Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

đề tài khoáng sản ở quỳ hợp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.85 KB, 24 trang )

ĐỀ TÀI: Đánh giá hiện trạng và cách thức quản lí tài
nguyên khoáng sản ở Quỳ Hợp
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Tài nguyên thiên nhiên có một tầm quan trọng đặc biệt, là nhu cầu thiết yếu
đối với đời sống con người và sinh vật cũng như đối với các hoạt động phát triển
kinh tế - xã hội. Trong hơn nửa thế kỷ qua nhu cầu về tài nguyên khoáng sản
(TNKS) trên thị trường Thế giới tăng trưởng lớn dẫn đến tình trạng khai thác và
cạn kiệt TNKS và để lại nhiều hậu quả về xã hội và môi trường ở vùng khai thác
khoáng sản của nhiều nước trên Thế giới. Trước tình hình đó, nhiều quốc gia trên
thế giới và ngay cả các Tập đoàn khai khoáng đã có những điều chỉnh chính sách
và hoạt động nhằm quản lý, khai thác sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên này đáp
ứng nhu cầu ngày càng tăng trong tương lai.
Từ trước đến nay, Việt Nam vẫn được đánh giá là Quốc gia có tiềm năng về
khoáng sản với trên 5000 điểm mỏ của hơn 60 loại khoáng sản khác nhau. Những
năm gần đây, vấn đề ô nhiễm môi trường nghiêm trọng do tình trạng hoạt động
khai thác khoáng sản đang là vấn đề bức xúc diễn ra trên khắp cả nước. Một thực
tế không thể phủ nhận rằng, không dễ dàng kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế -
xã hội với bảo vệ môi trường, khai thác và sử dụng một cách hiệu quả tài nguyên
thiên nhiên, nhất là đối với nước ta, trong giai đoạn đầu của thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, khi mà nền kinh tế về cơ bản vẫn phải dựa vào nguồn tài nguyên
thiên nhiên vốn có hạn. Tuy vậy, nếu chúng ta quản lý tốt hoạt động khai thác
khoáng sản và khai thác nước ngay từ khâu cấp phép thì các động của nó tới môi
trường phần nào sẽ đựơc giảm thiểu và hiệu quả khai thác, sử dụng sẽ được tăng
lên.
Quỳ Hợp là một huyện miền núi của Nghệ An với nhiều loại khoáng sản
khác nhau như kim loại thiếc, kim loại màu (vàng, bạc, ), đá trắng đã tạo ra
nguồn lợi cho sự phát triển kinh tế hiện nay ở huyện nhà, tuy nhiên hiện nay vấn đề
khai thác khoáng sản ở khu vực này vẫn đang còn nhiều vấn đề bất cập và không
được quan tâm đúng với tầm quan trọng của nó. Chính vì thế chúng tôi quyết định
thực hiện đề tài: “Đánh giá hiện trạng và cách thức quản lí tài nguyên khoáng


sản ở Quỳ Hợp”.
1.2. Mục tiêu đề tài
Trên cơ sở đánh giá hiện trạng và cách thức quản lí tài nguyên khoáng sản ở
huyện miền núi Quỳ Hợp thì chúng tôi đặt ra mục tiêu nghiên cứu của đề tài là:
- Tìm hiểu vai trò, tầm quan trọng của việc khai thác khoáng sản, đặc biệt là
các mỏ nhỏ trong việc thúc đẩy tốc độ phát triển kinh tế-xã hội của Đất nước trong
sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá;
- Tìm hiểu đặc điểm tự nhiên, vị trí địa lý và điều kiện kinh tế xã hội huyện
miền núi Quỳ Hợp.
- Đánh giá hiện trạng công tác quản lý nhà nước, công nghệ và thiết bị khai
thác sử dụng, quản lý kỹ thuật sản xuất , kỹ thuật an toàn và môi trường của các mỏ
khai thác khoáng sản hiện nay.
PHẦN II: NỘI DUNG
Chương I: Tổng quan
1, Những nghiên cứu liên quan
Khái niệm khoáng sản
Tài nguyên khoáng sản là tích tụ vật chất dưới dạng hợp chất hoặc đơn
chất trong vỏ trái đất, mà ở điều kiện hiện tại con người có đủ khả năng
lấy ra các nguyên tố có ích hoặc sử dụng trực tiếp chúng trong đời sống
hàng ngày".
Tài nguyên khoáng sản thường tập trung trong một khu vực gọi là mỏ
khoáng sản. Tài nguyên khoáng sản có ý nghĩa rất quan trọng trong sự
phát triển kinh tế của loài người và khai thác sử dụng tài nguyên khoáng
sản có tác động mạnh mẽ đến môi trường sống. Một mặt, tài nguyên
khoáng sản là nguồn vật chất để tạo nên các dạng vật chất có ích và của
cải của con người. Bên cạnh đó, việc khai thác tài nguyên khoáng sản
thường tạo ra các loại ô nhiễm như bụi, kim loại nặng, các hoá chất độc
và hơi khí độc (SO2, CO, CH4 v.v ).
Tài nguyên khoáng sản được phân loại theo nhiều cách:
 Theo dạng tồn tại: Rắn, khí (khí đốt, Acgon, He), lỏng (Hg, dầu, nước

