Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Khuyến cáo trong điều trị sốt rét pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.78 KB, 6 trang )

Khuyến cáo trong điều trị sốt rét

Khảo sát thực tế tình hình tại một số cơ sở y tế ở tuyến đầu,
khi phát hiện, chẩn đoán và điều trị bệnh sốt rét; các cơ sở
điều trị chỉ biết thực hiện theo phác đồ thuốc quy định. Nhiều
trường hợp không biết rõ việc điều trị thành công hay thất bại
vì không theo dõi kết quả đúng quy trình đã được khuyến cáo.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã xây dựng phương pháp đánh giá
đáp ứng điều trị áp dụng cho tất cả các cơ sở điều trị bệnh sốt rét.
Phương pháp này chỉ cần theo dõi kết quả điều trị bệnh nhân trong
thời gian 14 ngày vì hầu hết người bệnh sốt rét đều sống trong
vùng sốt rét lưu hành, có sự lây truyền tại chỗ. Việc theo dõi kết
quả điều trị với mục đích đánh giá đáp ứng điều trị để phân loại
điều trị thất bại sớm (ETF: Early Treatment Failure), điều trị thất
bại muộn (LTF: Late Treatment Failure) và điều trị có kết quả, có
nghĩa là điều trị thành công (ACR: Adequate Clinical Response).
Nếu không thực hiện quy trình đánh giá này, không thể nào biết
được việc điều trị thành công hay thất bại để có biện pháp xử trí bổ
sung một cách kịp thời, hiệu quả nhằm giúp bệnh nhân chóng khỏi
bệnh và chủ động ngăn ngừa sốt rét thể thông thường có thể
chuyển thành sốt rét thể ác tính gây hậu quả tử vong.
Điều trị thất bại sớm
Đánh giá xác định điều trị thất bại sớm (ETF) nếu trong 3 ngày đầu
tiên điều trị qua quá trình theo dõi, bệnh nhân xuất hiện một trong
những dấu hiệu sau:
- Xuất hiện những dấu hiệu nguy hiểm hoặc có biểu hiện sốt rét
nặng vào ngày D1, D2 hoặc D3 và còn ký sinh trùng trong máu
trên lam máu xét nghiệm. Ngày D0 là ngày bắt đầu điều trị sau khi
phát hiện, chẩn đoán bệnh.
- Mật độ ký sinh trùng sốt rét trong máu ở ngày D2 cao hơn ngày
D0.


- Mật độ ký sinh trùng sốt rét trong máu vào ngày D3 bằng hoặc
lớn hơn 25% mật độ ký sinh trùng sốt rét ở ngày D0.

Điều trị sốt rét tại Viện Các bệnh truyền
nhiễm và nhiệt đới Quốc gia.
Ảnh: NH
Điều trị thất bại muộn
Đánh giá xác định điều trị thất bại muộn (LTF) nếu trong thời gian
theo dõi từ ngày D4 đến ngày D14, bệnh nhân xuất hiện một trong
những dấu hiệu mà trước đó không phát hiện được một dấu hiệu
nào của việc điều trị thất bại sớm (ETF) như:
- Xuất hiện những dấu hiệu nguy hiểm và có biểu hiện sốt rét nặng
sau ngày D3, có ký sinh trùng sốt rét trong máu trên lam máu xét
nghiệm cùng chủng loại ký sinh trùng sốt rét với ngày D0.
- Bệnh nhân quay lại khám không đúng quy định tư vấn, hướng
dẫn theo dõi, quản lý điều trị của nhân viên y tế vì tình trạng lâm
sàng của người bệnh bị xấu đi và khi xét nghiệm máu phát hiện có
ký sinh trùng sốt rét.
- Có ký sinh trùng sốt rét trong máu xuất hiện vào bất kỳ ngày nào
theo quy định của việc xét nghiệm máu vào ngày D7 hoặc ngày
D14. Ký sinh trùng sốt rét phát hiện phải có cùng chủng loại ký
sinh trùng sốt rét với ngày D0.
Điều trị có kết quả
Đánh giá xác định điều trị có đáp ứng, còn gọi là điều trị có kết
quả hay điều trị thành công (ACR) khi bệnh nhân không có một
dấu hiệu nào xuất hiện xác định điều trị thất bại sớm (ETF) hoặc
điều trị thất bại muộn (LTF) và sạch ký sinh trùng trong suốt thời
gian theo dõi.
Khuyến cáo
Như vậy, để đánh giá xác định được việc điều trị thất bại sớm, điều

trị thất bại muộn và điều trị thành công; ngoài các triệu chứng bệnh
lý của bệnh nhân sốt rét cần theo dõi trên lâm sàng, các cơ sở y tế
phải thực hiện một bộ lam máu xét nghiệm tối thiểu theo dõi cho
người bệnh vào các ngày D0, D2, D3, D7 và D14. Ngoài ra, có thể
thực hiện thêm các lam máu xét nghiệm khác vào ngày trước khi
bệnh nhân xuất viện, ngày người bệnh quay trở lại không đúng thời
gian hướng dẫn hoặc có biểu hiện bệnh lý xấu đi.
Thực tế hiện nay, phần lớn các cơ sở y tế, kể cả cơ sở y tế tuyến
trên; trong hồ sơ bệnh án của bệnh nhân sốt rét thường chỉ có hai
lam máu, một lam máu xét nghiệm vào ngày D0 khi bệnh nhân vào
viện và một lam máu xét nghiệm vào ngày trước khi người bệnh
xuất viện. Các lam máu lấy vào các ngày khác như D2, D3, D7,
D14 hầu như không có y lệnh chỉ định nên xét nghiệm viên không
thực hiện, bỏ sót. Nếu không thực hiện đúng theo quy trình đã
được WHO khuyến cáo, các cơ sở y tế không thể xác định được
việc điều trị sốt rét thành công hay thất bại, chất lượng điều trị sẽ
bị hạn chế và không chủ động ngăn ngừa sốt rét ác tính xảy ra gây
tử vong do điều trị sốt rét thể thông thường không đáp ứng.
Một vấn đề cũng cần quan tâm, trong Hướng dẫn chẩn đoán và
điều trị bệnh sốt rét đã được Bộ Y tế ban hành, nếu không theo dõi
được việc điều trị thất bại sớm hoặc điều trị thất bại muộn thì
không thể áp dụng, sử dụng các loại thuốc điều trị thay thế (second
line) thay cho các loại thuốc điều trị ưu tiên (first line) như quy
định. Nói cách khác, muốn sử dụng các loại thuốc điều trị thay thế,
các cơ sở y tế phải chứng minh được việc dùng các loại thuốc điều
trị ưu tiên bị thất bại có tính khoa học, căn cứ vào dấu hiệu lâm
sàng và kết quả theo dõi bằng bộ lam máu xét nghiệm.
TTƯT.BS. Nguyễn Võ Hinh


×