Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Báo cáo tiến độ ngành Lâm nghiệp 2006-2010 part 2 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.26 MB, 28 trang )

Báo cáo tiến độ ngành Lâm nghiệp 2006-2010

31







Việt Nam nằm ở 102º 08' - 109º 28' kinh tuyến đông và 8º 02' - 23º 23' vĩ tuyến bắc,
trên bán đảo Đông Dương, ven biển Thái Bình Dương, có đường biên giới trên đất liền dài
4.550 km tiếp giáp với Trung Quốc ở phía Bắc, với Lào và Căm-pu-chia ở phía Tây; phía
Đông giáp biển Đông. Việt Nam có diện tích 331.688 km², bao gồm 327.480 km² đất liền và
hơn 4.200 km² biển nội thuỷ, với hơn 4.000 hòn đảo, bãi đá ngầm lớn nhỏ, gần và xa bờ, có
vùng nội thuỷ, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được xác định trên 1 triệu
km². Hệ sinh thái của Việt Nam giàu và đa dạng cao vào bậc nhất thế giới, với nhiều kiểu
rừng, đầm lầy, sông và những dải san hô tuyệt đẹp.
Việt Nam được chia thành 9 vùng sinh thái lâm nghiệp, đó là: vùng Tây Bắc, vùng Bắc
Trung Bộ, vùng Đông Bắc, vùng đồng bằng sông Hồng, vùng biển Bắc Trung bộ, vùng biển
Nam Trung bộ, vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam bộ, vùng Tây Nam bộ. Tuy nhiên, với
mục đích quản lý, dữ liệu được thu thập trên cơ sở 8 vùng, đó là vùng Tây Bắc, vùng Đông
Bắc, vùng đồng bằng sông Hồng, vùng biển Bắc Trung bộ, vùng biển Nam Trung bộ, vùng
Tây Nguyên, vùng Đông Nam bộ, vùng Tây Nam bộ.



Chương

Lâm nghiệp Việt Nam và
Chiến lược phát triển



2006
-
2020


2

Nguồn ảnh: Trần Hiếu Minh, TCLN, Bộ NN&PTNT

Chương 2. Lâm nghiệp Việt Nam và Chiến lược phát triển 2006-2020

Báo cáo tiến độ ngành Lâm nghiệp 2006-2010

32



2.1.1 Quản lý, bảo vệ, sử dụng và phát triển rừng
Việt Nam có tổng diện tích tự nhiên trên 33 triệu ha, trong đó diện tích đất quy hoạch
cho mục đích lâm nghiệp 16,24 triệu ha, được phân chia theo 3 loại như sau: đất quy hoạch
phát triển rừng đặc dụng: 2.199.342 ha, chiếm 13,5%; đất quy hoạch phát triển rừng phòng
hộ: 5.552.328 ha, chiếm 34,2%; đất quy hoạch phát triển rừng sản xuất: 8.495.823 ha, chiếm
52,3% (Chỉ thị số 38/2005/CT-TTg ngày 5/12/2005 của Thủ tướng Chính phủ). Diện tích đất
lâm nghiệp phân bố chủ yếu ở trên các vùng đồi núi của cả nước, đây cũng là nơi sinh sống
của 25 triệu người với nhiều dân tộc ít người, có trình độ dân trí thấp, phương thức canh tác
lạc hậu, kinh tế chậm phát triển và đời sống còn nhiều khó khăn.
Năm 1943, Việt Nam có 14,3 triệu ha rừng, độ che phủ là 43%. Đến năm 1990 chỉ còn
9,18 triệu ha, độ che phủ rừng 27,2%; thời kỳ 1980 - 1995, bình quân mỗi năm mất 110 nghìn
ha rừng tự nhiên. Tuy nhiên từ 1995 đến 2009, diện tích rừng của Việt Nam đã tăng liên tục

nhờ trồng rừng và những nỗ lực phục hồi rừng tự nhiên, bình quân mỗi năm tăng khoảng
282.600 ha (bình quân diện tích rừng tự nhiên tăng 148.900 ha/năm; diện tích rừng trồng tăng
133.700 ha/năm).
Năm 2010 cả nước đã hoàn thành chỉ tiêu theo Nghị quyết số 73/2006/QH11 ngày
29/11/2006 của Quốc hội về điều chỉnh chỉ tiêu, nhiệm vụ của Dự án trồng mới 5 triệu ha
rừng (5MHRP). Kết quả cụ thể như sau:
Bảng 1: Thực hiện so với các chỉ tiêu của 5MHRP đến cuối năm 2010.
Đã thực hiện (ha) Kế hoạch (ha) Tỷ lệ đạt được
Diện tích bảo vệ rừng 2.507.355

1.500.000

167%

Diện tích khoanh nuôi 922.768

803.000

115%

Diện tích trồng rừng mới 1.091.431

1.000.000

109%

Diện tích rừng đặc dụng 252.015

250.000


100,8%

Diện tích rừng sản xuất 839.416

750.000

111,9%

Nguồn: Cục Lâm nghiệp năm 2010

Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2009, diện tích rừng toàn quốc là 13.258.843 ha, trong
đó 10.339.305 ha rừng tự nhiên và 2.919.538 ha rừng trồng. Độ che phủ của rừng tăng từ
37% năm 2005 lên 39,1% năm 2009 với độ che phủ rừng bình quân tăng 0,4%/năm (Quyết
định số 2140/QĐ-BNN-TCLN ngày 09/8/2010 của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT).

