Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Kĩ thuật quân sự Đại Việt part 10 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.84 KB, 10 trang )

Kĩ thuật quân sự Đại Việt Tổng hợp bởi zDragonFlyz – www.hoangsa.org
www.gamevn.com

- 91 -
người ở đằng sau xe, trên ván lát lấy hai tay kéo hai đầu dây cho chuyển
động, một tiến một lùi, một thuận một nghịch, như cách xay lúa. Như thế thì
những đao gươm hai bên và mặt trước múa rối lên, giặc không dám đến
gần. Ta tiến đến dưới thành, hoặc dùng hỏa công mà đốt, hoặc dùng thang
mây trèo lên, đều được như ý, lo gì thành giặc không phá nổi, hung đảng
không trừ hết. Đấy là phép diệu xe gươm.

PHÉP GÀI TÊN DƯỚI ĐẤT.

Phàm đánh nhau với giặc ở chỗ đồng bằng nội rộng, cổ nhân bày
thành thế trận, đó là lẽ thường, chưa phải là diệu. Nay có một cách gọi là
gài tên dưới đất, rất là thần kỳ. Phép lạ ấy làm sao? Lấy tre cứng làm cần,
không cứ nhiều ít. Xin lấy một cần mà nói. Trên dùng một ống tre, trên thì
thông miệng, dưới thì để mắt, dưới mắt khoét một lỗ chếch để cài đầu cần
tre vào, xong rồi, trong ống nạp tên thuốc độc cho đầy, mỗi cần tre đều làm
như thế, hoặc 50 cái hay 80 cái cũng được. Bấy giờ mới đào một cái ao như
hình cái quạt, sâu nông rộng hẹp thì liệu cho vừa, đem các cần tre cắm hàng
chữ nhất ở trong ao; ở đáy ao lại dùng một cây gỗ dài nhỏ làm máy, đè lên
đầu các cần tre, uốn các càn tre đều cong như hình cung khiến các ống tên
đều chiếu chếch lên trời. Ở trên máy ấy trồng một cột gỗ, đầu cột có bánh
xe. Xong rồi lấy dây gai buộc vào giữa cây ngang máy, dẫn dây vào bánh xe
đầu cột như phép ròng rọc và kéo ra đằng sau. Cách hơn 30 bước, lại đào
một cái lỗ tròn, đặt tấm ván làm máy như phép thiên la áp trại, đem các đầu
dây ấy buộc vào giữa cái máy ván, rồi lấp bằng trên mặt đặt đi. Rồi đem
quân khiêu chiến, giả cách thua chạy, quân giặc đuổi theo thì xéo vào chỗ
ván máy, ván sập thì dây gai kéo, dây gai kéo thì máy trong ao đều rớt mà
các cần tre đều bật lên, tên thuộc độc ở trong các ống đều bắn tung lên,


quân giặc đều chết. Cho nên Bảo thư nói rằng “Chinh phu hóa thành mo
nang (bị gió thổi rơi)” là thế đấy.

PHÉP ỐNG TÊN GIẤU HÌNH.

Một hôm tôi hỏi bạn rằng: Trước Ngọa-long có phép bắn một phát
mười tên, đấy là liên nỗ. Nay lấy trí khôn của chúng ta mà bàn thì một phát
nỏ có thể bắn được mười tên không?

Bạn tôi trả lời rằng: Trí khôn của cổ nhân ta đâu dám bì. Nhưng
thánh nhân có nói: Người ngu nghĩ nghìn điều hẳn cũng có một điều được.
Kĩ thuật quân sự Đại Việt Tổng hợp bởi zDragonFlyz – www.hoangsa.org
www.gamevn.com

- 92 -
Nay tôi ngồi yên mà nghĩ được một phép diệu gọi là ống tên giấu hình. Phép
ấy một nỏ cũng có thể bắn một phát vài chục tên.

Tôi xin được biết đại lược phép ấy.