khoáng).
 Theo nguồn gốc: Nội sinh (sinh ra trong lòng trái đất), ngoại sinh
(sinh ra trên bề mặt trái đất).
 Theo thành phần hoá học: Khoáng sản kim loại (kim loại đen, kim
loại màu, kim loại quý hiếm), khoáng sản phi kim (vật liệu khoáng,
đá quý, vật liệu xây dựng), khoáng sản cháy (than, dầu, khí đốt, đá
cháy).
Việt Nam nằm trên bản lề của hai vành đai kiến tạo và sinh khoáng cỡ
lớn của trái đất là thái bình dương và địa trung hải nên khoáng sản nước
ta rất phong phú về chủng loại,nền công nghiệp và nông nghiệp của
nước ta đang từng bước phát triển với tốc độ ngày càng tăng đòi hỏi
càng nhiều khoáng sản hơn.
-Các khoáng sản kim loại chính:
+ Quặng sắt:Trữ lượng 700 triệu tấn phân bố rải rác từ Bắc bộ đến
Nam trung bộ,những mỏ đạt trữ lượng công nghiệp không nhiều và
tập trung ở Bắc bộ trong đó mỏ Thạch Khê(Nghệ Tĩnh)có trữ
lượng ước tính khoảng 500 triệu tấn chất lượng quặng tốt.
- Năm 1979 mới tiến hành khai thác ở mỏ Thái Nguyên và đã
luyện được 100000 tấn thép.
- Năm 1980 chỉ khai thác được 60000 tấn.
- Năm 1989 khai thác được 75000 tấn.
- Năm 1995 khai thác khoảng 150000 -175000 tấn.
+ Quặng đồng: Trữ lượng ước tính 600000 tấn, hầu hết tập trung ở
Tây Bắc Bộ như ở Tạ Khoa( Sơn La) và Sinh Quyền( Lào Cai)
hiện nay sự khai thác thủ công với sản lượng 2000 kg/năm.
+ Quặng nhôm: Quặng Boxit chứa hydroxit nhôm có trữ lượng đạt
yêu cầu công nghiệp tập trung ở Đông Bắc Bộ, Tây Nguyên, Lâm
Đồng Ước tính có 4 tỉ tấn, chất lượng quặng tốt, hàm lượng quặng
từ 40 - 43%. Tuy nhiên việc khai thác vẫn chưa phát triển vì còn
thiếu năng lượng và cơ sở hạ tầng.

2, Những khái niệm liên quan
Chương 2: Địa điểm, đối tượng, phương pháp nghiên cứu
 1,Địa điểm
 Tọa độ địa lí :19°22'39"N 105°13'11"E
 Quỳ Hợp là huyện miền núi phía tây bắc của tỉnh Nghệ An
 Phía bắc giáp huyện Quỳ Châu , phía nam giáp huyện Tân
Kỳ và Anh Sơn, Phía đông giáp huyện Nghĩa Đàn, phía tâgiáp
huyện Con Cuông và Quỳ Châu
 Diện tích: 941,28 km
2
Dân số: khoảng 120.000 người Gồm 1 thị
trấn và 20 xã
 Diện tích đứng thứ 7 diện tích tự nhiên của tỉnh Nghệ An, Quỳ
Hợp được thiên nhiên ban tặng nhiều tài nguyên, khoáng sản quý
hiếm như: Thiếc, Đá hoa cương (đá trắng); đá quý thiên nhiên: Đá
Rubi, Safia, Spaner….nước khoáng thiên nhiên, đá vôi và đất sét…
 Quỳ Hợp có nhiều đỉnh núi cao, đồ sộ như Pù Huống và Pù Khạng
hay Khe nước Lạnh, Hồ Thung Mây ở Thị trấn, thảm thực vật đa
dạng, phong phú và nhiều di tích lịch sử….
 Đây là huyện được UNESCO đưa vào danh sách các địa danh
thuộc Khu dự trữ sinh quyển miền tây Nghệ An
-Thời gian nghiên cứu vào đợt thực tế cơ sở vào ngày 14 tháng 7 năm 2014
2, Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là mỏ khoáng sản ở Quỳ Hợp
Chương 3: Nội dung
1, Hiện trạng
Hiện nay, toàn huyện Quỳ Hợp có 241 doanh nghiệp hoạt động trên các
lĩnh vực khai thác, chế biến khoáng sản; xây dựng cơ bản và tư vấn xây
dựng cơ bản; thương nghiệp, dịch vụ, vận tải… Trong đó, nhiều doanh
nghiệp làm ăn hiệu quả, nộp ngân sách lớn, giải quyết nhiều việc làm