2.1


Tổng quan lâm nghiệp Việt Nam
và định hướng phát triển

Chương 2. Lâm nghiệp Việt Nam và Chiến lược phát triển 2006-2020

Báo cáo tiến độ ngành Lâm nghiệp 2006-2010

33

Trong những năm gần đây tỷ lệ trồng rừng sản xuất tăng mạnh nhất là các tỉnh vùng
Đông Bắc bộ và Trung bộ, chủ yếu nhờ các chính sách cởi mở trong phát triển rừng. Hơn nữa
có nhiều tiến bộ trong công tác giống giúp tăng cao năng xuất rừng trồng, rút ngắn chu kỳ

kinh doanh, thị trường được khơi thông.
Bên cạnh đó, công tác trồng rừng trong thời gian qua cũng gặp không ít những khó
khăn, hạn chế. Điều kiện thời tiết khắc nghiệt, khô hạn kéo dài đã gây không ít khó khăn cho
công tác chuẩn bị cũng như tổ chức thực hiện trồng rừng. Vốn đầu tư theo yêu cầu của dự án
còn thiếu so với chỉ tiêu kế hoạch nhà nước. Qua 4 năm thực hiện Nghị quyết 73 của Quốc
hội 2006-2009 vốn đầu tư là 6.509.809 triệu đồng, chỉ đạt 44,5% so với kế hoạch (Báo cáo số
174/BC-CP ngày 22/11/2010 về tình hình thực hiện Nghị quyết của Quốc hội của Dự án
trồng mới 5 triệu ha rừng năm 2010). Diện tích trồng rừng phòng hộ tập trung chủ yếu ở vùng
núi cao, vùng sâu, vùng xa, độ dốc lớn, xa dân cư, phân tán trong điều kiện trồng rất khó
khăn, giá nhân công thấp.
Đến nay, toàn quốc có 4 mô hình quản lý rừng bền vững được phê duyệt. Trong thời
gian tới sẽ hoàn thành việc xây dựng 9 mô hình quản lý rừng bền vững theo chỉ đạo của Thủ
tướng Chính phủ tại văn bản số 455/TTg-NN ngày 20/04/2005. Hiện đang triển khai dự án thí
điểm về chứng chỉ rừng đối với 2 lâm trường Sơ Pai và Hà Nừng của tỉnh Gia Lai và mô hình
nhóm hộ tại tỉnh Quảng trị. Trong năm 2010, nhóm hộ tỉnh Quảng Trị đã đạt chứng chỉ FSC
cho 400 ha. Tháng 10/2010, Tổng công ty giấy Việt Nam là doanh nghiệp đầu tiên của Việt
Nam đã nhận chứng chỉ FSC cho hơn 6.000 ha rừng trồng gỗ nguyên liệu.
Song song với tốc độ khôi phục diện tích rừng trong thời gian qua, năng suất, chất
lượng rừng cũng ngày càng được cải thiện. Trữ lượng rừng từ năm 1995 đã có mức cải thiện
đáng kể, đặc biệt đối với rừng trồng. Tổng trữ lượng gỗ ước tính là 811,68 triệu m
3
(trữ lượng
rừng tự nhiên: 758,13 triệu m
3
(chiếm 93,4%); trữ lượng rừng trồng: 53,55 triệu m
3
(chiếm
6,6%) và khoảng 9 tỷ cây tre, nứa). Trữ lượng gỗ bình quân của rừng tự nhiên là 74/m
3
/ha và

rừng trồng là 23 m
3
/ha (Chương trình theo dõi đánh giá diễn biến tài nguyên rừng chu kỳ 3
(giai đoạn 2001-2005)). Trữ lượng rừng trồng toàn quốc năm 2005 tăng khoảng 39 triệu m
3
,
bình quân mỗi năm tăng 3,9 triệu m
3
.
Về sản lượng khai thác gỗ, những năm gần đây, khai thác đối với rừng tự nhiên khá hạn
chế, với hạn ngạch khai thác bình quân 200.000 m
3
/năm. Khai thác tập trung vào rừng trồng,
sản lượng khai thác gỗ từ 3,339 triệu m
3
năm 2006 tăng lên 4,156 triệu m
3
năm 2009 và dự
kiến năm 2010 là 4,9 triệu m
3
. Các mức sản lượng này cung cấp một khối lượng đáng kể
nguyên liệu cho công nghiệp giấy, mỏ, đồ mộc, dăm gỗ xuất khẩu và củi đun, góp phần giảm
sức ép vào rừng tự nhiên.
Việc thực hiện trách nhiệm quản lý nhà nước của các cấp về rừng và đất lâm nghiệp
được tiến hành theo Quyết định số 245/1998/QĐ-TTg ngày 25/11/1998 của Thủ tướng Chính
phủ. Các cấp ủy và chính quyền địa phương đã tập trung chỉ đạo công tác bảo vệ rừng, sử
dụng nhiều biện pháp như tổ chức các đợt truy quét lâm tặc, giải tỏa các tụ điểm phá rừng trái
phép, ngăn chặn chuyển đổi mục đích sử dụng đất lâm nghiệp ngoài quy hoạch, xử lý quyết
liệt hành vi vi phạm Luật Bảo vệ và Phát triển rừng. Các chủ trương chính sách và giải pháp
này đã phát huy hiệu quả trong ngăn chặn hành vi phá rừng trái phép và trong phòng cháy,