Bạn nói: Phép này nên dùng tre núi làm một cái ống dài 5 thước 5
tấc, trên đầu ống làm miệng, dưới ống để mắt, dưới mắt lại để thừa độ hơn 2
tấc. Lại đo tự chỗ mắt để trở xuống cách 1 tấc dùi ngang một lỗ. Lại đo tự lỗ
ấy trở xuống 1 tấc, nửa trên để vậy, nửa dưới cắt hai bên đi, chỗ cắt thì
đóng hai cái đanh thau như hình chữ nhị. Xong rồi, bèn làm một cái nỏ to
thật khỏe, trước lấy dây nỏ buộc vào đầu cánh bên tả của nỏ, dây dư thì
luồn qua lỗ ngang dưới ống tên, rồi đem dây buộc sang cánh bên hữu của
nỏ. Xong rồi, làm một cái giá gỗ như hình chữ tỉnh, giữa giá dựng một cái
cột cao 1 thước 1 tấc, có bốn bánh xe để tiện xoay chuyển mà bắn. Lúc dùng
thì đem nỏ ấy để lên đầu cột ở giữa cái giá, lấy dây mây buộc cho chắc, rồi

sau cho người kéo dây nỏ giương lên, mà đem hai đanh thau ở đằng sau ống
tên cắm vào máy nỏ, xong rồi nạp tên thuốc độc vào ống ấy cho đầy ống, để
mũi tên thò ra ngoài miệng ống 1 tấc làm cữ. Lại ở dưới máy nỏ buộc một
sợi dây gai giữ lấy để dùng. Lúc dùng thì sai người kéo cái dây gai, dây gai
động thì máy nỏ bật lên mà dây nỏ ống tên đều phát, các tên trong ống đều
nhân sức bắn của ống tên mà bắn tung ra bốn mặt, quân giặc chống sao cho
nổi!

PHÉP THUỐC TIÊN CHỊU ĐÓI

Bài thuốc Tổ sư ứng cơ đơn:
Đào nhân 4 lạng,
Cam thảo 1 cân,
Đỗ trọng 4 lạng,
Bạc hà 4 lạng,
Hạnh nhân 1 cân (nấu chín bỏ vỏ và đầu nhọn),
Tiểu hồi 4 lạng sao chín,
Phục linh 4 lạng,
Cát cánh 3 lạng.

Các vị trên này tán nhỏ trộn cho đều, mỗi lần dùng một nhúm ngậm ở
trong miệng, gặp các lá cây cỏ như lá thông lá bách lấy nhá ngậm cho hóa
ra nước mà nuốt với thuốc này thì nhan sắc như cũ, khí lực không kém, thực
là thuốc tiên.
Kĩ thuật quân sự Đại Việt Tổng hợp bởi zDragonFlyz – www.hoangsa.org
www.gamevn.com

- 93 -

Bài thuốc Thần tiên sung phúc đơn:

Hạt vừng đen 1 cân,
Đậu đen 1 cân,
Long cốt 5 đồng cân,
Ô đầu 1 đồng cân,
Táo hồng 1 cân,
Xích thạch chi 5 đồng cân,
Phòng phong 5 đồng cân.

Các vị trên này tán nhỏ ra, luyện mật làm hoàn to bằng viên đạn, lấy
chu sa làm áo, mỗi lần dùng một viên, uống nước lã tống xuống, được một
ngày không đói, thực là bài thuốc lạ.

Lại một bài nữa:
Táo hồng 1 cân,
Vừng đen 1 cân,
Nhân sâm 1 cân.
Đều tán nhỏ, luyện mật, viên to bằng viên đạn.

Kiêm-trai nói: Hai bài thuốc trên này khí vị bình hòa, đều là ôn bổ,
châm chước dồn làm một bài thuốc càng tốt.

PHÉP THANG HAI TẦNG.

Phàm dùng binh lên núi qua sông, vượt nơi nguy hiểm, đều cần chuẩn
bị đầy đủ. Như giặc ở trong trại thành cao vài trượng thì dùng cách gì để
trèo vào thành?

Cách làm: Làm hai tầng thang, tầng thứ nhất dài 30 thước ngang 4
thước, tầng thứ hai cũng dài 30 thước, ngang 3 thước 5 tấc. Trước đặt thang
tầng thứ hai vào trong thang tầng thứ nhất, đầu thang dùng gỗ rắn làm then

ngang nối hai thang làm một, ở dưới thang tầng thứ hai đóng móc sắt. Khi
muốn lên thành đem hai thang giáp làm một bắc lên thành, trèo lên thang
tầng thứ nhất, lên đến đầu thang thì đem thang tầng thứ hai vất lên trên
thành, đem móc sắt ở đầu thang móc vào đầu thành, quân lính bám vào mà
lên. Thế là lên được thành.