cho lao động địa phương. Theo tinh thần Công văn số 3469/VPCP-
KNTN, Thủ tướng Chính phủ vừa giao Bộ Tài nguyên và Môi trường
chủ trì, phối hợp Bộ Công thương, Bộ Xây dựng tiến hành rà soát, kiểm
tra việc cấp phép hoạt động khoáng sản trên địa bàn huyện Quỳ Hợp
(Nghệ An), có biện pháp xử lý theo đúng quy định và báo cáo kết quả
lên Thủ tướng Chính phủ trong tháng 7-2010.
Trước đó, Thanh tra Chính phủ đã kiến nghị Thủ tướng tạm dừng cấp
phép hoạt động khoáng sản tại Nghệ An, tạm thời đình chỉ hoạt động
khai thác khoáng sản tại 241 mỏ, đồng thời đình chỉ khai thác tại 54
điểm mỏ thuộc huyện Quỳ Hợp.
THIẾC:
- Công ty CP Kim loại màu Nghệ Tĩnh - đơn vị thành viên của Tổng
Công ty Khoáng sản, hiện hoạt động trong lĩnh vực chế biến thiếc,
đóng chân trên địa bàn huyện Quỳ Hợp. Song song với quá trình đầu
tư, phát triển hoạt động SXKD một cách hiệu quả, Công ty luôn hoàn
thành tốt nhiệm vụ thu nộp ngân sách Nhà nước, quan tâm đến các
hoạt động từ thiện xã hội, môi trường và làm tốt trách nhiệm của
doanh nghiệp với cộng đồng địa phương. Hàng năm, Công ty nộp
ngân sách Nhà nước 40 tỷ đồng.
+ Mỏ thiếc Bản Cô thuộc Xí nghiệp thiếc Châu Thành là một trong hai
đơn vị khai thác thiếc chủ lực của Công ty CP Kim loại màu Nghệ Tĩnh
hiện nay. Tháng 7 năm 1984 mỏ chính thức khai thác và chế biến quặng
thiếc trên địa bàn Quỳ Hợp với các xưởng tuyển ở Châu Cường, Piêng
Tò (Châu Hồng), Bản Hạt (Châu Tiến). Đến thời điểm này, Công ty
KLM Nghệ Tĩnh đã có 2 xí nghiệp khai thác và tuyển thô quặng thiếc
với năng lực tuyển rửa mỗi năm trên 600.000 m
3
đất quặng. Từ năm
1995 đến 1999, công ty tiếp tục củng cố tổ chức sản xuất, bổ sung công
nghệ tuyển khoáng, đưa phân cấp ruột xoắn thay cho hệ thống máng đãi

nhằm tăng thực thu hàm lượng thiếc trong đất quặng và đưa công suất
xưởng tuyển từ 100.000 m
3
lên 200.000 m
3
mỗi năm. Từ năm 2000 đến
năm 2003, công ty đã bốc xúc gần 2 triệu m
3
đất quặng. Năm 2005, công
ty đã bốc xúc hơn 720.000 m
3
đất quặng. Sản xuất được 708 tấn thiếc
thỏi xuất khẩu. Cùng với thiếc là hơn 11.350 m
3
đá các loại. Tổng doanh
thu đạt 112 tỷ 789 triệu đồng, bằng 77% so với 4 năm trước đó.
+ Quặng thiếc ở Quỳnh Hợp (Nghệ An) bị "rút ruột" từ nhiều năm nay
khiến dòng sông Nậm Tôn bỗng trở nên đỏ quạch, ruộng đồng ao hồ bị
nhiễm bùn, sệt đỏ, núi rừng bị tàn phá. Những tiếng kêu cứu cất lên vô
vọng trong khi đội quân đào bới ngày càng tăng nhanh
Anh Nguyễn Văn Nhưng, bản Cà 1 (Châu Cường, Quỳnh Hợp) cho biết,
lúa đang lên đòng nhưng đã nghẽn lại vì đào thiếc, người khai thác đã
lên tận các thung 41, 42, 43 của xã Châu Cường. Người dân vẫn phải
chịu đựng sự ô nhiễm nguồn nước. Bà con đã nhiều lần gửi đơn thư lên
chính quyền địa phương và trung ương nhưng mãi chưa thấy hồi âm.
Bản Cà (Quỳ Hợp) có một chiếc hồ rộng 3,5 ha, nhưng gần một năm
nay, người ta khai thác đá trắng rồi quặng thiếc, tuồn chất thải xuống hồ
khiến nó bị ô nhiễm trầm trọng và lấp mất 80% diện tích. Nước hồ giờ
đây đỏ ngầu, ngấm ra đồng ruộng khiến cây trồng không thể phát triển
được. Anh Nguyễn Bá Thành, xóm trưởng bản Cà 1 nói: "Đau xót lắm,

