MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ PHI TÍN DỤNG 3
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3
1.1 Tổng quan về dịch vụ phi tín dụng của ngân hàng thương mại 3
1.1.1 Khái quát về ngân hàng thương mại 3
1.1.2 Dịch vụ phi tín dụng của ngân hàng thương mại 7
1.2 Phát triển dịch vụ phi tín dụng của ngân hàng thương mại 16
1.2.1 Khái niệm phát triển dịch vụ phi tín dụng của ngân hàng thương
mại
16
1.2.2 Các tiêu chí đánh giá sự phát triển dịch vụ phi tín dụng của ngân
hàng thương mại 18
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển dịch vụ phi tín dụng của
ngân hàng thương mại 20
1.3.1 Những nhân tố chủ quan 20
1.3.2 Những nhân tố khách quan 25
Kết luận chương 1 27
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ PHI TÍN DỤNG
TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN
NÔNG THÔN THĂNG LONG 29
2.1 Khái quát về Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông
thôn Thăng Long 29
2.1.1 Quá trình hình thành, phát triển của Chi nhánh Ngân hàng nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Thăng Long 29
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển
nông thôn Thăng Long 30
2.1.3 Các hoạt động chính của Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và Phát
triển nông thôn Thăng Long 31
2.2 Thực trạng phát triển dịch vụ phi tín dụng tại Chi nhánh Ngân
hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thăng Long 36
2.2.1 Dịch vụ thanh toán trong nước và quốc tế 36
2.2.2 Thanh toán chi trả kiều hối 44
2.2.3 Dịch vụ ngân quỹ 45
2.2.4 Dịch vụ cho thuê két và bảo quản tài sản 46
2.2.5 Dịch vụ kinh doanh ngoại tệ 46
2.3 Đánh giá thực trạng phát triển dịch vụ phi tín dụng tại Chi nhánh
Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thăng Long 49
2.3.1 Những kết quả đạt được 49
2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân 52
Kết luận chương 2 61
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ PHI TÍN DỤNG
TẠI
CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN
NÔNG THÔN THĂNG LONG 62
3.1 Định hướng phát triển của Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và
Phát triển nông thôn Thăng Long 62
3.1.1 Định hướng phát triển chung của Ngân hàng nông nghiệp và Phát
triển nông thôn Việt Nam 62
3.1.2 Định hướng phát triển của Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và
Phát triển nông thôn Thăng Long 64
3.2 Giải pháp phát triển dịch vụ phi tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng
nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thăng Long 65
3.2.1 Hoàn thiện và bổ sung các tiện ích của các dịch vụ phi tín dụng hiện có,
trong phạm vi cho phép đẩy mạnh nghiên cứu triển khai các dịch vụ mới. 65
3.2.2 Khai thác hiệu quả mối quan hệ tương hỗ, gắn kết chặt chẽ giữa
dịch vụ tín dụng và dịch vụ phi tín dụng 68
3.2.3 Đào tạo phát triển nguồn nhân lực 69
3.2.4 Tiếp tục củng củng cố lưới trên địa bàn Thủ đô Hà Nội 71
3.2.5 Đẩy mạnh hoạt động Marketing ngân hàng 71
3.3 Một số kiến nghị 75
3.3.1 Đối với Chính phủ 75
3.3.2 Đối với Ngân hàng Nhà Nước 76
3.3.3 Đối với Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam 78
Kết luận chương 3 81
KẾT LUẬN 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC VIẾT TẮT
Viết tắt
Nguyên văn
NHNN
Ngân hàng Nhà nước
NHTM
Ngân hàng Thương mại
NHNo&PTNT Việt Nam
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn Việt Nam
Chi nhánh Thăng Long
Chi nhánh NHNo&PTNT Thăng Long
NHĐT VN
Ngân hàng Đầu tư Việt Nam
NHCT VN
Ngân hàng Công thương Việt Nam
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chi nhánh NHNo&PTNT Thăng Long thực hiện kinh doanh đa năng
cung cấp cho thị trường nhiều sản phẩm, dịch vụ khác nhau. Trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ kinh doanh của mình không chỉ gặp những khó khăn,
thách thức khi hoạt động, mà còn phải đối mặt với sự cạnh tranh quyết liệt từ
các ngân hàng thương mại khác. Cuộc đua tăng lãi suất huy động nhằm thu
hút khách hàng gửi tiền, cùng với sự điều chỉnh tăng lãi suất chiết khấu của
ngân hàng Nhà nước làm cho lợi nhuận từ hoạt động tín dụng giảm xuống và
rủi ro tăng lên. Trong khi đó dịch vụ phi tín dụng được xếp vào lĩnh vực kinh
doanh tương đối an toàn có rủi ro thấp hơn nhiều so với dịch vụ tín dụng của
NHTM. Vì vậy các NHTM đã bắt đầu chú trọng đến việc làm thế nào để tăng
lợi nhuận từ việc cung cấp các dịch vụ phi tín dụng.