Chương 2. Lâm nghiệp Việt Nam và Chiến lược phát triển 2006-2020

Báo cáo tiến độ ngành Lâm nghiệp 2006-2010

34

chữa cháy rừng. Trong thời gian qua nhiều giải pháp về phòng cháy, chữa cháy rừng
(PCCCR) đã được triển khai đồng bộ từ Trung ương đến địa phương. Các cấp chính quyền
địa phương, các chủ rừng đã chủ động tổ chức thực hiện các biện pháp, phương án PCCCR,
nhiều vụ cháy rừng được phát hiện và chữa cháy kịp thời. Diện tích rừng bị mất do phá rừng
trái phép, vi phạm quy định về khai thác gỗ và lâm sản khác trong những năm qua đã giảm,
mức độ nghiêm trọng không lớn, chỉ xảy ra ở một số địa phương với quy mô nhỏ lẻ. Theo kết
quả thống kê của Cục Kiểm lâm, diện tích rừng thiệt hại do phá rừng trái phép như sau: diện
tích thiệt hại năm 2006: 8.449 ha; năm 2007: 1.784 ha; năm 2008: 1.651 ha; năm 2009: 2.120
ha; đến tháng 9 năm 2010: 1.553 ha.
Mặc dù có nhiều thành tựu trong khôi phục, bảo vệ và phát triển rừng góp phần làm
tăng đáng kể năng lực phòng hộ và bảo tồn đa dạng sinh học của rừng, trong những năm qua,
vẫn còn có nhiều hạn chế và khó khăn trong công tác bảo vệ và phát triển rừng (Chiến lược
Phát triển lâm nghiệp Việt Nam năm 2007).

Chỉ tiêu bình quân hiện nay ở Việt Nam là 0,15 ha rừng/người và 9,16 m
3
gỗ/người,
thuộc loại thấp so với chỉ tiêu tương ứng của thế giới là 0,97 ha/người và 75m
3
/người, trong
khi đó nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội tạo nên sức ép vào rừng ngày một gia tăng về đất
cho sản xuất lương thực và lâm sản từ rừng tự nhiên và rừng trồng.
Diện tích rừng tuy có tăng nhưng chất lượng và tính đa dạng sinh học rừng tự nhiên ở
nhiều nơi vẫn tiếp tục bị suy giảm. Trong giai đoạn 2000-2005, diện tích rừng tự nhiên là

rừng giàu giảm 10,2%, rừng trung bình giảm 13,4%; trong khi đó rừng phục hồi tăng 20,7%,
Nguồn ảnh: Trần Hiếu Minh, TCLN, Bộ NN&PTNT

Chương 2. Lâm nghiệp Việt Nam và Chiến lược phát triển 2006-2020

Báo cáo tiến độ ngành Lâm nghiệp 2006-2010

35

rừng trồng tăng 50,8%. Trong tổng số hơn 10 triệu ha rừng tự nhiên, diện tích rừng có trữ
lượng giàu và trung bình bao gồm 2,5 triệu ha, chủ yếu phân bố trong hệ thống các khu rừng
đặc dụng, phòng hộ. Diện tích rừng tự nhiên là rừng sản xuất hiện nay chủ yếu là đối tượng
rừng nghèo và rừng phục hồi có năng xuất, chất lượng thấp.
Tình trạng phá rừng, cháy rừng vẫn còn diễn ra, có nơi rất gay gắt. Công tác bảo vệ
rừng và PCCCR còn một số tồn tại, thường do công tác bảo vệ và phát triển rừng tại các địa
phương chưa được ưu tiên cao. Việc xử lý vi phạm pháp luật về rừng, đất đai khó khăn,
thường kéo dài, địa bàn xảy ra phá rừng chủ yếu là vùng sâu vùng xa, khó thu thập chứng cứ
và xác định người có hành vi vi phạm quy định pháp luật và chế tài xử lý đối với kẻ phá rừng
còn nhẹ. Sự phối hợp của các ngành còn hạn chế, tình trạng di dân tự do còn nhiều, đặc biệt ở
các tỉnh Tây Nguyên, phá rừng làm nương rẫy, sang nhượng đất trái pháp luật. Ở một số địa
phương, rừng vẫn tiếp tục bị tàn phá do chuyển đổi mục đích sử dụng đất, khai thác bất hợp
pháp, làm nương rẫy. Từ năm 2004 đến năm 2009, bình quân mỗi năm có 9.145 vụ phá rừng
trái pháp luật và vi phạm quy định về khai thác gỗ và lâm sản. Hậu quả là hiện tượng lũ ống,
lũ quét, hạn hán, sụt lở đất bất thường xảy ra do có một phần nguyên nhân do mất hoặc suy
thoái rừng.
Diện tích đất chưa sử dụng quy hoạch cho lâm nghiệp toàn quốc còn khá lớn. Theo Chỉ
thị số 38/2005/CT-TTg ngày 5/12/2005 của Thủ tướng Chính phủ diện tích đất chưa sử dụng
khoảng 3,651 triệu ha, trong đó 0,263 triệu ha là rừng đặc dụng; 1,157 triệu ha là rừng phòng
hộ; và 2,231 triệu ha là rừng sản xuất, nhưng việc khai thác, sử dụng chưa hiệu quả.
2.1.2 Đóng góp của lâm nghiệp vào nền kinh tế quốc dân