PHÉP SÚNG BẮN ĐỔ NÚI.
Kĩ thuật quân sự Đại Việt Tổng hợp bởi zDragonFlyz – www.hoangsa.org
www.gamevn.com

- 94 -

Phàm người đánh giỏi có thể lấy ít mà địch nhiều, lấy yếu mà địch
mạnh. Ví như ở chỗ đồng bằng nội rộng, quân giặc trăm vạn như sông cuộn
biển sôi mà đến, thì nên dùng súng máy ma bắn, giặc tất tan gãy.

Cách làm: Trước hết làm ba khẩu súng to, mỗi khẩu trước lấy gỗ nhỏ
bó làm một bó to 2 thước dài 6 thước để làm cái cốt súng. Lại lấy gỗ rắn to
2 thước dài 5 thước 5 tấc, trên bằng dưới nhọn, đặt vào sau cái cốt để làm
đáy súng. Lại lấy rơm trấu, phân voi trộn vào đất gan trâu, luyện thành bùn
để bọc ngoài cốt súng và đáy súng dày 3 tấc. Lại lấy da trâu bao kín ngoài
đất, lấy dây gai buộc lại cho chặt. Lại lấy đặt luyện nhỏ trước đắp vào bên
ngoài da trâu, dày 2 tấc. Lại lấy thanh tre đặt thẳng ở ngoài lần đất, ghép
liền cho kín, ngoài lấy dây sắt mà buộc. Xong rồi, mới lấy cái cốt ra. Lại lấy
dùi sắt dùi lỗ, cho ống sắt nhỏ vào để làm lỗ ngòi. Ba khẩu súng đều làm
như thế. Xong rồi, sai thợ làm đạn dây sắt, mỗi viên đạn đường kính 1
thước5 tấc 5 phân, cưa làm hai mảnh, mỗi mảnh đục bỏ ruột sắt đi bằng cái
chén, chính giữa dùi một lỗ, lấy dây sắt mà buộc, tả chằng sang hữu, hữu
chằng sang tả, rồi đem dây sắt vặn lại thành một khối để vào trong lòng hai
mảnh, sao cho hai mảnh hợp lại thành một hòn đạn thì tốt. Bấy giờ mới lấy

thuốc súng nạp vào dưới đáy súng, lại lấy đạn dây sắt nạp vào trên thuốc
súng. Ba khẩu súng đều làm như thế.

Lại như khẩu súng giữa, nên lấy ống gang tròn nạp vào ở trên đạn
dây sắt. Phép làm ống gang có bốn hạng. Cái ống mẹ lớn dài 2 thước, to 1
thước 8 tấc, dày 1 phân; ống mẹ nhỏ dài 1 thước 8 phân, to 1 thước 7 tấc,
dày 1 phân; ống con lớn dài 1 thước 5 tấc, to 1 thước 6 tấc, dày 1 phân; ống
con nhỏ dài 1 thước 4 tấc, to 1 thước 5 tấc, dày 1 phân. Bốn ống, đều có nắp
trôn ốc, ở dưới có đáy bằng. Trước đem ống con nhỏ nhồi thuốc súng vào,
xoáy nắp trôn ốc, nạp vào trong ống con lớn; lại nhồi thuốc súng vào trong
ống con lớn ngoài ống con nhỏ, cũng xoáy nắp trôn ốc lại; lại nạp ống con
lớn vào trong ống mẹ nhỏ, cũng nạp thuốc súng và xoáy nắp như trước; lại
đem ống mẹ nhỏ nạp vào trong ống mẹ lớn, cũng nạp thuốc súng và xoáy
nắp lại. Xong tắt cả rồi lại lấy dùi sắt dùi một lỗ tự ngoài ống mẹ lớn thẳng
suốt vào các ống con, để làm lỗ ngòi, lại lấy dây ngòi thuốc luồn vào, cái
đầu thừa của ngòi thuốc quấn vào quanh mình ống mẹ lớn. Lại lấy dây gai
buộc 3, 4 lần. Lại lấy bẹ chuối tươi buộc vào ngoài da gai, rồi đem đuôi
ngòi thuốc xuyên ra ngoài để chờ đồ dẫn hỏa chuyền vào, rồi nạp vào trong
lòng súng ở trên đạn dây sắt. Lại lấy vải giấy bọc một bao đạn nhỏ để lên
trên các ống sắt. Đấy là cách làm khẩu súng giữa. Còn hai khẩu súng bên tả
Kĩ thuật quân sự Đại Việt Tổng hợp bởi zDragonFlyz – www.hoangsa.org
www.gamevn.com

