nhu cầu được uống sữa. Đồng thời Việt Nam có cơ cấu dân số trẻ và
mức tăng dân số trên 1%/năm, thu nhập bình quân đầu người cũng tăng trên 6%/năm
là điều kiện để thị trường sữa nói chung, đặt biệt là sữa trẻ em nói riêng tăng trưởng ổn
định, ít ra trong vòng 10 năm tới. Chính vì thế, ta thấy được hiện nay, tình hình tiêu
thụ sữa trên thị trường không ngừng gia tăng, bởi vì, sữa đã trờ thành nhu cầu cần thiết
cho sự phát triển của trẻ em. Ta có thể khẳng định rằng, sự tăng lên về thu nhập là một
trong những nguyên nhân dẫn đến sự tăng lên của cầu về sữa trên thị trường.
b) Thị hiếu
Theo như chúng ta biết, thị hiếu tác động lên đường cầu một cách rất rõ ràng, đó
chính là: khi người ta càng thích sản phẩm, họ càng sẵn lòng trả giá cao cho sản phẩm
ấy và càng muốn thêm nhiều thêm nữa, thị hiếu ở đây chính là mức độ thịnh hành của
sữa trong thị trường các sản phẩm thiết yếu hiện nay. Nhìn vào thực tế, ta thấy rằng thị
hiếu về sữa ngày càng cao, bởi vì như đã đề cập ở vấn đề a) thì nhu cầu về sự phát
triển cả về thể chất và trí não cho trẻ em hiện nay rất cao nên sữa trở nên cần thiết hơn
và người ta sẵn sàng trả nhiều tiền để đạt được điều người ta trông đợi.
Nhân đây, chúng ta bàn thêm về thị hiếu của người dân đối với sữa nội và sữa
ngoại. Đó là có rất nhiều ông bố, bà mẹ tin tưởng vào chất lượng sữa ngoại tốt hơn sữa
nội và do đó, cầu về sữa ngoại ở Việt Nam khá cao. Lý do của việc lựa chọn sữa ngoại
nhiều hơn sữa nội có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là hai lý do sau đây:
Thứ nhất, sau sự cố sữa bày bán ở thị trường bị thiếu hụt lượng đạm nghiêm
trọng thông qua con số thông báo trên nhãn không phù hợp với mức độ thực tế do
thanh tra đo lường ở thị trường sữa nội địa đã khiến cho nhiều ông bố, bà mẹ bị mất
lòng tin vào sữa nội và chuyển sang sử dụng sữa ngoại, đặc biệt là những loại sữa
ngoại có danh tiếng nhằm đảm bảo sức khỏe cho con cái.
Thứ hai, đó chính là tâm lý “sính ngoại” của một bộ phận không nhỏ người tiêu
dùng Việt Nam. Nhiều người luôn tin tưởng rằng chất lượng của hàng ngoại bao giờ
cũng tốt hơn hàng nội vì cho rằng “tiền nào của nấy”. Chính vì thế, dù sữa ngoại mắc
9
hơn nhiều so với sữa nội, họ vẫn cố gắng mua cho con uống với hy vọng con sẽ phát
triển tốt hơn.
Tuy nhiên, không phải câu “Tiền nào của nấy” luôn đúng, và sữa ngoại tốt hơn
sữa nội nên mới mắc hơn. Nguyên nhân khiến cho sữa ngoại mắc hơn sữa nội 1 phần
là do tỷ giá ngoại tệ hiện nay tăng và sự gia tăng này ảnh hưởng đến giá nhập khẩu,
tăng chi phí tài chính. Năm 2011 vừa qua có thể nói là một năm đầy biến động của tỷ
giá khi đồng đôla tăng đáng kể khiến nhiều doanh nghiêp phải chật vật. Kết quả thanh
tra cho thấy, từ hồi đầu năm 2011 đến nay, các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng sữa
bột nhập khẩu cho trẻ em dưới 6 tuổi đã điều chỉnh tăng giá trung bình từ 8% dến
11,5%. Ngoài ra, về chi phí sản xuất sữa nội thì như chúng ta đều biết, Việt Nam là
một nước nông nghiệp nên nguồn cung ứng nông phẩm sẽ rẻ hơn những nước không
có nông phẩm sẵn có để cung ứng mà phải đi nhập khẩu từ nước ngoài. Chính vì thế,
một khi các công ty sữa nội không phải mất một chi phí quá lớn cho việc nhập khẩu và
vận chuyển nguyên liệu sản xuất sữa, thành phần chính là sữa bò tươi, thì sẽ giúp cho
giá thành thấp hơn sữa ngoại.
