Phòng tránh hội chứng Rubella bẩm sinh
Trong khi các bệnh lý nhiễm trùng do các vi khuẩn gây
ra ngày càng giảm dần nhờ các thành tựu y học, đặc
biệt là tiêm chủng thì các bệnh lý do virut gây ra vẫn
còn rất ít biện pháp khống chế nên đang ngày càng trở
nên phổ biến.
Nhiều bệnh do virut tuy không nguy hiểm khi xảy ra ở
trẻ lớn và người trưởng thành, nhưng lại rất nguy hiểm
nếu xảy ra trong thời kỳ bào thai và sơ sinh. Trong số
những bệnh đó là bệnh do virut Rubella và
cytomegalovirus (CMV) gây nên, đặc biệt là hội chứng
Rubella bẩm sinh (HCRBLBS).
Virut Rubella
Rubella là một virut có nhân RNA thuộc họ togavirus.
Người là cơ thể nhiễm duy nhất của virut này. Nhiễm
Rubella sẽ gây ra hội chứng giả cúm kèm theo phát ban sau
2-3 tuần ủ bệnh. Người bệnh cảm thấy mệt mỏi, đau mỏi
cơ, đau khớp, phát ban từ mặt lan xuống toàn thân và chân
tay trong 2-3 ngày, kèm theo nổi hạch nhỏ ở vùng sau tai,
vùng chẩm và cạnh cổ. Virut biến mất khỏi cơ thể sau
khoảng 7 ngày kể từ khi phát ban. Khoảng 1/3 người nhiễm
virut này không có triệu chứng gì và thường có khoảng 10-
20% dân chúng không có miễn dịch tự nhiên do chưa bị
nhiễm Rubella. Bệnh ít gây hậu quả đáng kể trên lâm sàng,
trừ khi xảy ra ở phụ nữ đang mang thai trong nửa đầu thai
kỳ, vì sẽ gây sảy thai, thai chết lưu hoặc HCRBLBS ở trẻ.
Bệnh xảy ra quanh năm, lây lan qua đường hô hấp từ nguồn
lây là những người nhiễm virut không triệu chứng và ở trẻ
em nhiễm virut từ trong bụng mẹ vì ở những trẻ này virut
Rubella có thể tồn tại nhiều tháng sau sinh. Ở những nước
không tiêm phòng, bệnh xuất hiện có tính chu kỳ 6-9 năm,
dưới dạng các vụ dịch nhỏ tản phát ở những nơi sống đông
đúc như quân đội, trường học (chủ yếu ở trẻ lứa tuổi mẫu
giáo lớn và tiểu học), khu công nghiệp chế xuất, trại nuôi
dưỡng. Miễn dịch tự nhiên xuất hiện dưới dạng IgM xuất
hiện sớm trong những tuần đầu nhiễm Rubella và tồn tại
vài tháng và dưới dạng IgG bền vững suốt đời.
Hội chứng Rubella bẩm sinh
Những phụ nữ chưa có miễn dịch tự nhiên do chưa từng
nhiễm Rubella nếu khi mang thai bị nhiễm Rubella thì con
của họ nếu sinh ra sống sẽ có rất nhiều nguy cơ bị
HCRBLBS. Đây là nguyên nhân phổ biến nhất của điếc
bẩm sinh, mù bẩm sinh, bệnh tim hoặc bệnh não bẩm sinh.
Các bệnh lý bẩm sinh này thường xảy ra khi mẹ nhiễm
Rubella trong 20 tuần đầu thai kỳ. Tuy nhiên người ta thấy
bệnh tim bẩm sinh chỉ xảy ra khi mẹ nhiễm Rubella trong 8
tuần đầu thai kỳ. Tuy còn ống động mạch là bệnh hay gặp
nhất, nhưng trẻ cũng có thể bị các bệnh lý tim mạch bẩm
sinh khác như hẹp van hoặc thân động mạch phổi, hẹp các
mạch máu khác. Đầu bé là chứng bệnh rất phổ biến ở trẻ bị
HCRBLBS. Ngoài ra, có thể có đến 26% trẻ bị HCRBLBS
sẽ bị chậm phát triển tâm thần, 18% có bất thường về hành
vi, 12% có di chứng thần kinh hoặc bất thường tại các hạch
nền và có đến 6% sẽ bị bệnh tự kỷ. Các bệnh lý về mắt do
Rubella bẩm sinh bao gồm: đục thuỷ tinh thể hai bên ở 1/3
số trẻ và có thể có thiên đầu thống mạn tính kèm theo, mắt
bé, viêm màng bồ đào dạng “muối tiêu”. Gần đây người ta
thấy rằng ở trẻ bị Rubella bẩm sinh dù lúc nhỏ không có
biểu hiện gì, nhưng về sau có thể xuất hiện đái tháo đường
phụ thuộc insulin (týp I), suy hoặc cường tuyến giáp và
viêm chất trắng và chất xám não tiến triển.