- 95 -
bên hữu thì nên dùng tên sắt dài 2 thước, lấy dây da nhỏ buộc thành một bó
để vào trên đạn dây sắt. Xong rồi thì ngoài ba khẩu súng ấy dựng hai cột ở
hai bên tả hữu, mỗi cột cao quá thân khẩu súng 1 thước, đầu mỗi cột dùi
ngang một lỗ rộng 2 tấc, tả hữu đối nhau. Lại lấy hai mảnh gỗ giáp lại làm
một to độ 1 tấc hơn, cài vào lỗ hai đầu cột ở trên ba khẩu súng, ở giữa hai
mảnh gỗ giáp nhau lại ghép ba miếng gỗ nhỏ, ngay vào ba lỗ phát hỏa của

ba khẩu súng thì tốt. Mỗi đầu mảnh gỗ lại buộc một sợi dây to, rồi sau lấy
ba sợi dây gai buộc vào miếng gỗ nhỏ, đuôi dây hợp lại làm một. Khi muốn
bắn thì rút dây ấy xuống, tự nhiên cả ba khẩu súng đều nổ. Giặc dầu có
phép tàng hình độn thổ cũng trở thành người dưới suối vàng mà thôi.

4. THIÊN GIỮ TRẠI
PHÉP MÁY ĐÁ GIỮ TRẠI.

Phàm phép giữ rất khó, cho nên cổ nhân dùng đủ các thứ răng sói,
bàn chông, hỏa tiễn, hỏa công để phòng bị. Nhưng các phép ấy dẫu hay mà
công dụng cũng khó, cho nên Lộc-khê tiên sinh chế ra phép máy đá giấu lửa
để giữ thành luỹ, giặc có quân trăm vạn, bậc thang cao mà trèo lên cũng
đều thịt nát xương tan, còn lo gì nó đục thành nữa.

Cách làm: Bốn mặt lũy, trên đầu lũy bên ngoài tận cùng dựng liền hai
cột nhỏ dài 5 tấc, cách nhau hơn 30 thước, lại dùng gỗ rắn dài hơn 30
thước, rộng 1 thước, bốn góc đều có vòng sắt. Trước đem vòng sắt của hai
góc ván ấy treo lên cột ngắn trên lũy, còn hai góc mé ngoài thì bỏ xuống.
Lại dựng một cái cột ở trong lũy, cao hơn luỹ 3 thước, đầu cột đặt bánh xe
làm thân ròng rọc. Lại lấy dây máy buộc vòng sắt hai góc bên ngoài của
tấm ván, dây góc bên tả chằng sang góc bên hữu, dây góc bên hữu chằng
sang góc bên tả. Xong rồi, lại dùng một dây buộc vào giữa dây hai góc dắt
vào trong lũy để lên trên cái ròng rọc ở đầu cột cao, đầu dây buộc chặt vào
dưới chân cột. Rồi đem đá to đặt chồng chất trên tấm ván. Bốn mặt lũy đều
làm như thế. Nếu quân giặc bắc thang mây trèo thành mà lên, hay là nó đào
lũy phá thành, thì ta lập tức cắt đứt cái dây ở chân cột, tấm ván nghiêng ra
mà đá đổ xuống cả.

Lại sai quân đào một hốc vuông vức 4 thước ở bên trong chỗ gần lũy,
xong rồi, lại lấy da lợn rừng sống phơi khô làm gối cho lính nằm ở trong

hốc ấy để nghe xem giặc có đào hang dưới đất hay không. Phép này thực là
thần diệu.

Kĩ thuật quân sự Đại Việt Tổng hợp bởi zDragonFlyz – www.hoangsa.org
www.gamevn.com

- 96 -
PHÉP NỎ THẦN GIỮ TRẠI.

Đại tướng trước hết phải bảo trọng thân mình. Nếu không như thế,
thảng hoặc kẻ gian lẻn vào được mà làm hại thì Nhà nước cậy vào đâu, xã
tắc dựa vào đâu? Cho nên làm tướng ngày thì nghiêm lệnh như Chu Á-phu,
đêm thì phòng gian như Trịnh tử, mà còn lâm sự lo sợ ngay ngáy nơm nớp,
há dám ngủ kỹ cậy mạnh mà coi thường tính mệnh đâu! Cho nên Lộc-khê
tiên sinh chế ra phép đặt máy nỏ giữ trại. Giả sử Kinh Kha sống lại, Nhiếp
Chính phục sinh, cũng chỉ làm người dưới suối vàng mà thôi, còn cậy gì về
dao găm mũi nhọn nữa!

