Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

BỆNH HẠI LÚA BỆNH THỐI BẸ doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.48 KB, 3 trang )

BỆNH HẠI LÚA -
BỆNH THỐI BẸ
(Sarocladium oyzae (Sawada) Gums và Hawksworth)
Bệnh thối bẹ do nấm gây nên, xuất hiện và gây hại trên bẹ lá đòng vào
thời kỳ sắp trỗ bông. Bệnh làm cho bông lúa cũng như hạt lúa bị ngắn
lại. Bị bệnh sớm cây lúa có bông trỗ không thoát, đồng thời hạt lúa bị
lép và biến màu.
Triệu chứng bệnh: ban đầu xuất hiện các vết bầu dục dài hoặc có hình
dáng không nhất định dài 0,5 – 1,5 cm. Ở giữa vết màu xám có viền
màu nâu hay toàn vết bệnh có màu nâu xẫm. Vết bệnh lớn dần, nối liền
nhau và lan ra cả bẹ lá. Bệnh nặng làm bông lúa bị nghẽn, trỗ không
thoát khỏi mặt trong của bẹ lá đòng, lá lúa chuyển màu vàng, bông
không trỗ thoát có bám đầy nấm màu trắng; còn bông trỗ được thì một
phần hạt bị lửng. Cây đã bị bệnh này vẫn có thể bị sâu đục thân hoặc
các vết thương khác ở gần gốc. Bệnh này cũng có thể phát sinh trên cây
đã bị nhiệm các bệnh viurus.
Điều kiện phát sinh: bệnh hại nặng trong điều kiện ẩm độ, nhiệt độ cao,
vì vậy chủ yếu hại năng trong vụ mùa. Các giống lúa thuần Trung
Quốc, lúa nếp, các giống: CR 203, Bao thai… đều là các giống bị
nhiễm bệnh.

Bệnh trên bẹ lá đòng


Bông lúa bị bệnh
Biện pháp phòng trừ:
● Pha 1 trong các loại thuốc sau với 20 lít nước phun cho 1 sào:
+ Hynosan 40EC, liều lượng 50-70 cc.
+ Tilsupec 300ND, liều lượng 19-20 cc.
+ Anvil 5SC, sử dụng 25-30 cc.
Điều kiện thuận lợi cho bệnh phát sinh nặng phải phun kép 2 lần, lần


hai cách lần một khoảng 6-7 ngày.

Ruộng lúa bị bệnh khô vằn

×