Tổn thương mắt ở trẻ nhiễm
Rubella bẩm sinh.
Đa số trẻ bị HCRBLBS do mẹ chưa được miễn dịch nên
nhiễm Rubella trong khi mang thai, nhưng cũng có một số
ít trường hợp do mẹ tái nhiễm Rubella trong khi mang thai.
Nếu mẹ nhiễm Rubella trong quý đầu mang thai sẽ bị sảy
thai, thai chết lưu hoặc HCRBLBS nhưng cũng có thể thai
hoàn toàn không bị ảnh hưởng. Virut cũng có thể gây viêm
bánh rau có hoặc không kèm theo tổn thương bào thai. Từ
tuần 12 đến tuần 28 của bào thai, rau là hàng rào bảo vệ
hoàn hảo cho thai nhi, nhưng trước và sau giai đoạn trên,
rau thai không ngăn được virut, đặc biệt là những tuần cuối
trước sinh. Tuổi thai vào thời điểm mẹ nhiễm Rubella là
yếu tố có tính quyết định thai nhi có bị nhiễm virut và bị
bệnh lý hay không. Mức độ bệnh lý giảm dần khi bào thai
bị nhiễm Rubella vào thời điểm tuổi thai tăng dần. Tuy
không có biểu hiện tổn thương bẩm sinh, nhưng việc nhiễm
virut mạn tính sẽ ảnh hưởng đến sự phân chia tế bào của
một số tổ chức, vì vậy nhiều trẻ lúc mới sinh không có biểu
hiện bất thường nhưng nhiều năm sau lại có di chứng.
Nhiễm Rubella trong thời kỳ mẹ mang thai sẽ có nguy cơ
rất cao sinh ra con mang dị tật bẩm sinh, có thể là xuất hiện
ngay khi đẻ nhưng cũng có thể xuất hiện về sau. Ở Việt
Nam, các thầy thuốc nhi khoa, nhãn khoa và tai mũi họng
đã chứng kiến các bệnh lý đau lòng do nhiễm Rubella bẩm
sinh nên đều thấy rõ nhu cầu cần khống chế bệnh này. Tuy
nhiên, khi trẻ đã ra đời với HCRBLBS, giải quyết các hậu
quả một cách thụ động, rất tốn kém nhưng hiệu quả không
đáng kể. Do vậy, biện pháp tốt nhất để phòng tránh mẹ bị
nhiễm Rubella khi mang thai là phải có kế hoạch tiêm
phòng bệnh trước một tháng trước khi mang thai. Khi đã
mang thai, đặc biệt ở giai đoạn nửa đầu của thai kỳ cần
tránh tiếp xúc với người nhiễm bệnh để tránh lây lan và
mắc bệnh.
Bệnh Rubella (hay còn được gọi bằng
tên thông thường là bệnh sởi Ðức) là
một bệnh do một loại virut có tên là
Rubella gây hội chứng giả cúm kèm
theo phát ban. Bệnh ít gây hậu quả
đáng kể trên lâm sàng, trừ khi xảy ra ở
phụ nữ đang mang thai trong nửa đầu
thai kỳ, vì sẽ gây sảy thai, thai chết lưu
và HCRBLBS ở trẻ gồm các bệnh lý
bẩm sinh như mù bẩm sinh, tim bẩm
sinh, điếc bẩm sinh gây tàn phế và để
lại hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe
suốt đời cho trẻ và gánh nặng lớn cho
gia đình và xã hội. Hằng năm, trên thế
giới ước tính có khoảng 240.000 trẻ
sinh ra có HCRBLBS. Nghiên cứu ở
các nước phát triển cho thấy, Chương
trình tiêm chủng đã hạn chế được sự
xuất hiện HCRBLBS. Tổ chức Y tế Thế
giới (WHO) đang phấn đấu xóa bỏ
HCRBLBS trên toàn cầu. Nhiều nước
đang phát triển cũng đang xây dựng
các chương trình tiêm chủng phòng
Rubella và loại bỏ HCRBLBS.
PGS.TS.BS. Nguyễn Văn Bàng
(Phó trưởng khoa Nhi, Bệnh viện Bạch Mai)