Mặc dù GDP lâm nghiệp chính thức chỉ chiếm 1% tổng GDP quốc gia nhưng ngành
lâm nghiệp còn có những đóng góp lớn vào nền kinh tế quốc dân thông qua công nghiệp chế
biến lâm sản xuất khẩu và các giá trị môi trường rừng. Trong giai đoạn 1995-2005, kim
ngạch xuất khẩu hàng gỗ đã tăng từ 61 triệu USD năm 1996 lên 1.570 triệu USD năm 2005,
vượt ngưỡng 2.00 triệu USD năm 2006 và ước tính đạt 2.740 triệu USD năm 2009. Năm 2010
sẽ hoàn thành vượt mức chỉ tiêu xuất khẩu với tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 3,55 tỷ USD bằng
118% kế hoạch so với cùng kỳ năm 2009. Tổng kim ngạch xuất khẩu lâm sản ngoài gỗ hiện nay
đạt trên 200 triệu USD/năm, dự kiến sẽ tăng bình quân 10-15% một năm, đạt 700-800 triệu
USD/năm vào năm 2020.
Ngành Lâm nghiệp thúc đẩy quá trình xã hội hoá nghề rừng, phân cấp quản lý cho các
địa phương và phát triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước. Giao đất giao rừng cho các thành phần kinh tế là biện pháp thực hiện đa thành
phần trong sử dụng rừng nói chung và đa sở hữu trong sử dụng rừng trồng sản xuất nói riêng
trong ngành Lâm nghiệp. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2009, trong tổng số 13.258.843 ha
rừng toàn quốc, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh quản lý và sử dụng 4.473.614 ha
hay 33,7% diện tích rừng (Hộ gia đình: 3.287.070 ha, cộng đồng: 191.383 ha, lực lượng vũ
trang: 243.689 ha và xí nghiệp liên doanh, tổ chức khác: 751.472 ha); trong khi đó khu vực
Nhà nước sử dụng 8.758.229 ha hay 66,3% diện tích rừng (Doanh nghiệp nhà nước:
2.044.252 ha, ban quản lý rừng phòng hộ: 2.318.577 ha, ban quản lý rừng đặc dụng:
1.999.915 ha; Ủy ban nhân dân: 2.422.485 ha).
Chương 2. Lâm nghiệp Việt Nam và Chiến lược phát triển 2006-2020

Báo cáo tiến độ ngành Lâm nghiệp 2006-2010

36

Chính sách mới của chính phủ về chi trả dịch vụ môi trường rừng (PES) là một trong
những hướng đi quan trọng đối với ngành Lâm nghiệp, đây là chính sách đầu tiên về lâm
nghiệp coi việc bảo vệ, phát triển rừng, bảo tồn các hệ sinh thái rừng, đa dạng sinh học và
cảnh quan thiên nhiên của rừng là các dịch vụ. Mọi cá nhân, doanh nghiệp và tổ chức được sử

dụng và hưởng thụ các dịch vụ này phải trả tiền trực tiếp cho những người cung ứng dịch vụ.
Sau hơn 2 năm thực hiện thí điểm chính sách PES, Việt Nam đã thu được nhiều kết quả tích
cực và những bài học kinh nghiệm ban đầu, với sự đồng thuận cao của các cấp, ngành, các hộ
đồng bào dân tộc và các hộ nghèo, tất cả đều rất phấn khởi, đồng tình với hướng tiếp cận mới
này. Tính đến tháng 02 năm 2010, đã có 7/7 đơn vị là các cơ sở sản xuất thủy điện đã thực
hiện việc chi trả dịch vụ môi trường rừng năm 2009 với tổng số tiền là 234,421 tỷ đồng,
ngoài ra tỉnh Lâm Đồng còn nhận 300 triệu đồng từ các dịch vụ du lịch sinh thái. Nhiều hộ
dân hưởng chính sách thí điểm đã xin được nhận khoán thêm diện tích rừng để bảo vệ, phát
triển. Kết quả tích cực từ chương trình thí điểm này, triển khai theo Quyết định số
380/2008/QĐ-TTg là dẫn tới việc ban hành chính sách mới trên toàn quốc về PES theo Nghị
định số 99/2010/NĐ-CP ngày 24/09/2010. Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng là một
chính sách mang tính đột phá góp phần khuyến khích sự tham gia rộng rãi trong công tác bảo
vệ và phát triển rừng, từng bước tạo lập cơ sở kinh tế bền vững góp phần cải thiện đời sống
của người dân, nâng cao nhận thức, làm nền tảng cho công tác bảo vệ và phát triển rừng, bảo
vệ môi trường, đặc biệt là bảo đảm nguồn nước cho thủy lợi, sản xuất thuỷ điện.
Bên cạnh những đóng góp quan trọng vào nền kinh tế quốc dân, ngành Lâm nghiệp còn
một số hạn chế như tăng trưởng của lâm nghiệp còn thấp và chưa bền vững. Rừng trải rộng
trên địa bàn lớn, chủ yếu ở các vùng có điều kiện kinh tế, xã hội còn nhiều khó khăn, nhu cầu
đầu tư chưa thỏa đáng, chưa đánh giá đúng giá trị của môi trường rừng đem lại cho xã hội.
Theo Tổng cục Thống kê, tốc độ phát triển của ngành Lâm nghiệp hàng năm bình quân từ 1,2
đến 1,5%. Lợi nhuận từ sản xuất kinh doanh Lâm nghiệp thấp, sức cạnh tranh yếu, tiềm năng
tài nguyên rừng chưa được khai thác tổng hợp và hợp lý, nhất là lâm sản ngoài gỗ và các dịch
vụ môi trường. Rừng trồng và rừng tự nhiên có năng suất và chất lượng thấp, chưa đáp ứng
được các yêu cầu cho phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là nguyên liệu gỗ lớn cho công
nghiệp chế biến và xuất khẩu. Ngành công nghiệp chế biến lâm sản phát triển nhanh nhưng
chủ yếu là tự phát, chưa vững chắc, thiếu quy hoạch và tầm nhìn chiến lược, tính cạnh tranh
chưa cao, sự liên kết và phân công sản xuất chưa tốt, chưa xây dựng được thương hiệu trên
thị trường thế giới, thiếu vốn đầu tư cho phát triển và hiện đại hoá công nghệ, nguồn gỗ
nguyên liệu chưa ổn định, phụ thuộc vào nhập khẩu.
Ngoài ra, rào cản thương mại quốc tế đang là thách thức lớn đối với sự phát triển của