Cách làm: Dùng một cái nỏ lớn, xoi rãnh đặt ba tên, dưới nỏ ở chính
giữa lại làm một lỗ tròn to hơn 1 tấc. Lại dựng một cột gỗ ở cửa trại, gần
chỗ hổ môn, đầu cột dùng một cốt sắt tròn đóng vào 5 phân, cao hơn đầu cột
2 tấc. Rồi đem lỗ tròn dưới nỏ lồng vào cột sắt ấy, để tiện xoay chuyển. Đầu
nỏ làm một cái vòng thau. Lại lấy hai sợi dây tơ nhỏ, một sợi giằng buộc
vòng thau vào cái bạo cửa bên tả, một sợi giằng buộc vào bạo cửa bên hữu,
tạm thắt lại như cách thắt giải áo. Lại dùi đằng sau nỏ một lỗ chếch, lấy gỗ
nhỏ cắm vào, nửa ở dưới nỏ nửa ở trên nỏ, để làm máy nỏ. Lại lấy một
miếng gỗ đỡ ở đầu dưới máy nỏ ấy tạm cài vào bên cột máy. Rồi sau giương
dây nỏ đặt vào trên máy, bên trên đặt ba tên để đợi dùng. Nếu kẻ gian vô ý
xông vào, động phải dây tơ, nỏ tự xoay chuyển, rơi cái gỗ đỡ, dây nỏ bật
lên, tên nỏ bắn ra.


PHÉP DÂY TIÊN TRÓI GIẶC.

Phàm đêm trong dinh phải có cách phòng gian; cách nào nên làm
trước? Nên dùng dây tiên trói giặc.

Cách làm: Trước dựng hai cái cột lớn ở hai bên cửa tướng, hai bên
cột treo hai cái đèn đỏ, bấc đèn tẩm các thứ diêm tiêu lưu hoàng. Lại lấy
dây mây chằng ngang hai cột, cột bên tả buộc sang bên hữu, cột bên hữu
buộc sang bên tả. Lại lấy hai miếng gỗ rắn cài vào trên dây mây, liệu cách
cột mỗi bên 3 thước, hai bên đều thế. Lại sai hai người khỏe vặn hai miếng
gỗ vài mươi lần rất chặt. Treo chuông đồng ở đầu hai miếng gỗ ấy. Lại lấy
hai sợi dây gai buộc hai miếng gỗ ấy kéo ra ngoài cửa, làm phép máy động
như phép bính đinh. Xong rồi, lại lấy một thanh gỗ rắn cắm ngang vào đầu
hai miếng gỗ. Lại lấy một sợi dây da trâu buộc vào giữa thanh gỗ ngang ấy
treo xuống làm một cái vòng to, liệu chừng cái máy phát động vừa đúng vào
Kĩ thuật quân sự Đại Việt Tổng hợp bởi zDragonFlyz – www.hoangsa.org
www.gamevn.com

- 97 -
giữa vòng ấy thì khéo. Lại đào lỗ ở trong vòng ấy làm máy phát hỏa, trong
máy có ngòi thuốc ngầm thông đến đèn đỏ hai bên, để đợi dùng. Nếu có kẻ
gian vô ý bước vào vòng ấy, động vào máy thì hai miếng gỗ chuyển ngược,
chuông đồng kêu vang lên, đèn đỏ bật sáng lên, kẻ gian sẽ bị trói ngay.

Kiêm-trai xét: Phép này làm như phép bính đinh. Nhưng phép bính
đinh thất truyền, không thể hiểu được. Cứ ý tôi nghĩ: nên đem hai dây gai
buộc hai miếng gỗ kéo ra ngoài cửa hợp làm một dây, đầu dây thò xuống
buộc vào miếng gỗ ngang nhỏ dài 2 tấc như chữ đinh, lại đào lỗ dưới đất,
lấy ván dùi hổng đặt trên miệng lỗ, lấy gỗ nhỏ buộc đầu dây đặt xuống dưới

lỗ hồng của ván. Lại lấy gạch đá chặn bên tấm ván ấy, lấy đất cát rải bằng
trên mặt. Dây da trâu thì dùng vòng sắt tròn đường kính 5 phân buộc vào
đầu dây, lại một đầu luồn vào vòng sắt rồi mới đem buộc vào gỗ ngang trên
máy. Cái đầu dây buộc vòng sắt còn thừa rủ xuống, nên dẫn chạy vòng
quanh làm vòng tròn to, chạy bên ngoài quanh cái lỗ đặt máy.