Bên cạnh đó cùng với sự hội nhập và phát triển của nền kinh tế Việt
Nam, các khách hàng ngày càng đòi hỏi nhiều hơn về chủng loại và tiện ích
dịch vụ phi tín dụng mà các NHTM cung cấp. Nhu cầu về dịch vụ phi tín
dụng của NHTM có thể phát triển rất nhanh và vượt xa khả năng đáp ứng của
các định chế tài chính trung gian hiện có trong
nước. Đó là nhu cầu về các
dịch vụ bảo hiểm, các giao dịch cổ phiếu, các dịch vụ tư vấn đầu tư, những
dịch vụ liên quan đến thanh toán không dùng tiền mặt, dịch vụ kiều hối, và
kinh doanh các công cụ phái sinh như Option, Future, Forward… Các NHTM
trong nước, trong đó có Chi nhánh NHNo&PTNT Thăng Long, đã nhận thấy
sự cần thiết phát triển dịch vụ phi tín dụng trước khi các ngân hàng lớn của
nước ngoài với công nghệ và dịch vụ hiện đại thâm nhập sâu vào thị trường
Việt Nam.
Xuất phát từ những nhận định trờn, tụi đó lựa chọn đề tài “Phát triển
dịch vụ phi tín dụng tại Chi nhánh Ngõn hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn Thăng Long” làm đề tài nghiên cứu của luận văn.
2. Mục đích nghiên cứu của Luận văn
Nghiên cứu dịch vụ phi tín dụng của ngân hàng thương mại
Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển dịch vụ phi tín dụng tại Chi
nhánh NHNo&PTNT Thăng Long.
Đề xuất giải pháp phát triển dịch vụ phi tín dụng tại Chi nhánh
NHNo&PTNT Thăng Long.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận Văn
Đối tượng nghiên cứu: dịch vụ phi tín dụng của ngân hàng thương mại.
Phạm vi nghiên cứu: Dịch vụ phi tín dụng tại Chi nhánh NHNo&PTNT
Thăng Long giai đoạn 2006 đến năm 2009.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn phối, kết hợp nhiều phương pháp bao gồm: Phương pháp luận
duy vật biện chứng, phương pháp luận duy vật lịch sử, phương pháp so sánh,
phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp kết hợp với hệ thống sơ đồ
bảng biểu để trình bày các nội dung lý luận và thực tiễn.
5. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về dịch vụ phi tín dụng của NHTM.
Chương 2: Thực trạng phát triển dịch vụ phi tín dụng tại Chi
nhánh NHNo&PTNT Thăng Long.
Chương 3: Giải pháp phát triển dịch vụ phi tín dụng tại Chi nhánh
NHNo&PTNT Thăng Long.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ PHI TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1Tổng quan về dịch vụ phi tín dụng của ngân hàng thương mại Tổng
quan về dịch vụ phi tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.1Khái quát về ngân hàng thương mại Khái quát về ngân hàng thương
mại
Ngân hàng thương mại là một trong những các tổ chức tài chính quan
trọng nhất của nền kinh tế. Các ngân hàng thương mại có thể được định nghĩa
qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế.
Tuy nhiên các yếu tố trên đang không ngừng thay đổi. Một cách tiếp cận thận
trọng đó là có thể xem xét ngân hàng trên phương diện những loại hình dịch
vụ mà chúng cung cấp. Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh
mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch
vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một
tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Các dịch vụ cơ bản của ngân hàng thương mại:
* Huy động vốn:
Huy động vốn là hoạt động tạo vốn quan trọng của các ngân hàng
thương mại. Là một trung gian tài chính, bằng các nghiệp vụ của mỡnh cỏc
ngân hàng thương mại thu hút, tập trung các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của
các cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp để tạo lập nguồn vốn và quản lý nguồn
vốn đó. Nguồn vốn của ngân hàng chủ yếu là để cho vay, đầu tư và một phần
được giữ lại dưới dạng tiền mặt, quỹ.
* Cho vay:
Cho vay là hình thức tín dụng mà trong đó ngân hàng cho người đi vay
vay một số tiền trong một khoảng thời gian nhất định, người đi vay có nghĩa
vụ hoàn trả gốc và lãi vay theo đúng thời hạn. Đây là một hoạt động chính
thường chiếm từ ẵ đến ắ giá trị tổng tài sản của ngân hàng. Hoạt động cho vay
bao gồm 3 nội dung chính: Cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng và tài trợ
dự án
* Mua bán ngoại tệ:
Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi,
mua bán ngoại tệ - một ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một
loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Trong thị trường tài chính ngày nay, mua
bán ngoại tệ thường chỉ do cỏc ngõn hàng lớn nhất thực hiện bởi những giao
dịch như vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu phải có trình độ chuyên
môn cao
* Bảo quản vật có giá:
Ngay từ thời Trung cổ, các ngân hàng đã bắt đầu thực hiện việc lưu trữ
vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản. Ngày nay,
nghiệp vụ bảo quản vật có giá trị cho khách hàng thường do phòng “Bảo
quản” của ngân hàng thực hiện, khách hàng sử dụng dịch vụ này sẽ trả phí
cho ngân hàng.
* Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán
Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ bảo quản
mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng. Thanh toán qua ngân
hàng đã mở đầu cho hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Ngoài các
tiện ích tạo ra sự an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí, thanh
toán qua ngân hàng đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh, nâng cao thu
nhập cho khách hàng và đặc biệt là nối liền khoảng cách địa lý giữa khách
hàng và đối tác của họ không chỉ trong phạm vi một quốc gia. Cùng với sự
phát triển mạng lưới, công nghệ nhiều thể thức thanh toán được thực hiện
như séc, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thư tín dụng, thanh toán điện tử, thanh
toán bằng thẻ…
* Quản lý ngân quỹ
Các ngân hàng thương mại mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các
doanh nghiệp và nhiều cá nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối liên hệ
chặt chẽ với nhiều khách hàng. Do có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và
khả năng trong việc thu ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng
dịch vụ quản lý ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi
cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm
thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách
hàng cần tiền mặt để thanh toán.
* Dịch vụ bảo lãnh
Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn, và
do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của khách hàng, nên ngân hàng rất có uy tín
trong việc bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang
thiết bị, phát hành chứng khoán, dự thầu…
* Cho thuê thiết bị trung và dài hạn (Leasing)
Các ngân hàng thương mại cho khách hàng kinh doanh quyền lựa chọn
thuê những thiết bị, máy móc, tài sản (thường chuyên dụng và có giá trị lớn)
thông qua các hợp đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho
khách hàng thuê. Cuối hợp đồng thuê khách hàng có thể mua lại thiết bị đó.
Hợp đồng cho thuê thường phải đảm bảo yêu cầu khách hàng phải trả tới hơn
2/3 giá trị của tài sản cho thuê.
* Dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán
Các ngân hàng thương mại bỏn cỏc dịch vụ môi giới chứng khoán, cung
cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác
mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. Trong một vài trường
hợp, các ngân hàng thương mại tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc môi giới
đầu tư chứng khoán.
* Dịch vụ uỷ thác và tư vấn
Do hoạt động chuyên nghiệp trong lĩnh vực tài chính tiền tệ các ngân hàng
có rất nhiều chuyên gia về quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh
nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ.
* Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm
Các ngân hàng thương mại bán bảo hiểm cho khách hàng, đảm bảo việc
hoàn trả trong trường hợp khách hàng chết, tàn phế, gặp rủi ro trong hoạt động,
mất khả năng thanh toán. Ngày nay hoạt động ngân hàng và hoạt động bảo hiểm
đã thâm nhập vào nhau, tạo ra nhiều dịch vụ đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
* Các dịch vụ khác
Bên cạnh các dịch vụ trờn, cỏc ngân hàng thương mại còn cung cấp các
dịch vụ đại lý, cung cấp các kế hoạch hưu trí, các dịch vụ tương hỗ và trợ cấp,
tài trợ các hoạt động của Chính phủ, cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và
ngân hàng bỏn buụn…
Ngày nay cùng với sự phát triển của công nghệ, cũng như nhu cầu của
khách hàng các danh mục dịch vụ của ngân hàng thương mại đang tăng lên
nhanh chóng. Có nhiều tiêu chí để phân loại các dịch vụ ngân hàng thương
mại. Chẳng hạn, phân theo đối tượng khách hàng, dịch vụ ngân hàng có thể
được chia ra thành 3 loại, đó là dịch vụ ngân hàng cho khách hàng cá nhân,
dịch vụ ngân hàng dành cho khách hàng doanh nghiệp và dịch vụ ngân hàng
dành cho các nhà xuất nhập khẩu. Trong luận văn này căn cứ vào sự chuyển
dịch quyền sử dụng vốn, các dịch vụ của ngân hàng thương mại được chia
thành dịch vụ tín dụng và dịch vụ phi tín dụng.
1.1.2Dịch vụ phi tín dụng của ngân hàng thương mại Dịch vụ phi tín
dụng của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm dịch vụ phi tín dụng của ngân hàng thương mại
Để làm rõ khái niệm dịch vụ phi tín dụng trước hết cần xác định rõ khái
niệm dịch vụ nói chung và dịch vụ ngân hàng thương mại nói riêng.