c) Số người mua tiềm năng
Đối với những mặt hàng khác, có thể số lượng người mua tiềm năng không tác
động rõ ràng đến cầu nhưng đối với mặt hàng sữa trong hoàn cảnh hiện nay thì nó có
tác động khá lớn đến cầu. Bởi vì, năm 2012 này theo lịch Âm dương ngũ hành là năm
Nhâm Thìn, theo như quan niệm của người phương Đông thì sinh con tuổi Rồng rất tốt
do đó sẽ rất nhiều các ông bố, bà mẹ muốn sinh con trong năm nay. Chính vì thế, một
khi tỷ lệ sinh con tăng sẽ kéo theo sự gia tăng rất nhiều thứ, trong đó có cả cầu về sữa,
bởi vì, rất rõ ràng, sữa là nguồn dinh dưỡng thiết yếu cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Cho
nên, một cách rất logic, ta có thể suy ra được rằng kể từ năm nay, cầu về sữa sẽ tăng và
do đó, có thể kết luận số lượng người mua tiềm năng có tác động lớn đến cầu và rất
nhanh chóng, số lượng người mua tiềm năng này sẽ trở thành cầu về sữa.
10
Đồ thị biểu diễn sự thay đổi của cầu
Giải thích đồ thị: Ban đầu, thị trường sữa trẻ em ở trạng thái cân bằng tại điểm
E
1
(Q
1
, P
1
). Khi cố định đường cung (S ) và có yếu tố trên thị trường tác động làm cho
cầu về sữa trẻ em tăng thì đường cầu (D) dịch chuyển sang phải. Kết quả, lượng cầu
sữa trên thị trường tăng từ Q
1
lên Q
2
, giá cả sữa tăng từ P
1
lên P
2
, tạo ra trạng thái cân
bằng mới của thị trường tại điểm E
2
(Q
2
,P
2
).
2. Cầu không đổi, cung thay đổi:
Trong vấn đề này, chúng ta chỉ đề cập đến sự tác động của giá các nhập lượng và
việc cải tiến công nghệ đến đường cung.
- Về sự tác động của giá các nhập lượng: Trong yếu tố này thì chúng ta lại chia sữa
nội và sữa ngoại ra để dễ phân tích bởi vì sự tác động của yếu tố này đến cung sữa
nội và sữa ngoại khác nhau.
• Tác động đến sữa nội: Theo như chúng ta biết thì hiện nay lạm phát đang ở
mức cao, khiến cho giá cả của hàng hóa tăng. Điều này tác động đến không chỉ
doanh nghiệp sản xuất mà còn cả người nông dân nuôi bò sữa, trong khi giá
sữa bò tươi bán cho doanh nghiệp không tăng mà chi phí nuôi bò mỗi ngày một
tăng lên khiến cho người nông dân không có lời, cụ thể giá thu mua sữa cao
nhất cho người chăn nuôi bò sữa với giá hiện tại dao động từ 11.500 - 12.500
đồng/kg tùy theo chất lượng sữa (tương đương mức tăng khoảng từ 4% đến
hơn 12,5% kể từ ngày 10/3/2011). Một khi chăn nuôi không có lời sẽ dẫn đến
11
Đường cung không đổi,đường cầu dịch chuyển
sang phải.
thực tế là người nông dân không còn muốn tiếp tục chăn nuôi nữa và do đó,
dẫn đến hậu quả là nguồn cung sữa tươi sẽ giảm và kéo theo đó sẽ là giá sữa
tươi sẽ tăng lên, tức là, giá các nhập lượng tăng.