ngành. Việt Nam hiện đã gia nhập AFTA và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), điều này
đồng nghĩa với việc Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh quốc tế mạnh mẽ trong quản lý
và buôn bán lâm sản ra thị trường thế giới, đặc biệt là sản phẩm từ rừng trồng. Từ năm 2010
nhiều thách thức được đặt ra bởi Luật Lacey sửa đổi của Mỹ về quy định liên quan đến nguồn
gốc, xuất xứ của nguyên liệu sản xuất đồ gỗ; Hiệp định FLEGT của EU về thẩm quyền cấp
phép sau khi kiểm tra tính hợp pháp của lô hàng thông qua các bằng chứng gốc. Vì đây là hai
thị trường xuất khẩu lâm sản chính của Việt Nam, những yêu cầu pháp lý này đã đặt Việt
Nam đối mặt với những thách thức quan trọng.
Chương 2. Lâm nghiệp Việt Nam và Chiến lược phát triển 2006-2020

Báo cáo tiến độ ngành Lâm nghiệp 2006-2010

37

2.1.3 Lâm nghiệp góp phần vào xoá đói giảm nghèo và phát triển kinh tế nông
thôn miền núi
Ngành Lâm nghiệp Việt Nam đã và đang thực hiện các hoạt động quản lý và sản xuất
lâm nghiệp trên diện tích đất lâm nghiệp phân bố chủ yếu ở trên các vùng đồi núi của cả
nước. Đây cũng là nơi sinh sống của 25 triệu người với nhiều dân tộc ít người, có trình độ
dân trí thấp, phương thức canh tác lạc hậu, kinh tế chậm phát triển và đời sống còn nhiều khó
khăn. Rừng luôn là nguồn thu nhập chính của đồng bào các dân tộc miền núi, là cơ sở quan
trọng để phân bố dân cư, điều tiết lao động xã hội, góp phần xóa đói giảm nghèo.
Đời sống của người dân miền núi luôn phụ thuộc khá nhiều vào nguồn hàng hoá và dịch
vụ môi trường rừng tự nhiên. Ngay cả khi người dân bị mất rừng thì họ cũng vẫn có những
lợi ích lớn thông qua việc chuyển đổi đất rừng thành đất nông nghiệp. Hiện nay, rất nhiều
người nghèo nhất trong số những người nghèo ở Việt Nam đang sống trong và gần rừng. Như
vậy, tài nguyên rừng sẽ ngày càng có vai trò lớn trong công cuộc xoá đói giảm nghèo ở Việt
Nam.
Thực tiễn hiện nay cho thấy, ngành Lâm nghiệp đã tham gia tích cực vào việc tạo thêm
việc làm, tăng thu nhập từ rừng cho người nông dân, nhất là đồng bào các dân tộc ít người và

đáp ứng phần lớn nhu cầu gỗ gia dụng và củi cho tiêu dùng nội địa. Đảng và Nhà nước tiếp
tục kiên trì cải thiện sinh kế của người làm nghề rừng thông qua xã hội hóa và đa dạng hóa
các hoạt động lâm nghiệp. Xã hội hóa được coi là phương thức và công cụ để đạt mục tiêu
tạo thêm 2 triệu việc làm mới trong lâm nghiệp, tăng thu nhập, góp phần xóa đói giảm nghèo
70% số hộ trong các vùng lâm nghiệp trọng điểm như đã xác định trong Chiến lược Lâm
nghiệp quốc gia 2007.
Từ khi triển khai thực hiện Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng đến nay, Dự án đã góp phần
tích cực trong thực hiện xóa đói, giảm nghèo và mang lại sự thay đổi về kinh tế, văn hóa, xã
hội của khu vực nông nghiệp và nông thôn trong quá trình đổi mới của đất nước. Đến năm
2010, Dự án đã thu hút được một lượng lớn lao động nông thôn với 4.657.211 lao động, trong
đó có 484.893 hộ nghèo, chủ yếu là đồng bào dân tộc miền núi, vùng cao và dân tộc thiểu số.
Việc làm này đã giúp họ tăng thu nhập và ổn định cuộc sống thông qua nhận khoán bảo vệ
rừng, chăm sóc rừng, nông lâm kết hợp, tham gia trồng mới rừng, trồng cây công nghiệp, cây
ăn quả, nuôi trồng thủy sản.v.v. Tầm quan trọng của công việc này với thu nhập của các hộ
gia đình được thể hiện trong bảng dưới đây:
Bảng 2: Thu nhập của hộ gia đình từ chương trình 661(Dự án trồng mới 5 triệu
ha rừng).
Tỷ lệ thu nhập hộ gia đình từ dự án Số lao động Tỷ lệ (%)
Dưới 25% trong tổng thu nhập hộ gia đình 2.900.063