con vịt cũng không có nước mà bơi, trâu bò xuống nước là bị đau mắt đỏ
ngay, còn cá tôm thì chết hết từ lúc nào không hay. Lúa và hoa màu
cũng úa vàng không thể sống nổi".
Khe Đòi, Châu Hồng cũng gặp tình trạng tương tự. Ở đây có 8 bản hành
nghề. 24 bản, 10 xóm của Châu Cường có tới 70% số người (350 người)
đi làm thuê cho 8 ông chủ trên diện tích 6-7 ha rừng núi, trong đó chỉ có
50 người được tuyển vào khai thác chính, còn lại là đãi tự do và vét thuê
kiếm sống.
Người khai thác suốt ngày ở sâu trong hang để khai thác, mọi thứ cơm
nước sinh hoạt đều ở trong hang, thậm chí người nghiện cũng được các
ông chủ truyền thuốc phiện cho hút để tăng thêm sức đào quặng. Sự
nguy hiểm luôn rình rập họ và đã có nhiều người phải bỏ mạng lại đây.
Bởi là dân tứ xứ nên sinh hoạt ở đây cũng rất tuỳ tiện. Có nhiều người
lấy nhau mà không rõ tung tích của nhau, họ sinh ra những đứa con mà
dân vùng thiếc gọi là "vô chính phủ". Giữa núi rừng hun hút này là cả
một "trung tâm" nhộn nhịp những gái điếm, ổ chích hút
Hàm lượng thiếc lớn cộng với giá khá cao đã làm người ta đổ về đây
càng nhiều. 1 kg thiếc giá 27.000 đồng, nếu hàm lượng cao thì 30.000
đồng. Ở Khe Đòi, mỗi quặng khai thác mi ni cần được đầu tư khoảng
500 triệu đồng. Mỗi người làm thuê, ngoài 3 bữa cơm/ngày được trả
10.000 đồng.
Châu Hồng (Quỳnh Hợp) không có điểm làm thiếc lậu như ở Khe Đòi
nhưng đây là địa bàn có nhiều moong (mỏ) nhất (khoảng 10 mỏ) với số
người từ 10 đến 60/moong. Hiện nay, cánh đồng của 2 bản Na Hiêng,
Công đang bị ô nhiễm nặng.
ĐÁ TRẮNG:
Đầu năm 2010, trên địa bàn huyện Quỳ Hợp, Nghệ An có 135 doanh
nghiệp, tổ hợp và công ty TNHH hoạt động trong lĩnh vực khai thác
khoáng sản, trong đó hơn 2/3 đơn vị chuyên về khai thác, chế biến đá
trắng.

Hiện nay, Công ty đã có giấy phép khai thác (Giấy phép khai thác số
2291/GP-BTNMT cấp ngày 30 tháng 11 năm 2009) 01 mỏ đá trắng
CaCO3 tại khu vực Thung Xán, xã Liên Hợp và Châu Lộc, huyện Quỳ
Hợp, tỉnh Nghệ An; với diện tích mỏ là 16,07 ha; trữ lượng gần 30 triệu
tấn. Đây là mỏ khoáng sản CaCO3 có chất lượng rất cao tại vùng đá
trắng huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An. Khoáng sản CaCO3 là nguyên liệu
đầu vào rất quan trọng cho các ngành công nghiệp cao su, nhựa, hóa
chất, mỹ phẩm, thức ăn gia súc , đồng thời nó cũng là nguồn nguyên
liệu quan trọng để sản xuất các vật liệu xây dựng cao cấp xuất khẩu.
Từ đầu năm đến nay, Công an huyện Quỳ Hợp đã tổ chức giải quyết
hàng chục vụ tranh chấp lãnh địa giữa các công ty, đơn vị khai thác đá
trắng đóng chân trên địa bàn. Vấn đề mâu thuẫn, tranh giành khu vực
khai thác khoáng sản và hoạt động khai thác khoáng sản trái phép thực
tế đã diễn ra từ nhiều năm nay, và rộ lên trong thời gian gần đây.

Các công ty này đã không từ bất cứ một thủ đoạn nào để đạt được mục
đích là bá chủ vùng tài nguyên của đất nước. Trong những ngày đầu năm
2010, trên địa bàn xã Châu Quang đã xảy ra vụ tranh chấp lãnh thổ giữa
Công ty Hợp tác Kinh tế Quân khu 4 với Công ty CP Khoáng sản Trung
Hải.

Khu vực mà hai đơn vị này cùng nhòm ngó là một mỏ đá với trữ lượng
khá lớn tại bản Cà, vốn là địa bàn giáp ranh vùng khai thác mỏ giữa hai
đơn vị. Cuộc tranh chấp này dây dưa trong một thời gian khá dài buộc
Công an huyện Quỳ Hợp phải vào cuộc và sự việc mới tạm lắng xuống.

Cũng trong thời gian này, có đến 6 tổ hợp khai thác đá tại các xã Châu
Lộc, Châu Tiến và Châu Quang đã bị đình chỉ hoạt động vì những vấn
đề liên quan đến tranh giành, thanh toán lẫn nhau trong quá trình hoạt
động. Tháng 3/2010, có hai vụ tranh chấp khá đình đám xảy ra lại một

lần nữa hâm nóng khu vực vốn đã rất nóng ở thủ phủ đá trắng của miền
Tây này.