Khác với hàng hoá thông thường, dịch vụ là hàng hoá vô hình, việc cung
cấp dịch vụ và tiêu dùng dịch vụ diễn ra cùng một lúc và quá trình cung cấp
dịch vụ chỉ bắt đầu khi khách hàng có nhu cầu. Mỗi loại dịch vụ mang lại cho
người tiêu dùng một giá trị nào đó. Giá trị của dịch vụ gắn liền với lợi ích mà
người tiêu dùng dịch vụ nhận được. Như vậy dịch vụ cú cỏc đặc tính sau:
•Tính đồng thời, không thể tách rời: sản xuất và tiêu dùng dịch vụ xảy ra
đồng thời, không thể tách rời. Thiếu mặt này thì sẽ không có mặt kia;
•Tính chất không đồng nhất: không có chất lượng đồng nhất;
•Vô hình: không có hình hài rõ rệt. Không thể thấy trước khi tiêu dùng;
•Không lưu trữ được: không lập kho để lưu trữ như hàng hóa được
. Toàn thể những nhà cung cấp dịch vụ hợp thành khu vực thứ ba của nền
kinh tế. Có nhiều ngành dịch vụ như thương mại, du lịch, khách sạn, tài chính,
ngân hàng…
Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và
doanh nghiệp. Dịch vụ ngân hàng thương mại được hiểu là toàn bộ các hoạt
động mà một ngân hàng có thể tạo ra nhằm cung cấp làm thoả mãn nhu cầu
của khách hàng về dịch vụ tiền tệ, tài chính, góp phần trực tiếp hoặc gián tiếp
làm tăng thu nhập của ngân hàng. Với định nghĩa trên có thể hiểu tất cả các
hoạt động của ngân hàng thương mại nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng
đều là dịch vụ. Trong luận văn này các dịch vụ của ngân hàng thương mại
được phân thành hai loại dịch vụ tín dụng và dịch vụ phi tín dụng. Dịch vụ tín
dụng là dịch vụ ngân hàng cung cấp cho khách hàng nhằm đáp ứng nhu cầu
về vốn, tài sản để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, tiêu dùng hoặc đầu
tư của khách hàng. Theo quan điểm của tác giả, tín dụng là một quan hệ giao
dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên
kia sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền
hoặc tài sản cam kết hoàn trả gốc và lãi theo thời hạn đã được thoả thuận.
Trong quan hệ tín dụng có sự dịch chuyển quyền sử dụng vốn (dưới dạng tiền
mặt hoặc tài sản) tạm thời trong thời gian nhất định từ bên cho vay cho bên đi
vay. Khi hết thời hạn sử dụng bên đi vay phải hoàn lại cho bên cho vay, và
giá trị hoàn lại thường lớn hơn giá trị ban đầu. Như vậy, trong quan hệ tín
dụng các ngân hàng thương mại có thể đóng vai trò là bên đi vay thể hiện
dưới hình thức nhận tiền gửi của khách hàng, bán kỳ phiếu, trái phiếu…hoặc
bên cho vay thể hiện dưới hình thức cho vay, cho thuê tài chính, bảo lónh…
Hiện nay chưa có định nghĩa trực tiếp dịch vụ phi tín dụng của ngân
hàng thương mại là gì, tuy nhiên ta có thể định nghĩa dịch vụ phi tín dụng
thông qua dịch vụ tín dụng. Dịch vụ phi tín dụng là các dịch vụ mà ngân hàng
thương mại cung cấp cho khách hàng mà không phải là dịch vụ tín dụng. Hay
dịch vụ phi tín dụng là loại dịch vụ mà khi được ngân hàng thương mại cung
cấp cho khách hàng thì không làm phát sinh việc cấp và thu hồi vốn (tiền mặt
hoặc tài sản) đối với khách hàng. Các dịch vụ phi tín dụng của ngân hàng
thương mại mang lại nguồn thu nhập từ các khoản phí, hoa hồng, chênh lệch
giá hoặc chỉ nâng cao uy tín của ngân hàng.
1.1.2.2.Các dịch vụ phi tín dụng của ngân hàng thương mại
Các dịch vụ phi tín dụng của ngân hàng thương mại
* Dịch vụ thanh toán trong nước và quốc tế:
Một trong các vai trò lớn nhất của các ngân hàng thương mại là cung cấp
các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt cho nền kinh tế. Với các dịch vụ
này khách hàng không cần phải mang theo một lượng lớn tiền, cũng như
không cần phải đến tận nơi để thanh toán cho đối tác. Việc thanh toán qua hệ
thống ngân hàng đã cho phép thanh toán an toàn với chi phí hợp lý trên phạm
vi một quốc gia cũng như quốc tế, tạo điều kiện cho thương mại phát triển.
Ngày nay nhờ sự linh hoạt trong xử lý nghiệp vụ, dịch vụ thanh toán đã
được các ngân hàng thương mại cung cấp đến cả các khách hàng có tài khoản
tại ngân hàng và không có tài khoản tài ngân hàng. Các hình thức thanh toán
chủ yếu mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng bao gồm:
* Các hình thức thanh toán trong nước:
-Thanh toán bằng séc:
Thanh toán bằng séc:
Séc là lệnh viết vô điều kiện do chủ tài khoản phát hành để ngân hàng
hoặc định chế tài chính khác được phép thanh toán trả một số tiền có sẵn cho
người thụ hưởng là chính mình hoặc người thứ ba. Đây là phương tiện thanh
toán ra đời sớm nhất và vẫn là công cụ thanh toán phổ biến hiện nay.