62%

25% đến 50% trong tổng thu nhập hộ gia đình 1.194.199

25%

Trên 50% trong tổng thu nhập hộ gia đình 564.473

13%


Tổng

4.657.211

100%

Nguồn: Cục Lâm nghiệp năm 2010

Xác lập lại quyền sử dụng tài nguyên rừng hướng tới các cộng đồng nông thôn, đặc biệt
là nông thôn miền núi là những đóng góp quan trọng của ngành lâm nghiệp. Trong những
Chương 2. Lâm nghiệp Việt Nam và Chiến lược phát triển 2006-2020

Báo cáo tiến độ ngành Lâm nghiệp 2006-2010

38

năm gần đây, ngành Lâm nghiệp có những kết quả đáng khích lệ trong việc thu hút các hộ
nông dân, cộng đồng tham gia làm nghề rừng. Theo số liệu công bố của Bộ Tài nguyên và
Môi trường, đến ngày 30 tháng 9 năm 2007, đối với đất lâm nghiệp đã cấp 1.111.302 giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 8.116.154 ha, hay 62,1% diện tích đất được giao
(13 tỉnh đạt trên 90% so với mục tiêu, 7 tỉnh đạt từ 80% đến 90%, 5 tỉnh đạt từ 70% đến 80%, 8
tỉnh đạt từ 50 đến 70%, 31 tỉnh còn lại đạt dưới 50%). Trong tổng số giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đã trao, 1.105.774 giấy chứng nhận với diện tích là 3.169.084 ha được phát hành cho
các hộ gia đình và cá nhân, cấp 5.518 giấy chứng nhận với diện tích là 4.947.070 ha được
trao cho các tổ chức. Nhà nước khuyến khích phát triển hình thức sản xuất lâm nghiệp hộ gia
đình, trang trại bằng các giải pháp giao đất giao rừng, tăng cường công tác khuyến nông
khuyến lâm, phát triển quản lý rừng cộng đồng và hợp tác xã lâm nghiệp kiểu mới. Nghị định
số 99/2010/NĐ-CP ngày 24/09/2010 của Chính phủ ban hành về chính sách chi trả dịch vụ
môi trường rừng là một sáng kiến chính sách mang tính đột phá góp phần thúc đẩy và xã hội
hoá công tác bảo vệ và phát triển rừng, từng bước tạo lập cơ sở kinh tế bền vững góp phần cải

thiện đời sống của người dân, nhận thức được nâng cao, làm nền tảng cho công tác bảo vệ và
phát triển rừng, bảo vệ môi trường và hệ sinh thái, đặc biệt là bảo đảm nguồn nước cho thủy
lợi, sản xuất điện.
Các tác động của ngành Lâm nghiệp đối với xoá đói, giảm nghèo còn hạn chế, chưa tạo
ra được nhiều việc làm và mức thu nhập của người làm nghề rừng còn thấp. Đa số người dân
miền núi chưa thể sống được bằng nghề rừng, đời sống của cán bộ, công nhân viên lâm
nghiệp còn rất khó khăn. Việc thực hiện xã hội hóa lâm nghiệp chưa có những chuyển biến rõ
rệt, quản lý rừng và đất rừng còn nhiều bất cập, tiến độ giao đất, giao rừng chậm, diện tích
rừng và đất lâm nghiệp do các lâm trường quản lý còn rất lớn; nhiều địa phương chưa mạnh
dạn tổ chức giao rừng tự nhiên và rừng trồng cho dân, đặc biệt cho cộng đồng, hộ gia đình và
tư nhân. Quyền sử dụng rừng của các chủ rừng chưa được xác định rõ ràng và thỏa đáng. Sự
tham gia và năng lực thực hiện các hoạt động lâm nghiệp của khu vực hộ gia đình, cộng đồng
và trang trại còn yếu.
2.1.4 Đóng góp của lâm nghiệp trong việc bảo vệ môi trường
Do Việt Nam nằm trải dài dọc theo bờ biển Thái Bình Dương trong vùng nhiệt đới gió
mùa, điểm hình thành của các cơn bão lớn, nên Việt Nam luôn phải đối mặt với thiên tai và
khí hậu thời tiết bất thường, mặt khác do địa hình đa dạng, dốc và chia cắt nên rừng càng có
vai trò quan trọng trong phòng hộ, bảo vệ môi trường sinh thái, được thể hiện trên các mặt
sau:
Một ha rừng thông hàng năm tạo khoảng 300-500 tấn sinh khối, 16 tấn ôxy, đối với
rừng thông có thể lên tới 30 tấn. Mỗi người một năm cần 4.000 kg Oxy (O
2
) tương ứng với
lượng ôxy do 1.000 - 3.000 m² cây xanh tạo ra trong một năm. Nhiệt độ không khí rừng
thường thấp hơn nhiệt độ đất trống khoảng 3 - 5°C. Rừng còn là tác nhân bảo vệ và ngăn
chặn gió bão. Lượng đất xói mòn của vùng đất có rừng chỉ bằng 10% lượng đất xói mòn của
vùng đất không có rừng. Rừng là nguồn gen vô tận của con người, là nơi cư trú của các loài
động thực vật quý hiếm (Bách khoa toàn thư - Tiếng Việt:
Chương 2. Lâm nghiệp Việt Nam và Chiến lược phát triển 2006-2020