Thời gian nói trên, hai đơn vị là Công ty CP Khoáng sản Trường Sơn và
Công ty IVECON thuộc xã Châu Tiến đều “tố” đến các cơ quan chức
năng là vùng mỏ của mình đã được cấp phép nhưng bị công ty kia lén lút
trái phép. Sau một thời gian điều tra và phải rất vất vả, cơ quan chức
năng mới làm rõ những đối tượng khai thác trái phép kia là người của
một công ty khác.

Sự việc coi như được giải quyết nhưng vấn nạn khai thác trái phép đến
các vùng mỏ này vẫn tiếp diễn. Đáng chú ý hơn cả là vụ việc tranh chấp
khai thác đá tại mỏ đá của Công ty TNHH Hà An. Mâu thuẫn lên đến
đỉnh điểm khi một số đối tượng quá khích đã chuẩn bị sẵn hung khí để
sẵn sàng cho một cuộc giao chiến đổ máu.

Rất may, cơ quan chức năng đã kịp thời có mặt để tạm giữ và xử lý các
đối tượng này. Cũng từ những vụ tranh giành lãnh thổ này, đã có rất
nhiều vụ việc đã dẫn đến xô xát và đều giải quyết bằng đổ máu.
Không chỉ tranh chấp địa giới khai thác, mâu thuẫn được đổi bằng máu,
bằng những năm tháng tù tội mà ở khía cạnh nhân văn, hoạt động khai
thác đá cũng đã cướp đi không ít sinh mạng của công nhân vô tội, người
lao động nghèo khi họ phải vất vả mưu sinh tại đây chỉ vì miếng cơm
manh áo.

Mới đây nhất, vào sáng ngày 6/4, xảy ra một vụ tai nạn thương tâm làm
chết hai người. Trong lúc làm nhà, do thiếu đá nên hai anh em ruột là Vũ
Văn Hưng (SN 1986) và Vũ Văn Bảo (SN 1988), trú tại xóm Châu
Thành, xã Tam Hợp đến mỏ đá bản Đan xã Châu Lộc khai thác thì bị
một tảng đá nặng hàng tấn bất ngờ đổ ập xuống nên đã xảy ra vụ việc

thương tâm.

Cách mấy hôm sau, vào ngày 20/4, thêm một vụ thương vong nữa xảy ra
tại thủ phủ đá trắng này. Nạn nhân là ông Bùi Văn A. (49 tuổi, trú khối 2
thị trấn Quỳ Hợp), là ông chủ mỏ khai thác đá trắng của Công ty TNHH
A. S trên địa bàn xã Châu Hồng. Tai nạn xảy ra lúc ông này đang tiến
hành kiểm tra các công nhân làm việc thì bất ngờ một quả mìn phát nổ
làm một tảng đá lớn đè lên người.

Trước đó, vào cuối năm 2009, một tốp thợ khai thác đá ngồi nghỉ tránh
nắng tại công trường của Công ty Long Anh (xã Liên Hợp) đã “dính
trọn” tảng đá khổng lồ từ trên đỉnh núi lăn xuống, khiến hai người chết
và một người khác bị thương. Cuối tháng 7/2009, Công ty An Lộc mở
đường vào xã Liên Hợp thì bất ngờ một khối đá lớn đổ ập xuống làm
một công nhân tử nạn.

Trong thời gian chúng tôi thu thập tư liệu viết bài này thì nhận được điện
thoại của một chủ mỏ thuộc Công ty khoáng sản Nghệ An “tố” Công ty
Tư vấn đầu tư và Thương mại Quốc tế IVENCON nổ mìn khai thác đá
sai giờ, đã làm đá văng trúng đầu anh Lương Văn Tuất, công nhân Công
ty khoáng sản Nghệ An khiến anh này bị thương nặng phải nhập viện
cấp cứu.

Những tình huống tương tự như thế, theo những người am hiểu về “luật
rừng” ở đại công trường khai thác đá Quỳ Hợp thì chuyện rất đỗi bình
thường. Đó cũng là cách để ngấm ngầm đối địch nhau trong cạnh tranh
làm ăn giữa các công ty, đơn vị khai thác khoáng sản với nhau.
ĐÁ SẮT:
Huyện Quỳ Hợp là nơi có nhiều loại khoáng sản đa dạng và phong phú
nhất tỉnh Nghệ An, như thiếc, đá trắng, kim loại. Riêng với loại đá sắt ở