-Thanh toán bằng uỷ nhiệm thu: Thanh toán bằng uỷ nhiệm thu:
Uỷ nhiệm thu là giấy đòi tiền do người thụ hưởng lập gửi ngân hàng để
uỷ nhiệm cho ngân hàng thu hộ tiền hàng hoá, dịch vụ đã cung ứng đối với
người mua hàng hoá dịch vụ trên cơ sở hợp đồng uỷ nhiệm thu đã thoả thuận
giữa ngân hàng và khách hàng từ trước.
- Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi: Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi:
Uỷ nhiệm chi là hình thức chủ tài khoản lập uỷ nhiệm chi theo mẫu của
ngân hàng để yêu cầu ngân hàng trích tiền từ tài khoản của mình trả cho
người thụ hưởng.
- Thanh toán bằng thẻ:
Thẻ thanh toán là một hình thức thanh toán không dùng tiền mặt mà chủ
thẻ có thể sử dụng để rút tiền mặt tại các ngân hàng đại lý, cỏc mỏy rút tiền tự
động, hoặc thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ tại các điểm chấp nhận thẻ. Dựa
vào tính chất về số dư trên tài khoản thẻ, người ta phân thành 2 loại thẻ: Thẻ
ghi nợ và thẻ tín dụng.
Thẻ ghi nợ là loại thẻ rất phổ biến. Đây là loại thẻ mà khách hàng nạp
tiền trước vào tài khoản thẻ để rút tiền hoặc thanh toán tài cỏc mỏy ATM
hoặc các cơ sở chấp nhận thẻ trong phạm vi số tiền có trên tài khoản thẻ. Mặc
dù thẻ ghi nợ có thể được đặt nhiều tên khác nhau tuỳ vào các ngân hàng
nhưng bản chất vẫn là ghi Có trước, ghi Nợ sau, tức là khách hàng chỉ được
sử dụng trong phạm vi số tiền mỡnh đó nạp vào thẻ. Vì vậy đối tượng sử dụng
thẻ ghi nợ rất rộng rãi.
Thẻ tín dụng là loại thẻ mà khách hàng có thể thanh toán vượt quá số
tiền đã nạp vào tài khoản thẻ. Số tiền vượt quá đó được coi như một món vay
của khách hàng đối với ngân hàng, do đó, thẻ tín dụng không là đối tượng
nghiên cứu trong phạm vi luận văn này.
Để đáp ứng yêu cầu thanh toán của khách hàng, các ngân hàng thương
mại phải thiết lập và tham gia nhiều hệ thống thanh toán giữa các ngân hàng
nhằm đẩy nhanh tốc độ thanh toán đồng thời đảm bảo an toàn tài sản của ngân
hàng cũng như khách hàng. Hiện nay thanh toán giữa các ngân hàng chủ yếu
thông qua các hệ thống thanh toán sau:
- Thanh toán qua ngân hàng nhà nước: Là hình thức thanh toán vốn,
điều hoà kinh doanh giữa các ngân hàng thương mại, thông qua tài khoản của
các ngân hàng thương mại mở tại ngân hàng nhà nước. Đây là hình thức cổ
điển nhất trong số các phương thức thanh toán giữa các ngân hàng. Hiện nay
thanh toán qua ngân hàng nhà nước chủ yếu được thực hiện qua bù trừ điện tử
liên ngân hàng thay cho bù trừ giấy trước đây (lập chứng từ giấy, giao nhận
chứng từ giấy). Việc truyền nhận thông tin bằng file qua hệ thống mạng giúp
cho tốc độ xử lý nhanh, chính xác và an toàn.
- Thanh toán song biên: Là hình thức thanh toán bằng cách mở tài
khoản tiền gửi tại ngân hàng khác. Hình thức thanh toán này được áp dụng
trong trường hợp các ngân hàng khác hệ thống có giao dịch khá thường
xuyên với nhau.
-Thanh toán điện tử nội bộ: Là hình thức thanh toán được thực hiện giữa
các ngân hàng trong cùng một hệ thống ngân hàng. Mỗi một hệ thống ngân
hàng đều cú riờng một hệ thống thanh toán điện tử nội bộ để thực hiện việc
thanh toán của khách hàng giữa các chi nhánh khác nhau trong hệ thống.
Thanh toán điện tử nội bộ: Là hình thức thanh toán được thực hiện giữa
các ngân hàng trong cùng một hệ thống ngân hàng. Mỗi một hệ thống ngân
hàng đều có riêng một hệ thống thanh toán điện tử nội bộ để thực hiện việc
thanh toán của khách hàng giữa các chi nhánh khác nhau trong hệ thống. Hệ
thống này giúp cho hoạt động thanh toán của ngân hàng nhanh, an toàn, đồng
thời giúp hội sở chính có thể điều hoà vốn giữa các chi nhánh.
*Các hình thức thanh toán quốc tế
-Chuyển tiền: Đây là hình thức thanh toán mà người mua yêu cầu ngân
hàng phục vụ mỡnh trớch một số tiền nhất định để trả cho người bán vào một
thời điểm nhất định (có thể trả trước, trả sau hoặc trả một phần trước). Để
thực hiện chuyển tiền thì ngân hàng chuyển tiền phải thông qua đại lý của
mình tại nước ngoài. Phương thức chuyển tiền có thể thực hiện bằng hai cách:
Chuyển tiền bằng điện, chuyển tiền bằng thư.