PHÉP NỎ KHỎE PHÒNG GIAN.

Phàm trí tướng lập dinh đóng trại tất phải chuẩn bị trước để phòng kẻ
gian tế. Như trong cửa dinh nên làm một cái nỏ khỏe, sai thợ xoi ba lòng
bắn được ba tên. Rồi sau dựng giá gỗ cao 3 thước, đặt nỏ lên trên, buộc lại
cho chặt. Đằng sau lại dựng một cái cột cao 2 thước 5 tấc, đầu cột làm bánh
xe như ròng rọc. Lại ở trước cái giá gỗ cách hơn 10 bước đào một lỗ sâu 1
thước hơn, trên nhỏ dưới to, mặt lỗ ấy làm máy đặt một tấm ván tròn ở trên,
rải đất cát cho bằng, không để lộ ra. Làm như thế xong rồi, bèn giương dây
nỏ lên máy, đặt ba tên nỏ thần, mũi tên tẩm thuốc độc. Lại lấy một sợi dây
gai nhỏ buộc ở máy nỏ, đem dây ấy gác lên bánh xe, rồi kéo ra trước nỏ,
buộc vào tấm ván tròn. Nếu trong đêm tối thích khách của giặc lẻn đến,
chân xéo lầm vào tấm ván tròn ở trên miệng lỗ, ván ấy rớt vào trong lỗ thì
sợi dây động, tên đều bắn ra, trúng là chết.

Bài thuốc độc tẩm tên.

Nhựa cây thấu cốt (tục gọi là nhựa cây cộng), ban miêu, từ thạch (đá nam
châm), điền cơ (tục gọi là khoai dại).

Các vị trên giã riêng ra trữ cả vào trong ống tre, rồi đem tên nỏ bỏ vào ống
tre ngâm 3 tháng 10 ngày.

Kĩ thuật quân sự Đại Việt Tổng hợp bởi zDragonFlyz – www.hoangsa.org

www.gamevn.com

- 98 -
PHÉP LƯỚI TRỜI YỂM TRẠI.

Trước tôi từng hỏi thầy rằng: Binh pháp có nói “Người đánh giỏi
trước giả làm yếu, sau tỏ là mạnh, khiến người đến mà không để người
khiến mình đến” là nghĩa thế nào? Thầy nói: “Lấy nhàn mà đợi nhọc, gọi là
ứng binh, thừa thắng mà đánh, gọi là kiêu binh. Ứng binh thì được, kiêu
binh thì thua. Cho nên ta trước giả làm yếu là muốn làm cho giặc kiêu, sau
tỏ sức mạnh là để hoàn toàn nắm sự thắng về ta”. Tôi nói: “Kế ấy làm thế
nào?” Thầy nói: “Lấy lợi mà nhử họ, gọi là dụ giặc, lấy kế mà đánh úp, gọi
là đặt kỳ. Lấy quân giặc tham lợi mà địch với mưu đặt kỳ, khác gì đàn dê
đánh nhau với hổ dữ, không được là rõ ràng lắm, còn phải nói gì. Ví như
quân giặc mới đến, khiêu chiến ta, ta nên yên quân không động, đợi khi nhuệ
khí của giặc hơi suy, rồi ta ra quân giao chiến, giả cách thua mà chạy, bỏ cả
trại sách. Quân giặc tất đuổi theo tranh cướp lấy trại, khi giặc hẳn kiêu, ta
lại ra quân khiêu chiến, làm cho nó tức, đợi đến lúc đánh đương say, ta lại
từ từ mà lui, giặc tất cho ta là nhát, rồi chạy suốt vào trại thiên la. Ta đánh
phá giặc dễ như lấy đồ trong túi.

Tôi lại hỏi: “Pháp thiên la thế nào?”