xã Châu Thành được đánh giá đã tích tụ hàng triệu năm, đá sau khi khai
thác được mài, đánh bóng trơn nhẵn theo hình, thế với nhiều màu sắc.
Đây là loại khoáng sản đặc biệt, vì vậy số đơn vị được cấp phép để khai
thác loại đá này không nhiều. Thời gian qua, những mỏ quặng sắt này đã
được nhiều cá nhân, doanh nghiệp khai thác, chế tác thành đá phong
thủy có giá trị thương phẩm rất cao, được nhiều khách hàng ưa chuộng.
Đá sắt là loại đá tích tụ hàng triệu năm, được mài, đánh bóng trơn nhẵn
theo hình, thế với sắc màu từ xanh, đỏ đến đen loáng.
Tại bản Cô, xã Châu Thành, từ 2 tháng nay, mặc dù không có khảo sát,
thăm dò và giấy phép nhưng Công ty CP Đá và Khoáng sản Phủ Qùy
(trú tại thị trấn Qùy Hợp) đưa máy móc vào khai thác rầm rộ. Từ khi
ngọn núi này được khai thác, cũng là lúc những tấc đất mà người dân
khai hoang, canh tác bấy lâu nay bị xới tung. Công trường khai thác núi
bản Cô ầm ĩ tiếng máy khoan đá.
Theo ông Lô Minh Dương – Chủ tịch UBND xã Châu Thành: “Người ta
vào đền bù thỏa thuận với dân, còn thế nào tôi không rõ. Họ vào gặp xã
xin làm từ ngày 26-3, diện tích ở đó khoảng 1 héc-ta. Họ cũng đề nghị
hỗ trợ xã một công trình vệ sinh, trị giá khoảng 40 triệu đồng”.
Ngoài ra còn 1 số loại quặng quý hiếm khác như vàng sa khoáng,
Vonfram… Các loại đá quý như rubi, hồng ngọc đá đỏ… nhưng đứng
trước thực trạng bị khai thác không có sự quản lý và gần như cạn kiệt.
2, Cách quản lí
 - Quản lý của nhà nước: cần tuyên truyền, tập huấn, hướng dẫn cac
doanh nghiệp khai thác các khoáng sản phải tuân thủ nghiêm túc
các biện pháp bảo vệ môi trường.
 - Tiến hành thanh tra, kiểm tra thường xuyên. Đặc biệt là kiểm soát
việc phân lô khai thác cũng như việc hoàn thổ trồng cây phục hồi
môi trường. Kiên quyết xử lý các cơ sở cố tình vi phạm luật bảo vệ
môi trường.
 - Thường xuyên theo dõi, thực hiện thiết kế cơ sở, an toàn lao động

cũng như giải pháp bảo vệ môi trường theo từng lĩnh vực quản lý.
Đề xuất UBND tỉnh thu hồi giấy phép khai thác khoáng sản đối
với các cơ sở chưa chấp hành tốt các quy định của pháp luật trong
quá trình khai thác.
 - Quy hoạch vùng dân cư xung quanh khu vực khai thác cũng như
xử lý của nhà máy
 - Các xe chuyên chở quặng cần phải có biện pháp che phủ hạn chế
đất đá rơi vãi trên đường.
 - Lập đội vệ sinh thu dọn đất đá rơi vãi trên đường.
3, Đề xuất phương pháp
 - Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động bảo vệ môi trường, động viên
các tổ chức quần chúng tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi
trường kể cả phổ biến và tham vấn cộng đồng.
 - Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào chương trình giáo dục trong
các trường học, đặc biệt là các trường đại học. thường xuyên tổ
chức các hoạt dộng tham quan thực tế để nâng cao ý thức của học
sinh sinh viên trong công tác bảo vệ môi trường.
 - Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, chuyển giao ứng dụng công
nghệ và đào tạo nguồn nhân lực bảo vệ môi trường trong ngành
khai khoáng
3. Biện pháp khoa học kĩ thuật
 Nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ môi trường để
nâng cao hiệu quả sử dụng của trang thiết bị: công nghệ sạch, thân
thiện môi trường trong lĩnh vực khai thác mỏ, phát triển các công
nghệ xử lý và tái chế, tái sử dụng chất thải, đặc biệt là đất đá thải.
 Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong bảo vệ môi trường
mỏ.
 Tăng cường năng lực công tác ĐMC, ĐTM của Việt Nam.
 Nghiên cứu đánh giá mức độ ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến
hoạt động khai thác khoáng sản (có thể đưa vào nội dung ĐMC,

ĐTM).
4. Xử lí ô nhiễm
+) bằng phương pháp cơ học
+Song chắn rác:là những thanh kim loại có tiết diện hình tròn,hình chữ
nhật được đặt nghiêng 1 góc 60 -90 theo hướng dòng chảy nhằm giữ
các cặn bẩn như:giấy,cây cỏ ,rác
+Lưới chắn rác:để khử các chất lơ lửng có kích thước nhỏ hoặc các sản
phẩm có giá trị thường dùng lưới lọc cỡ 0.5 -1mm
+Bể lắng:dùng để lắng các hạt lơ lửng và các hạt bùn nhằm làm trong
nước. Nguyên lí làm việc của máy dựa trên cơ sở trọng lực
+Bể điều hoà:do đặc điểm sản xuất của một số ngành công nghiệp,lưu
lượng và nồng độ nước thải không đều nhau theo các giờ trong ngày, sự
dao động lớn này sẽ ảnh hưởng không tốt đến những quá trình xử lí sau
này.
Để duy trì dòng thải và nồng độ vào công trình xử lí ổn định,khắc phục
những sự cố vận hành do sự dao dộng về nồng độ và lưu lượng của nước
thải và nâng cao hiệu suất của quá trình xử lí sinh học người ta sẽ thiết
kế bể điều hoà
+) Bằng phương pháp hóa học
 + Trung hoà nước thải: là quá trình đưa nước thải có tính axit hoặc
tính kiềm về nước có môi trường trung tính trước khi thảii ra
nguồn hoặc sử dụng cho các công trình xử lí tiếp theo.
 Phương trình phản ứng: OH
-
+ H
+
-> H
2
0
 + Phương pháp kết tủa:

 Phương pháp này dựa trên phản ứng hoá học tạo kết tủa giữa chất
đưa vào nước thải và kim loại năng cần tách co trong nước thải,. ở
độ pH thích hợp sẽ tạo thành hợp chất kết tủa và được tách ra khỏi
nước thải bởi quá trình lắng,loc,keo tụ.
 Zn
2+
+ 20H
-
= Zn(OH)
2

 Mn
2+
+ 2OH
-
= Mn(OH)
2
 Cd
2+
+ 20H
-
= Cd(0H)
2
 + Tuyển nổi:
 Tuyển nổi là quá trình hoá lí phức tạp trong đó có các phần tử có
bề mặt kị nước sẽ có khả năng kết dính vào bọt khí.khi cá bọt khí
và các phân tử cùng chuyển động trong nước các phân tử này sẽ
bám trên bề mặt bọt khí và nổi lên.Những phân tử nào không có
khả năng kết dính sẽ ở lại trong nước.
+) Phương pháp sinh học:

Dựa trên nguyên tắc một số loài thực vật, vi sinh vật trong nước sử dụng
kim loại như chất vi lượng trong quá trình phát triển khối như bèo tây,
bèo tổ ong, tảo,… với phương pháp này, nước thải phải có nồng độ kim
loại nặng nhỏ hơn 60 mg/l và phải có đủ chất dinh dưỡng (nitơ, phôtpho,
…) và các nguyên tố vi lượng cần thiết khác cho sự phát triển của các
loài thực vật như rong tảo.
Với mục tiêu bảo vệ, khai thác sử dụng hợp lý, tiết kiệm có hiệu
quả nguồn tài nguyên kho áng sản của tỉnh, đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững công nghiệp khai khoáng, chúng tôi xin nêu các giải pháp sau:
Đối với công tác quản lý nhà nước, trong khâu quy hoạch, nếu
thuộc thẩm quyền phê duyệt của Chính phủ thì các Sở Công nghiệp, Sở
Xây dựng Nghệ An cần phối hợp với các bộ, ngành liên quan đến xây
dựng Quy hoạch khoáng sản. Sở Tài nguyên và Môi trường phối hợp với
các cơ quan có liên quan tiến hành khoanh vùng được các khu vực cấm
hoạt động khoáng sản, khu vực quy hoạch đấu thầu khoáng sản để
UBND tỉnh trình Chính phủ phê duyệt. Đối với Quy hoạch do HĐND
tỉnh thông qua, các Sở Công nghiệp, Sở Xây dựng chủ động kết hợp với
Sở Tài nguyên và Môi trường và các cơ quan liên quan khác đẩy nhanh
tiến độ lập và thông qua Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử
dụng khoáng sản trên địa bàn tỉnh Nghệ An thuộc thẩm quyền cấp giấy
phép của UBND tỉnh trình HĐND tỉnh. Các quy hoạch phải khoanh
vùng được các khu vực cấm hoạt động khoáng sản, khu vực khai thác
công nghiệp, khu vực kêu gọi đầu tư, khu vực đấu thầu hoặc khu vực
khai thác tận thu cho từng loại khoáng sản nhằm đáp ứng nhu cầu phát
triển công nghiệp khai khoáng của tỉnh theo từng giai đoạn. Đồng thời
thành lập Hội đồng đánh giá trữ lượng khoáng sản cấp tỉnh để phê duyệt
đánh giá trữ lượng khoáng sản của các đề án thăm dò khoáng sản thuộc
thẩm quyền của UBND tỉnh cấp giấy phép.
Đối với công tác thanh, kiểm tra, phổ biến tuyên truyền pháp luật
cần được tăng cường, xử lý triệt để sai phạm theo đúng pháp luật. Việc