Chuyển tiền: Đây là hình
thức thanh toán mà người mua yêu cầu ngân hàng phục vụ mình trích một số
tiền nhất định để trả cho người bán vào một thời điểm nhất định (có thể trả
trước, trả sau hoặc trả một phần trước). Để thực hiện chuyển tiền thì ngân
hàng chuyển tiền phải thông qua đại lý của mình tại nước ngoài. Phương thức
chuyển tiền có thể thực hiện bằng hai cách: Chuyển tiền bằng điện, chuyển
tiền bằng thư.
-Nhờ thu: Là hình thức thanh toán mà trong đó người bán sau khi giao
hàng cho người mua sẽ tiến hành ký phát hối phiếu nhờ ngân hàng thu hộ tiền
ở người mua. Phương thức nhờ thu gồm nhờ thu phiếu trơn và nhờ thu kèm
chứng từ. Nhờ thu: Là hình thức thanh toán mà trong đó người bán sau khi
giao hàng cho người mua sẽ tiến hành ký phát hối phiếu nhờ ngân hàng thu hộ
tiền ở người mua. Phương thức nhờ thu gồm nhờ thu phiếu trơn và nhờ thu
kèm chứng từ.
Trong các phương thức thanh toán quốc tế, phương thức tín dụng chứng
từ là phương thức được sử dụng phổ biến nhất, nó đảm bảo quyền lợi cho cả
người xuất khẩu và người nhập khẩu. Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả
phương thức tín dụng chứng từ được xếp vào dịch vụ tín dụng.
* Dịch vụ kinh doanh ngoại tệ
Là một trong những dịch vụ đầu tiên được ngân hàng thực hiện, kinh
doanh ngoại tệ một mặt hỗ trợ cho hoạt động của khách hàng, tạo nguồn thu
cho ngân hàng từ chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán, mặt khác thu hút
khách hàng giao dịch thúc đẩy các dịch vụ ngân hàng khác phát triển như
thanh toán, cho vay, huy động vốn, tư vấn Ngày nay cùng với sự phát triển
của các công cụ tài chính phái sinh, dịch vụ mua bán ngoại tệ có một vai trò
to lớn đó là cung cấp các công cụ nhằm hạn chế rủi ro tỷ giá cho các nhà xuất
nhập khẩu và cả chính ngân hàng như hợp đồng mua bán ngoại tệ giao ngay,
hợp đồng mua bán ngoại tệ kỳ hạn, hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn.
Dịch vụ mua bán ngoại tệ phục vụ khách hàng thường được các ngân
hàng chia thành ba mảng. Dịch vụ mua ngoại tệ phục vụ các nhà nhập khẩu,
dịch vụ bán ngoại tệ hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu, và dịch vụ mua bán
ngoại tệ phục vụ nhu cầu của khách hàng vãng lai như du lịch, chữa bệnh ở
nước ngoài…
Đối với dịch vụ bán ngoại tệ, thông qua mạng lưới các ngân hàng đại lý
ở nước ngoài, các ngân hàng thương mại thường không cung ứng tiền mặt
ngoại tệ trực tiếp cho khách hàng mà thực hiện giao dịch thanh toán quốc tế
theo nội dung hợp đồng khách hàng đã ký kết với đối tác nước ngoài. Đối với
dịch vụ mua ngoại tệ, ngân hàng trực tiếp thu tiền mặt ngoại tệ hoặc mua
chuyển khoản từ tài khoản của khách hàng.
Tuỳ theo chính sách quản lý ngoại hối của mỗi quốc gia có thể là thắt
chặt hay nới lỏng mà các ngân hàng thương mại có thể đưa ra các tiện ích của
dịch vụ mua bán ngoại tệ cho khách hàng. Với xu hướng quốc tế hoá ngày
càng cao, các quan hệ giao dịch kinh tế, dân sự mang tính chất quốc tế hoá
diễn ra ngày càng đa dạng, nhu cầu mua bán, chuyển đổi ngoại tệ của khách
hàng sẽ ngày một tăng lên.
* Dịch vụ môi giới và đầu tư chứng khoán
Các ngân hàng thương mại thực hiện nghiệp vụ môi giới trung gian là
loại môi giới chuyên mua bán chứng khoán theo lệnh của khách hàng để
hưởng hoa hồng. Có hai loại môi giới trung gian:
Môi giới toàn dịch vụ tức là ngân hàng có thể cung cấp đầy đủ các dịch
vụ có liên quan đến chứng khoán cho khách hàng như: đại diện cho khách
hàng của mình để thương lượng mua bán chứng khoán sao cho có lợi cho thân
chủ hoặc thay mặt cho khách hàng giải quyết mọi vấn đề có liên quan tuỳ theo
sự uỷ nhiệm của khách hàng như quyết đoán trong việc mua bán chứng khoán
hộ cho họ mà không cần phải thông báo cho họ biết là đã mua và bán chứng
khoán cho ai.