Báo cáo tiến độ ngành Lâm nghiệp 2006-2010

39

Tỷ lệ đất có rừng che phủ của một quốc gia là một chỉ tiêu an ninh môi trường quan
trọng. Diện tích đất có rừng có khả năng đảm bảo an toàn môi trường của Việt Nam ước tính
phải chiếm ít nhất 30-33% tổng diện tích tự nhiên.
Rừng và cây xanh nói chung có vai trò rất quan trọng trong sự điều tiết hàm lượng
carbon dioxide (CO
2
) . Hàng năm, trên trái đất nhờ quang hợp của thực vật đã tạo ra 150 tỷ
tấn chất hữu cơ, tiêu thụ 300 tỷ tấn CO
2
và phát thải 200 tỷ tấn ôxy (O
2
). Năng suất quang
hợp của rừng phụ thuộc nhiều vào kiểu rừng và loại cây. Ở rừng kín rậm ôn đới khả năng hấp
thụ CO
2
khoảng 20 - 25 tấn/ha/năm và rừng phát ra 15 - 18 tấn ôxy/ha/năm, tạo ra 14 - 18
tấn/ha/năm chất hữu cơ. Rừng mưa nhiệt đới thường xanh ở Việt Nam có mức hấp thụ CO
2

khoảng 150 tấn/ha/năm, phát ra 110 tấn ôxy/ha/năm, tạo ra 40 tấn/ha/năm chất hữu cơ (Hà
Chu Chử (2006)).
Việt Nam có bờ biển dài 3.260 km, nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, hàng năm hứng
chịu từ 5 đến 8 cơn bão lớn cùng với triều cường gây nhiều thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế,
xã hội và môi trường. Trước đây, nhờ có các dải rừng ngập mặn tự nhiên hoặc rừng trồng ở
ven biển, cửa sông nên đê điều ít khi bị vỡ, tính mạng và tài sản của người dân được bảo vệ.
Trong nhiều năm qua, do việc phá rừng ngập mặn ngày càng tăng, tạo điều kiện cho lũ lụt

hoành hành ở vùng hạ lưu ven biển. Nạn sụt lở đất, lũ quét, lũ ống xảy ra ở nhiều nơi. Bên
cạnh đó, việc phá rừng ngập mặn để nuôi trồng thuỷ sản, mở rộng các đô thị, khu du lịch
ngày càng tăng nên đã đe doạ cuộc sống của cộng đồng ven biển. Vì vậy, việc khôi phục và
phát triển rừng ngập mặn đóng vai trò quan trọng trong phòng hộ ven biển.Trong tương lai
với sự nóng lên của trái đất, vai trò của rừng sẽ ngày càng quan trọng hơn trong việc giảm
thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu. Do đó, giá trị môi trường của rừng sẽ ngày càng quan
trọng hơn và vượt giá trị của gỗ và lâm sản ngoài gỗ (Phan Nguyên Hồng và Vũ Đoàn Thái
(2005).
2.1.5 Định hướng phát triển
Nghị quyết lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X về Nông nghiệp,
Nông dân, và Nông thôn chỉ ra nhiệm vụ và giải pháp phát triển ngành Lâm nghiệp đến năm
2020 là: “Phát triển lâm nghiệp toàn diện từ quản lý, bảo vệ, tròng, làm giàu rừng đến khai
thác, chế biến lâm sản, bảo vệ môi trường cho du lịch sinh thái. Có cơ chế, chính sách phù
hợp, tạo điều kiện, khuyến khích các tổ chức, và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tham
gia bảo vệ, phát triển rừng. Cho phép khai thác lợi ích kinh tế từ rừng sản xuất là rừng tự
nhiên theo nguyên tắc bền vững, lấy nguồn thu từ rừng để bảo vệ, phát triển rừng và làm giàu
từ rừng. Khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức, cá nhân trồng rừng thâm canh, hiện đại hóa
công nghệ khai thác, chế biến nhằm nâng cao giá trị lâm sản, chú trọng phát triển lâm sản
ngoài gỗ”.
Về quy hoạch 3 loại rừng và đất lâm nghiệp đến năm 2020:
Rà soát và bố trí lại hệ thống rừng phòng hộ quốc gia khoảng 5,68 triệu ha chủ yếu là
rất xung yếu, gồm 5,28 triệu ha rừng phòng hộ đầu nguồn; 0,18 triệu ha rừng phòng hộ chắn
sóng, lấn biển; 0,15 triệu ha rừng chắn gió, chắn cát bay và 70.000 ha rừng phòng hộ bảo vệ
môi trường cho các thành phố lớn, khu công nghiệp và xây dựng các khu rừng phòng hộ biên
giới, hải đảo.
Chương 2. Lâm nghiệp Việt Nam và Chiến lược phát triển 2006-2020

Báo cáo tiến độ ngành Lâm nghiệp 2006-2010

40


Rà soát và củng cố hệ thống rừng đặc dụng quốc gia hiện có với tổng diện tích không quá
2,16 triệu ha theo hướng nâng cao chất lượng rừng và giá trị đa dạng sinh học, xây dựng các
hành lang đa dạng sinh học nhằm hình thành các vùng sinh thái lớn hơn.