Thầy nói: “Phép làm, trước lấy dây gai đan làm lưới to, bốn mặt đều
có mảnh tre làm nẹp, bốn góc đều có vòng sắt, mỗi vòng đường kính 2 tấc.
Lại do bốn bên lưới ấy, chia trên đất làm bốn góc, mỗi góc đóng hai cái cọc,
mỗi cọc cao 2 thước, cách nhau 1 thước, đầu cọc đục suốt một lỗ tròn to 2
tấc 5 phân, 2 lỗ ở hai cọc đối nhau; bốn góc đều thế. Lại dùng gỗ dài đẽo
làm bốn cái cột neo, mỗi cái dài 8 thước, cái neo một đầu dùng cốt sắt to 1
tấc 9 phân đóng thẳng vào, một đầu dùi ngang một lỗ to 2 tấc. Lại có một

thanh gỗ rắn dài 1 thước 6 tấc, to 1 tấc 9 phân. Bốn góc đều làm đủ như thế.
Đến khi dùng, trước hết đem cái neo ấy để ở quãng giữa hai cái cọc, lấy
thanh gỗ rắn cắm vào như hình chàng xay. Lại lấy cán gỗ đầu neo cắm vào
vòng sắt bốn mặt lưới, giương lưới lên cao. Lại dùng bốn cái cây nống, nống
bốn cái neo lên. Xong rồi lại lấy bốn sợi dây buộc vào chân cái cây nống
kéo ra. Xong rồi, lại lấy một mảnh ván vuông 2 thước, bốn góc ván ấy dùi
hai lỗ, lại sai người đào ở chính giữa một cái hố vuông sâu 2 thước, trên
nhỏ dưới to, đem mảnh ván vuông ấy đặt lên trên hố, rồi kéo dây ấy buộc
vào lỗ ở bốn góc ván vuông ấy. Trên lưới treo các thứ đao, thương, tên, đá,
ngoài lưới làm sẵn nhà sát đó như kiểu nhà trại. Nhử giặc đến đấy, quân
giặc tham lợi, không ngờ tranh nhau cướp trại, xéo vào ván vuông sập
xuống, dây giật cây nống bốn mặt đổ xuống, mà lưới sập chụp hết.
Kĩ thuật quân sự Đại Việt Tổng hợp bởi zDragonFlyz – www.hoangsa.org
www.gamevn.com

- 99 -

PHÉP CHỮ ĐINH GIỮ THỦY TRẠI.

Phàm khi thủy chiến, dùng chiến thuyền kết làm thủy trại, ban đêm
ngủ phải có cách phòng gian, nếu không phòng gian thì không phải là trí
tướng. Muốn phòng gian phải làm phép đặt chuông.

Cách làm: Ở giữa sông dựng hai cái cột cao 4 thước, cách nhau 10
thước, đầu cột gác một cái gỗ ngang làm chữ đinh, hai cột đều thế. Hai bên
cái gỗ ngang của mỗi cột treo hai cái thanh la đồng. Đó là phép cột chữ
đinh ngang sông. Lại đi từ hai cột ấy ra ngoài 10 thước, bên tả bên hữu
cũng dựng hai cột chữ đinh, cũng treo thanh la như trước (Cộng thanh la
ngang sông và hai bên tả hữu là 8 cái). Trước mỗi thanh la dựng một cần tre
cao vừa đến chính giữa thanh la, ở dưới mỗi cần tre trong đáy nước đều

đóng cọc ngắn, đầu cọc làm bằng. Rồi buộc dây gai vào mỗi đầu cành tre,
đầu dây lại buộc vào cái gỗ ngang. Lại đem cần tre kéo xuống uốn thành
hình cung, đặt trên đầu cọc bằng, lấy đá đè lên; tám cọc đều thế. Mỗi hòn
đá lại buộc bằng dây gai, đầu các dây gai ấy hợp làm một, lại dùng một sợi
dây gai dài 100 bước hay 50 bước buộc vào hòn đá, kéo ra bên ngoài mà
chăng ngang sông. Nếu có thuyền giặc ban đêm lẻn vào thủy trại, mái chèo
động vào dây chăng ngang sông thì các hòn đá ở đầu cọc đều rơi xuống mà
cần tre đều đập vào thanh la kêu vang lên thì ta biết ngay. Đó là phép đặt
chữ đinh giữ thủy trại.

PHÉP LÀM CỜ XEM HƯỚNG GIÓ.