Môi giới bán phần dịch vụ là ngân hàng chỉ cung cấp một số ít dịch vụ
chủ yếu là thương lượng mua bán chứng khoán hộ khách hàng.
Đối với loại hình dịch vụ này khách hàng sẽ tránh được rủi ro mua bán
chứng khoán giả mạo, và được hưởng chênh lệch giá mua bán chứng khoán, còn
ngân hàng sẽ hưởng phí hoa hồng và lợi nhuận từ việc mua bán chứng khoán.
* Dịch vụ bảo quản vật có giá
Cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư, các hợp đồng bảo hiểm, các chứng thư
tài sản, di chúc và các đồ quý khác có thể gửi ở ngân hàng để bảo quản.
Những thứ này có thể được bảo quản theo phương thức mở, trong đó biên lai
sẽ ghi chi tiết nhưng gì được giữ, hoặc là trường hợp một chiếc hộp, một va li
khoỏ kớn hoặc một phong bì giỏn kớn được gửi tại ngân hàng và ngân hàng
sẽ không thể biết bên trong cú gì.
Ở một số ngân hàng còn cung cấp dịch vụ ký gửi, theo đó khách hàng có
thể thuờ riờng một khoang trong một chiếc két được thiết kế đặc biệt.
Khi khách hàng gửi vào ngân hàng các vật có giá hoặc chứng khoán để
bảo quản thì sẽ phát sinh một hợp đồng gửi đồ, theo đó ngân hàng sẽ có trách
nhiệm sử dụng các biện pháp để bảo đảm an toàn vật được bảo quản, còn
khách hàng sẽ phải trả phí cho ngân hàng.
* Dịch vụ tư vấn tài chính
Dịch vụ tư vấn tài chính là việc ngân hàng cung cấp cho khách hàng của
họ những lời khuyên tốt nhất, những hiểu biết sâu sắc nhất về lĩnh vực tiết
kiệm và đầu tư. Nhờ những lời khuyên có chất lượng của ngân hàng mà khách
hàng có được những thông tin đáng tin cậy, chính xác, dựa vào đó họ có cơ sở
để dự đoán được những diễn biến của tình hình kinh tế xã hội. Dịch vụ này
giúp khách hàng có những quyết định tối ưu và kịp thời trong đầu tư hoặc
trong kinh doanh, từ đó giảm thiểu được rủi ro và đạt được lợi nhuận tối đa.
Đối với ngân hàng, ngoài việc thu phí từ khách hàng, ngân hàng còn mở rộng
khách hàng, củng cố, tăng cường vị trí và uy tín.
Trên cơ sở yêu cầu của khách hàng, các ngân hàng thương mại hiện nay
đã cung cấp nhiều dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng, từ khâu chuẩn bị về thuế
và kế hoạch tài chính cho các cá nhân đến tư vấn về các cơ hội thị trường
trong nước cho các khách hàng. Theo quy định tại Nghị định số 49/2000/NĐ-
CP ngày 12/9/2000 về tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại, các
ngân hàng thương mại Việt Nam được tư vấn tài chính, tiền tệ cho khách
hàng dưới hình thức trực tiếp tư vấn cho khách hàng hoặc thành lập công ty
trực thuộc theo quy định của pháp luật.
* Dịch vụ bảo hiểm
Các ngân hàng cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho tất cả các khách hàng
thông qua các công ty con hoặc thông qua các nhà môi giới bảo hiểm của
mình. Bên cạnh các sản phẩm bảo hiểm đặc biệt cho các doanh nghiệp như
bảo hiểm tổn thất lợi nhuận ( bảo hiểm về hoả hoạn, trộm cắp, lũ lụt…), bảo
hiểm tín dụng, bảo hiểm trách nhiệm của chủ hóng…,cỏc ngân hàng cũn cú
bảo hiểm dành cho khách hàng cá nhân như bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm lữ
hành, bảo hiểm những đồ vật trong nhà…
* Dịch vụ ngân hàng trực tuyến
Với sự phát triển của công nghệ mạng ngày nay các khách hàng của
ngân hàng có thể sử dụng dịch vụ ngân hàng ngay tại nhà mình thông qua
mạng Internet hay mạng điện thoại. Sử dụng hệ thống này một khách hàng có
tài khoản có thể gửi thông tin vào máy tính của ngân hàng thông qua mạng
Internet hoặc qua hệ thống SMS. Theo cách này các giao dịch ngân hàng có
thể thực hiện 24/24 giờ, suốt 7 ngày trong tuần. Dịch vụ này thường gồm:
- Cập nhật số dư
- Xem sao kê giao dịch tài khoản
- Thực hiện chuyển tiền giữa các tài khoản khác nhau của khách hàng.