cấp giấy phép phải tuân theo quy hoạch đã thông qua, cấp phép phải
đúng thẩm quyền, đồng thời thu hồi những giấy phép đã hết hạn, manh
mún hoặc không đủ năng lực về tài chính, công nghệ. Ưu tiên lựa chọn
các nhà đầu tư có năng lực đầu tư vào công nghiệp khai thác và chế biến
khoáng sản, số lượng mỏ ít nhưng tập trung và quy mô hơn, thời gian
khai thác lớn, công nghệ khai thác hiện đại hơn. Diện tích khu vực, khối
lượng và thời gian khai thác của giấy phép khai thác phải phù hợp. Các
khu vực có trữ lượng lớn không nên phân nhỏ diện tích khu vực khai
thác để cấp nhỏ lẻ, tránh tình trạng diện tích và khối lượng khai thác thì
rất lớn mà công suất và thời gian khai thác lại quá nhỏ, không đủ thời
gian cho các nhà đầu tư hoạch định kế hoạch khai thác lâu dài.
Để đánh giá đúng về giá trị tài nguyên, cấp giấy phép đúng chủng
loại , đúng quy mô, tận dụng tối đa tài nguyên khoáng sản quốc gia, cần
tập trung thực hiện công tác khảo sát, thăm dò khoáng sản trước khi cấp
giấy phép (kể cả khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường). Ưu
tiên cấp giấy phép cho các dự án kèm theo chế biến sâu khoáng sản. Đối
với các mỏ đã được UBND tỉnh cấp phép sai chủng loại khoáng sản,
hoặc sai thẩm quyền thì cần rà soát, phân loại, hướng dẫn làm thủ tục
theo quy định hoặc thu hồi, không gia hạn. Kiên quyết xử lý hoặc thu
hồi giấy phép các doanh nghiệp được cấp phép nhưng không tiến hành
khai thác, hoặc các tổ chức sai phạm, không thực hiện đầy đủ các quy
định của Luật Khoáng sản.
Đẩy mạnh cải cách hành chính trong công tác quản lý hoạt động
khoáng sản, tham mưu cho UBND tỉnh ban hành các văn bản quy định
quản lý nhà nước về hoạt động khoáng sản trên địa bàn tỉnh một cách
phù hợp. Có chính sách bổ sung phát triển nguồn nhân lực ngành mỏ-địa
chất, tiến hành kiểm tra định kỳ đối với các doanh nghiệp hoạt động
khoáng sản, đồng thời triệt để xử lý những sai phạm nếu có.
Chính phủ cần có những quy định cụ thể về thuế xuất nhập khẩu
khoáng sản trên địa bàn Nghệ An để hạn chế xuất khẩu khoáng sản thô,

khuyến khích đẩy mạnh công tác chế biến sâu nhằm tăng thu ngân sách
cho tỉnh.
Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp phỏng vấn: Tiến hành phỏng vấn người dân, các cán bộ địa
phương cũng như cơ quan chức năng.
+ Phỏng vấn hộ (Households interviews): tiến hành phỏng vấn hộ gia đình
trong vùng nghiên cứu dựa trên bảng câu hỏi soạn sẵn (Questionnaires).
+ Phỏng vấn những người chủ chốt, người cung cấp thông tin quan trọng
(Key informant interviews): Bảng liệt kê các câu hỏi gợi mở (checklist) sẽ được sử
dụng để phỏng vấn những thành viên đóng vai trò quan trọng trong cộng đồng địa
phương; phỏng vấn ban quản lý khu BTTN, các cấp chính quyền.
- Quan sát: Ngoài việc thu thập những thông tin qua cách phỏng vấn, thì
người điều tra lấy số liệu còn phải quan sát các hoạt động sản xuất và khai thác,
các nguồn thu nhập, của các gia đình nơi họ đến phỏng vấn để đối chiếu, bổ
sung… làm chính xác hơn những số liệu mà họ thu thập qua phỏng vấn.
- Phương pháp hỏi ý kiến chuyên gia:
Được sự chỉ dẫn hỗ trợ của giáo viên hướng dẫn. Trao đổi, tham khảo một
số kết quả của các cán bộ quản lý khu vực.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực địa:
Khảo sát thực địa bao gồm quan sát cảnh quan sinh thái, điều tra đo đạc hiện
trạng chất lượng môi trường thông qua các chỉ tiêu chất lượng.
- Phương pháp thu thập tài liệu: Tài liệu sử dụng trong đề tài được thu
thập từ các nguồn:
+ Thu thập tài liệu trên các website;
+ Báo cáo khoa học chuyên ngành liên quan tới ô nhiễm môi trường, khai
thác khoáng sản ở Nghệ An;
+ Giáo trình, bài giảng môn học, tài liệu hướng dẫn liên quan đến ô nhiễm
môi trường, tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản và khai thác khoáng sản.

CHƯƠNG III: KẾT LUẬN VÀ THẢO LUẬN
1, Hiện trạng
Quỳ hợp là một huyện miền núi của Nghệ An với trử lượng khoáng sản
lớn với nhiều loại khoáng sản khác nhau như : thiếc, đá trắng, đá vôi, đá
xây dựng, vàng… Đây là tiềm lực kinh tế quan trọng với Nghệ An nói
chung và huyện Quỳ Hợp nói riêng. Trước những tiềm lực , nguồn lợi
kinh tế như thế sẻ không tránh khỏi những tình trạng phạm pháp, lách
luật để khai thác trái phép các khoáng sản có giá trị trên địa bàn.

×