Gió là hiệu lệnh của trời, cho nên biết xem gió thì điều hay biết trước
và điều không hay cũng biết trước. Như sắp hàng binh mà không biết xem
hướng gió thì biết đâu lành dữ mà làm theo hay tránh đi. Muốn xem hướng
gió thì trước làm cờ xem gió.

Cách làm: Ngoài cửa trại, dựng một cái cột cao vài mươi thước, trên
đầu cột đặt một cái bánh xe cùng một con diều bằng gỗ, có cái cờ nhỏ như
hình đầu cột buồm. Lại lấy 10 cân lông đuôi gà kết làm một sợi dây dài
bằng cái cột, buộc vào sau đuôi diều gỗ, đầu dây thò xuống; lại lấy lông
ngan kết làm một búp như hình hoa cúc; lại lấy một sợi dây gai nhỏ bằng
sợi dây lông ấy buộc vào đầu mỏ diều gỗ; đầu dây thò xuống buộc một hòn
sắt, để xem hướng gió. Nếu có gió thì con diều gỗ chuyển động theo mà dây
lông bay lên. Muốn biết hướng gió thì dùng một sợi dây tơ nhỏ buộc vào
Kĩ thuật quân sự Đại Việt Tổng hợp bởi zDragonFlyz – www.hoangsa.org
www.gamevn.com

- 100 -
dưới búp lông hoa cúc của dây lông, buộc qua sang gặp cái dây có hòn sắt ở

mỏ diều. Rồi dùng địa bàn có kim chỉ nam đặt ở dưới cái dây ngang ấy thì
biết hướng gió bốn phương tám mặt.


III. Quân cơ
PHÉP DẠY QUÂN ĐÁNH GIẶC.

Phàm ngày thường ước thúc, tất có quân cơ; đánh giặc xâm lăng,
cũng có kế sách. Nếu không có kế sách thì trong lúc vội vàng làm sao có thể
ứng biến được. Cốt yếu có 15 phép: Một là qua chỗ hiểm phòng nguy; hai là
xét nấp phục; ba là phòng nước độc; bốn là qua cầu phải cẩn thận; năm là
dùng lửa chống lửa; sáu là lấy nhàn đợi nhọc; bảy là lấy nhọc chế nhàn;
tám là nhọc nhàn đắp đổi; chín là hư trương thanh thế; mười là tránh chỗ
thực đánh chỗ hư; mười một là lấy hư làm thực; mười hai là lấy thực làm
hư; mười ba là phòng gian xét biến; mười bốn là chọn đất lập dinh; mười
lăm là cẩn thận thiên thời.

Điều thứ nhất. Ví như lấn vào cõi giạc, gặp chỗ đồng bằng nội rộng thì nên
kết trận. Nếu gặp núi sông hiểm trở, thì sai ngay quân kiêu kỵ du binh đi
trước. Nếu thấy gò cao rậm rạp, núi hang gập ghềnh, thì tiền quân từ từ tiến
chậm để đợi hậu quân, không được cách tuyệt gián đoạn. Đấy là yếu lược
qua hiểm phòng nguy.

Điều thứ hai. Nếu như đường cái dễ tiến; cũng sai du binh lên chỗ núi gò
cao, tả hữu tiền hậu xem xét kỹ càng, nếu thấy chỗ nào chim chóc bay lên,
vượn chồn chạy loạn, hoặc cây cỏ không gió mà động và bụi đất mù trời,
dưới chỗ ấy hẳn có phục binh, thì du binh quay về báo cho chủ tướng, dừng
xe kết trận mà đóng lại, để đợi xem thế giặc làm sao. Đấy là yếu lược xét
nấp phục.


Điều thứ ba. Như mới vào cho đất lạ, nước suối cũng nên cẩn thận. Nếu
mình chưa quen thủy thổ, không nên uống nước là một; sợ quân giặc ở trên
dòng bỏ thuốc độc vào nước là hai; nước lạ mình chưa rõ tính không nên
uống là ba; mùa hè nóng nực, khi độc nghi ngút, nước tự trên cao chảy
uống, hoặc sắc đen mà nhiều hoa, hoặc sắc đỏ mà nhiều chất phèn, hoặc
đục mà mùi chua mặn, cũng không nên uống là bốn; hoặc mùa đông mưa lũ,
dưới núi nhiều khe và mạch nước phun ra, lá cây cỏ ngâm nát thành độc,

×