• Tác động đến sữa ngoại: Như đã trình bày sơ nét ở phần thị hiếu, sự thay đổi
về tỷ giá ngoại tệ đã ảnh hưởng đến giá nhập khẩu và tăng chi phí tài chính
khiến cho giá sữa nhập khẩu tăng. Cùng với đó là hiện nay, thế giới chỉ còn có
New Zealand là quốc gia cung cấp nguồn nguyên liệu sữa chủ yếu, bởi vì các
quốc gia khác đã cắt giảm nguồn cung do sự thiếu hụt về đất và nguồn nước để
chăn nuôi bò sữa. Do đó, khi nguồn cung nguyên liệu giảm sẽ dẫn đến giá các
nguyên liệu này tăng lên và hệ quả tất yếu là giá sữa ngoại sẽ tăng lên.
Thế nhưng đối với vấn đề giảm cung của các hãng sữa không đáng lo ngại nhiều
vì các công ty hiện nay cũng đang bắt tay vào đầu tư xây dựng những trang trại với
công nghệ cao và quy mô hiện đại. Cụ thể là:
- Về sự tác động của cải tiến công nghệ: Hiển nhiên là theo quy luật cạnh tranh, để
không phải đi sau đối thủ thì các doanh nghiệp phải tiến hành cải tiến công nghệ để
nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu cùa khách hàng,
đây chính là nhu cầu tất yếu của các doanh nghiệp sữa hiện nay. Chỉ làm cuộc khảo
sát nhỏ với công ty sữa Vinamilk thì chúng ta cũng thấy được trang thiết bị chiếm
vai trò quan trọng như thế nào trong quá trình sản xuất sữa. Hiện tại Vinamilk đang
quản lý 5 trang trại chăn nuôi bò sữa với quy mô lớn, hiện đại ở Tuyên Quang,
Bình Định, Nghệ An. Tổng đàn bò của 5 trang trại hiện nay là 4.064 con. Ngoài ra
Công ty Cổ Phần Sữa Lam Sơn thuộc Vinamilk cũng có một trang trại bò sữa với
796 con. Các trang trại của Vinamilk đều được đầu tư tốt về con giống, thức ăn đầu
vào, chất lượng, chuồng trại và công nghệ vắt sữa tiên tiến của Châu Âu để đảm
bảo nguồn sữa tươi nguyên liệu có chất lượng tốt nhất. Đồng thời Nhà nước cũng
chú trọng hơn trong việc yêu cầu ngành chăn nuôi nâng diện tích trồng cỏ từ
290.000 ha lên 509.000ha vào năm 2020 và áp dụng chính sách hỗ trợ như các địa
phương, các tỉnh hỗ trợ 100% giống cỏ trồng ban đầu, kinh phí đầu tư còn lại để
trồng cỏ sẽ được vay vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi cao nhất trong vòng 3 năm
hoặc hỗ trợ 40% tổng số kinh phí trồng cỏ mới năm đầu cho các hộ có phương án,
12
vật lực để trồng cỏ từ 1.000m
2
trở lên… Với tình hình này thì trong tương lai gần
các hãng sữa sẽ đảm bảo được lượng cung ổn định cho người tiêu dùng.
Đồ thị biểu diễn sự thay đổi của cung
Giải thích đồ thị: Ban đầu thị trường sữa trẻ em ở trạng thái cân bằng tại điểm E
0
(Q
0
, P
0
). Khi cố định đường cầu (D) và có yếu tố trên thị trường tác động làm cho cung
về sữa của trẻ em giảm, đường cung (S) dịch chuyển sang trái. Kết quả, thị trường sẽ
đạt trạng thái cân bằng mới tại điểm E
1
(Q
1,
P
1
), lượng cung về sữa trẻ em giảm từ Q
0
xuống Q
1
, đồng thời giá sữa tăng từ P
0
lên P
1
.
Tuy nhiên trên thực tế, lượng cung về sữa trẻ em không giảm mà lại tăng. Vậy
giả thiết này không phù hợp.