- Thanh toán một số hoá đơn có độ chuẩn hoá cao như tiền điện, tiền
nước, phí bảo hiểm, mua thẻ điện thoại…
Để sử dụng dịch vụ này, mỗi chủ tài khoản đều phải mở mã số an toàn
riêng trước khi thực hiện giao dịch.
Có thể nói cùng với sự phát triển của công nghệ, của các quan hệ kinh tế,
thương mại, danh mục các dịch vụ phi tín dụng mà các ngân hàng thương mại
cung cấp đang tăng lên từng ngày. Mọi liệt kê danh mục các dịch vụ phi tín
dụng đều không thể đầy đủ. Trên đây chỉ là một số dịch vụ phi tín dụng rất phổ
biến mà nhiều ngân hàng thương mại trên thế giới đã và đang khai thác có hiệu
quả. Vậy vấn đề đặt ra là các ngân hàng thương mại Việt Nam phải phát triển
các dịch vụ phi tín dụng như thế nào để thu hút đông khách hàng giao dịch, gia
tăng lợi nhuận, giảm thiểu rủi ro và nâng cao vị thế của ngân hàng?
1.2 Phát triển dịch vụ phi tín dụng của ngân hàng thương mại
1.2.1Khái niệm phát triển dịch vụ phi tín dụng của ngân hàng thương mại
Khái niệm phát triển dịch vụ phi tín dụng của ngân hàng thương mại
Theo quan điểm triết học, phát triển là một quá trình được cụ thể hóa
bằng biểu đồ hình trôn ốc. Vạn vật vận động theo hình trôn ốc. Hình trôn ốc
triết học có đỉnh đặt trên mặt đất, đáy hướng lên trời. Hình trôn ốc là hình vẽ
diễn ý rằng mỗi vận động trong vạn vật đều xuất phát từ một điểm để sau đó
phát triển rộng ra, cao lên, cả về lượng lẫn chất.
Phát triển dịch vụ phi tín dụng của các ngân hàng thương mại là việc mở
rộng số lượng và nâng cao chất lượng các dịch vụ phi tín dụng của ngân hàng
nhằm thoả mãn ngày càng tốt nhu cầu của khách hàng, trên cơ sở đảm bảo các
mục tiêu của ngân hàng. Như vậy phát triển dịch vụ phi tín dụng của các ngân
hàng được đề cập trên hai khía cạnh:
Thứ nhất: Nghiên cứu, khai thác, mở rộng và tăng thêm các loại hình
dịch vụ mà ngân hàng hiện chưa cung cấp.
Hiện nay danh mục các loại hình dịch vụ đang tăng lên nhanh chóng,
nhiều loại hình dịch vụ mới như giao dịch qua Internet, thẻ thông minh đang
được mở rộng và phát triển. Các loại hình dịch vụ mới như dịch vụ bảo hiểm,
kinh doanh chứng khoán đang được nhiều ngân hàng nghiên cứu triển khai
nhằm phục vụ yêu cầu của khách hàng.
Thứ hai: Tăng cường nâng cao chất lượng dịch vụ mà ngân hàng hiện
đang cung cấp.
Trong thực tế, khách hàng thuộc lĩnh vực dịch vụ thì nhạy cảm đối với
chất lượng dịch vụ và sự chuyển giao dịch vụ hơn trong lĩnh vực sản suất vì
khách hàng luôn tiếp xúc với nhõn viên trực tiếp phục vụ tại quầy. Và những
tiếp xúc đó (hay cũn gọi là khoảnh khắc sự thật - moments of truth) sẽ quyết
định việc khách hàng có trở lại giao dịch với ngõn hàng hay không hoặc sẽ
chuyển sang giao dịch với một ngõn hàng khác. Đối với dịch vụ thì chất
lượng dịch vụ được đo bằng các tiện ích, bằng độ thoả mãn mà người tiêu
dùng dịch vụ nhận được. Một ngõn hàng chú trọng việc nõng cao chất lượng
dịch vụ thì cần phải theo dừi, và xem như mục tiêu cần đạt và chuẩn so sánh,
các vấn đề có liên quan đến khách hàng như sau:
- Thời gian xử lý các dịch vụ phi tín dụng như mở tài khoản mới, thẻ
ATM, chuyển tiền, chi trả séc…
- Thời gian chờ đợi như máy móc chạy chậm hoặc bị sự cố phải sửa chữa
và thời gian xếp hàng.
- Thư hoặc lời khiếu nại của khách hàng
- Năng lực và tớnh cách thõn thiện của nhõn viên
- Sự chớnh xác và kịp thời của bảng thông báo và hồ sơ giao dịch
- Các khoản phí phù hợp
- Sự sốt sắng trong việc đáp ứng các yêu cầu của khách hàng như trong
việc trả lời điện thoại, chuông đổ mấy lần mới nhấc máy, chuyển tiếp cuộc
gọi mấy lần thì người gọi mới gặp được người cần gọi.
- Số tài khoản và khách hàng không giao dịch với ngân hàng nữa. Các chỉ
số này cần được cập nhật, đánh giá một cách đều đặn. Đồng thời cần đảm bảo tất