Kết luận:
Từ những phân tích các nguyên nhân trên ta thấy rằng cả cầu lẫn cung đều biến
động nhưng tác động từ sự biến động của cầu mạnh và rõ nét hơn cung nên ta có thể
khẳng định rằng nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự tăng lên của giá sữa hiện nay chính
là cầu về sữa đang không ngừng gia tăng.
III)Dự báo
Từ những phân tích ở trên cùng với các giải pháp được đặt ra, có thể dự báo giá
sữa trẻ em ở Việt Nam như sau:
1. Về sữa ngoại:
13
Ảnh hưởng của sự suy thoái kinh tế thế giới do đó tỷ lệ lạm phát ở nước ta
khá cao (năm 2011 là 18,6%), chính nguyên nhân này đã tác động đến tâm lý
tiêu dùng của người dân. Họ thắt chặt chi tiêu hơn và có sự giảm bớt những
khoản chi vượt quá khả năng thu nhập của mình. Trong khi đó, giá sữa ngoại lại
đang “leo thang” một cách bất hợp lý, vì vậy người tiêu dùng sẽ có xu hướng cắt
giảm việc chi tiền cho sữa ngoại mà chuyển sang sử dụng những sản phẩm sữa
khác thay thế với chất lượng tương đương mà giá thành rẻ hơn. Bên cạnh đó,
việc giá dầu thế giới tăng trong thời gian qua, cùng với sự trượt giá của đồng Việt Nam
so với đô la Mỹ cũng đã góp phần làm gia tăng chi phí sản xuất sữa, từ đó khiến giá
sữa nhập khẩu tăng cao. Những yếu tố trên đây đã tác động tiêu cực đến cầu sữa ngoại
ở Việt Nam, thế nên dự báo cầu sữa ngoại sẽ giảm đáng kể trong thời gian tới.
Ngoài ra, nguồn cung trên thế giới hiện nay cũng giảm hơn trước, chỉ còn mỗi
New Zealand là nước cung cấp nguồn nguyên liệu sữa vì các quốc gia khác xảy ra
thực trạng thiếu hụt nguồn nước và nguồn đất nuôi bò. Như vậy sẽ đẩy giá sữa nguyên
liệu thế giới ngày càng tăng cao, từ đó ảnh hướng lớn đến giá sữa trẻ em tại Việt Nam.
Cùng với nhu cầu của người tiêu dùng đang giảm khiến cho sản lượng sữa nhập khẩu
sẽ hạn chế hơn. Do đó trong tương lai lượng cung sữa ngoại vào Việt Nam sẽ có xu
hướng giảm dần.
Vì cung và cầu đều giảm nên sữa ngoại sẽ không còn tình trạng đua nhau tăng
giá như hiện nay. Và một điều tất yếu giá của các mặt hàng sữa của các công ty nước
ngoài sẽ phải điều chỉnh về đúng với giá trị thực của nó.
P
S’
S
P
1
E
1
P
2
E
2
D
D’
14
Q
Q
2
Q
1
Đồ thị biểu diễn sự thay đổi cung, cầu của sữa ngoại
Lúc đầu, giá sữa ngoại nằm ở điểm cân bằng E
1
với giá cân bằng là P
1
. Từ phân tích ở
trên, cung giảm nên đường cung sẽ dịch chuyển sang trái, đồng thời do cầu sẽ giảm
nhiều hơn cung vì nhiều người tiêu dùng chuyển sang sử dụng sản phẩm thay thế, nên
giá cân bằng P
2
sẽ giảm.
2. Về sữa nội:
Từ việc giảm cầu sữa ngoại, người tiêu dùng sẽ chuyển sang dùng sữa nội
là mặt hàng thay thế vì giá thành rẻ hơn mà chất lượng lại tương đương. Một
minh chứng rõ nét là, theo kết quả thử nghiệm lâm sàng có sự phối hợp giữa Viện
Dinh dưỡng và Vinamilk vào tháng 4/2009 vừa qua: trên 560 trẻ từ 24 đến 36 tháng
tuổi sử dụng sản phẩm Dielac Alpha trong 3 tháng có hiệu quả tăng trưởng chiều cao
tương đương các loại sữa ngoại khác và hiệu quả cải thiện cân nặng tốt hơn (Dielac
Alpha tăng 830gr, so với nhóm sử dụng sữa ngoại tăng 540gr). Đồng thời giá sữa nội
chỉ bằng ¼ giá sữa ngọai nên phù hợp với thu nhập có giới hạn của người tiêu dùng
trong thời “bão giá”, cũng như với giá sữa hợp lý sẽ đảm bảo một lượng lớn trẻ em
trong nước được tiếp cận với sữa - nguồn dinh dưỡng thiết yếu . Với tin vui này, người
tiêu dùng sẽ cảm thấy an tâm hơn khi cho con em mình sử dụng các sản phẩm sữa
được sản xuất trong nước, từ đó đã khiến cho cầu sữa nội tăng lên.
Bên cạnh đó, những người tiêu dùng tiềm năng mà phần nguyên nhân đã đề cập
sẽ sớm trở thành người tiêu dùng thực tế trong những năm tới, do đó nhu cầu về sữa
rất lớn. Theo thống kê của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc
(FAO), mức tiêu thụ các sản phẩm từ sữa của người Việt Nam là 14,81 lít/người/năm,
còn thấp so với Thái Lan (23 lít/người/năm) và Trung Quốc (25 lít/người/năm). Trẻ em
tại thành phố lớn tiêu thụ 78% các sản phẩm sữa, hứa hẹn đây sẽ là thị trường đầy tiềm
năng tại Việt Nam. Ngoài ra, thu nhập của người dân ngày càng được cải thiện, tuy
không thể bắt kịp với đà tăng giá của sữa ngoại nhưng đủ để mua các sản phẩm sữa
trong nước nhằm giúp cho con em mình phát triển chiều cao, cân nặng, trí thông
minh… một cách toàn diện. Những yếu tố này đã góp phần làm tăng cầu sữa nội.
15
Để đáp ứng sự tăng của cầu, hàng loạt các công ty sữa trong nước mà điển hình
như Công ty Vinamilk, Công ty sữa quốc tế - IDP Hà Nội, Công ty sữa tương lai
Tuyên Quang, Công ty sữa TH True Milk Nghệ An …đang triển khai chương trình
phát triển vùng nguyên liệu và mở rộng cơ sở chế biến sữa góp phần đưa ngành chăn
nuôi bò sữa và chế biến sữa của Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới. Vì vậy, trong
tương lai, khi nguồn sữa nguyên liệu trong nước đã ổn định và đáp ứng đủ nhu cầu thì
giá sữa trẻ em sẽ có chiều hướng giảm. Bên cạnh đó, do các nhà sản xuất trong nước
nhận thấy lượng cung sữa ngoại đang giảm dần nên sẽ tăng lượng cung sữa nội nhằm
đáp ứng đủ nhu cầu sữa của người tiêu dùng.
Như vậy, trong tương lai, dự báo giá sữa trẻ em của các công ty sữa trong nước
sẽ có xu hướng tăng lên do cầu và cung đều tăng. Vì vậy đường cầu và đường cung
đều dịch chuyển sang phải, dẫn đến giá sữa sẽ thay đổi sang vị trí cân bằng mới và cao
hơn giá cân bằng cũ.
P
S
S’
P
2
E
2
P
1
E
1
D’
D
Q
Q
1
Q
2
Đồ thị biểu diễn sự thay đổi cung, cầu của sữa nội
Lúc đầu, giá của sữa nội cân bằng tại P
1
. Từ những phân tích ở trên cho thấy đường
cầu sẽ dịch chuyển sang phải nhiều hơn đường cung, do một lượng lớn người tiêu
16
dùng chuyển sang sử dụng sữa nội tăng cao, trong khi lượng cung sẽ không thể tăng
nhanh trong một thời gian ngắn. Vì vậy cầu sẽ tăng nhanh hơn cung, giá cân bằng của
sữa nội sẽ tăng lên P
2
, sản lượng Q
1
tăng lên Q
2
.
IV)Giải pháp
Để giải quyết các vấn đề nêu trên, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp sau
đây:
Một là, Chính phủ cần có sự quản lý chặt chẽ hơn đối với các công ty nhập khẩu
sữa ngoại. Mặt hàng sữa nói chung đã được Nghị định 75/2008/NĐ-CP quy định là
mặt hàng thuộc diện bình ổn giá, còn riêng sữa bột dành cho trẻ em dưới 6 tuổi cũng là
mặt hàng bình ổn giá nhưng có quy định thêm biện pháp phải đăng ký giá. Quy định
doanh nghiệp phải đăng ký giá bán các mặt hàng thuộc danh mục bình ổn sẽ góp phần
giúp cơ quan quản lý nắm được giá sữa trên thị trường có bất hợp lý hay không.
Mặt khác, cần hạn chế tình trạng giá nhập khẩu và giá phân phối mặt hàng sữa
trong nước có sự chênh lệch khá xa. So sánh giữa giá nhập khẩu và giá niêm yết một
số mặt hàng sữa trên thị trường, cho thấy có sự chênh giá lên tới hơn 200%, có loại
gần 300%. Việc mở cuộc điều tra về các hành vi hạn chế cạnh tranh, liên kết độc
quyền giá của các doanh nghiệp phân phối độc quyền các nhãn hiệu sữa nhập hay tiến
hành thanh tra, kiểm tra các cửa hàng, đại lý có bán hàng đúng giá niêm yết cũng rất
cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Nguồn cung của sữa phải được theo dõi, đánh giá chi
tiết theo sát với tình hình thực tế nhằm mục đích đảm bảo nguồn cung.
Hai là, cần có những biện pháp quản lý quảng cáo và tiếp thị để người tiêu dùng
không bị mê hoặc bởi những thông tin bị phóng đại hoặc bóp méo, tăng cường kiểm
tra chất lượng sữa và công khai các nhãn hàng sữa đạt tiêu chuẩn chất lượng, đồng thời
có biện pháp xử phạt đối với các công ty quảng cáo quá sự thật dẫn đến nhầm lẫn cho
khách hàng. Người tiêu dùng rất “đói” thông tin về sữa nội nhưng lại “dư thừa” thông
tin về sữa ngoại khi mà các chương trình quảng cáo cứ nhan nhản trên tivi, báo chí về
việc sữa này thêm vi lượng, sữa kia thêm DHA. Đứng trước những chiêu tiếp thị,
quảng cáo rất mỹ miều trên, các bậc phụ huynh nên thận trọng, cực kỳ sáng suốt vì
“tốt gỗ hơn tốt nước sơn”.
17
Ba là, cần phải nhìn nhận tâm lý “sính ngoại” đã tồn tại từ lâu trong nếp nghĩ
nhiều người tiêu dùng, tạo ra tâm lý sẵn sàng mua sữa ngoại bất kể giá cao. Các cơ
quan và hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng cần có những cuộc vận động nâng cao hiểu
biết của người tiêu dùng (chẳng hạn như hiểu biết đúng đắn về chất lượng của sữa bột,
những thông tin quảng cáo, và tầm quan trọng của việc nuôi con bằng sữa mẹ) cũng
như trình báo những trường hợp sai phạm đối với các cơ quan chức năng
Bốn là, những biến động trên thị trường hiện nay cũng là một cơ hội cho các
công ty sữa nội vươn lên giành thị phần nếu giải quyết tốt vấn đề chất lượng, cải tiến
mẫu mã cũng như có những chiến lược phát hành rộng rãi những thông tin trung thực
đến với người tiêu dùng. Nguồn cung trong nước luôn ổn định sẽ giúp thị trường bớt
phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu từ nước khác.
Năm là, Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các công
ty thu mua và nhập khẩu sữa. Điều này dựa trên nguyên tắc “lấy hàng hóa áp đảo hàng
hóa, lấy giá cả áp đảo giá cả”. Nguyên tắc này có nghĩa là càng có nhiều công ty tham
gia vào thị trường nhập khẩu và phân phối sữa thì người tiêu dùng càng có cơ hội tiếp
cận với giá sữa ở mức dễ chấp nhận hơn. Một khi Chính phủ tham gia vào thị trường
và dùng các biện pháp để “kìm giá” thì giá sữa ngoại sẽ không bị các nhà nhập khẩu tư
nhân làm mưa làm gió. Nhưng về lâu dài thì nguồn cung trong nước phải được giữ ổn
định nhẳm đảm bảo sản lượng sữa cung cấp cho người tiêu dùng, tránh việc phụ thuộc,
trông chờ quá nhiều vào nguồn cung bên ngoài thông qua việc mở rộng và phát triển
quy mô ngành chăn nuôi bò sữa.
V) Kết luận:
Sự biến động của giá sữa trên thị trường đã và đang gây ảnh hưởng lớn đến
quyền lợi người tiêu dùng. Kết hợp với sự tăng giá, biến động của các mặt hàng khác
(đều mang tính thiết yếu) thì có thể nhìn nhận rằng thị trường Việt Nam hiện nay đang
chứa đựng những cơn sóng ngầm đe dọa sự cân đối, ổn định của nền kinh tế vĩ mô.
Nhưng mọi vấn đề đều mang tính hai mặt. Cũng chính những sự biến động đó lại phản
ảnh sự phát triển mạnh mẽ của một nền kinh tế trẻ đang vươn lên để hòa nhập và
khẳng định mình trên trường quốc tế. Nhà kinh tế học vĩ đại Adam Smith (1723-1790)
khi đề cập đến lý thuyết “bàn tay vô hình” đã cho rằng: Trong nền kinh tế thị trường,
các cá nhân tham gia muốn tối đa hóa lợi nhuận cho mình. Ai cũng muốn thế cho nên
18
vô hình chung đã thúc đẩy sự phát triển và củng cố lợi ích cho cả cộng đồng. Lý thuyết
này khi áp dụng vào thực tế đã phát sinh nhiều lỗ hổng và đã được nhà kinh tế học
hiện đại Keynes bổ sung thành “bàn tay hữu hình” với sự tham gia một cách cần thiết
và tiên quyết của Nhà nước thông qua luật pháp, thuế và nhiều biện pháp kinh tế, tài
chính khác. Sữa trẻ em là mặt hàng thiết yếu nhưng giá sữa lại luôn biến thiên, chứa
đựng sự nghịch lý giữa cung và cầu cũng như trong mối quan hệ giữa chúng. Tuy
nhiên, nghịch lý đó có thể giải quyết được phần nào nếu nhiều biện pháp kinh tế hơn
nữa được Nhà nước triển khai nhằm đảm bảo cho cung và cầu sữa được ổn định, đưa
giá sữa trở về giá trị thật của nó. Với các số liệu về thực trạng, lí giải về nguyên nhân
cùng việc trình bày một số giải pháp và dự báo, tiểu luận “Những nghịch lý của giá
sữa trẻ em tại Việt Nam” của chúng tôi hi vọng mang đến một cái nhìn mới về giá sữa
trẻ em, những thông tin, giải pháp, dự báo cho vấn đề này.
19
CÁC NGUỒN THAM KHẢO
1. Thống kê của Viện Dinh dưỡng Việt Nam năm 2010
2. Thống kê của Cơ quan Tiếp thị Nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ
3. Theo Báo cáo khảo sát giá sữa bán lẻ EuroCham NFG 11-2010
4. Theo trang web của Bộ Tài Chính: www.mof.gov.vn
5. Báo Nông nghiệp Việt Nam
6. Báo Vietnamnet.vn
7. Báo Vnexpress.net
8. Theo VTC News
9. Luật Cạnh tranh 2004
10.Nghị định số 75/2008/NĐ-CP
11.Thông tư 122/2010/TT-BTC
20
MỤC LỤC
21