Tổng diện tích rừng sản xuất được quy hoạch là 8,4 triệu ha, trong đó có 3,63 triệu ha
rừng tự nhiên và 4,15 triệu ha rừng trồng, chú trọng xây dựng các vùng rừng nguyên liệu
công nghiệp tập trung. Quản lý sử dụng bền vững nên theo hướng đa mục đích. Diện tích đất
quy hoạch cho phát triển rừng sản xuất còn lại 0,62 triệu ha rừng tự nhiên nghèo kiệt được sử
dụng để phục hồi rừng và sản xuất nông lâm kết hợp.
Về quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng rừng:
Toàn bộ 16,24 triệu ha rừng và đất lâm nghiệp được quản lý thống nhất trên cơ sở thiết
lập lâm phận quốc gia ổn định, theo hệ thống tiểu khu, khoảnh, lô trên bản đồ và thực địa. Về
cơ bản tất cả diện tích rừng (rừng tự nhiên, rừng trồng) và đất lâm nghiệp phải được giao, cho
thuê đến những chủ rừng thuộc mọi thành phần kinh tế.
Chuyển đổi nhận thức từ bảo vệ đơn thuần cây rừng sang bảo vệ rừng như bảo vệ một
hệ sinh thái luôn phát triển vừa bảo đảm khả năng tái tạo và sử dụng rừng một cách tối ưu.
Bảo vệ và bảo tồn rừng trên nguyên tắc lấy phát triển để bảo vệ, tạo mọi điều kiện cho các
chủ rừng và người dân địa phương tham gia các hoạt động bảo vệ, phát triển rừng và tạo thu
nhập hợp pháp để có thể sống được bằng nghề rừng.
Quy hoạch, phân loại và có kế hoạch phát triển 3 loại rừng, kết hợp bảo tồn, phòng hộ
với phát triển du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng và các dịch vụ môi trường khác.


Nguồn ảnh: Trần Hiếu Minh, TCLN, Bộ NN&PTNT

Chương 2. Lâm nghiệp Việt Nam và Chiến lược phát triển 2006-2020

Báo cáo tiến độ ngành Lâm nghiệp 2006-2010


41

Về sử dụng rừng, phát triển công nghiệp chế biến và xuất khẩu lâm sản:
Khai thác sử dụng hợp lý tài nguyên rừng, đồng thời cũng là biện pháp lâm sinh để tái
tạo và cải thiện chất lượng rừng; rừng được hướng dẫn khai thác phù hợp với chức năng và
mức độ phòng hộ của rừng. Khai thác sử dụng rừng tự nhiên bền vững phải trên cơ sở
phương án điều chế rừng. Khai thác tối đa các dịch vụ môi trường từ rừng như phòng hộ đầu
nguồn, ven biển và đô thị, du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, tín dụng các bon để tạo nguồn thu tái
đầu tư bảo vệ và phát triển rừng.

Công nghiệp chế biến và thương mại lâm sản phải trở thành mũi nhọn kinh tế của
ngành lâm nghiệp, phát triển theo cơ chế thị trường trên cơ sở công nghệ tiên tiến, nâng cao
tối đa hiệu suất sử dụng lâm sản, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và tiêu dùng nội địa. Khu vực
ngoài quốc doanh có vai trò quan trọng và được khuyến khích đầu tư trong phát triển công
nghiệp chế biến lâm sản sao cho phù hợp với định hướng và quy hoạch. Phải chú trọng chất
lượng phát triển thông qua các biện pháp đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới doanh nghiệp nhà
nước, khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân và tạo ra các thị trường lành mạnh,
minh bạch hơn. Đa dạng hoá và không ngừng nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm chế
biến cho phù hợp với thị hiếu khách hàng trong và ngoài nước. Đẩy mạnh xây dựng thương
hiệu và cấp chứng chỉ cho các mặt hàng xuất khẩu.

Nguồn ảnh: FSSP CO

Chương 2. Lâm nghiệp Việt Nam và Chiến lược phát triển 2006-2020

Báo cáo tiến độ ngành Lâm nghiệp 2006-2010

42




Xuất phát từ yêu cầu của xã hội đối với ngành lâm nghiệp trong giai đoạn mới, Chính
phủ Việt Nam đã phê duyệt Chiến lược Phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006 -
2020 tại Quyết định số 18/2007/QĐ-TTg ngày 05 tháng 02 năm 2007 của Thủ tướng Chính
phủ. Chiến lược đã xác định mục tiêu và nhiệm vụ của ngành lâm nghiệp trong giai đoạn
2006-2020 cụ thể như sau:
"Thiết lập, quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng bền vững 16,24 triệu ha đất được quy
hoạch cho lâm nghiệp; nâng tỷ lệ đất có rừng lên 42 - 43% vào năm 2010 và 47% vào năm
2020; đảm bảo có sự tham gia rộng rãi hơn của các thành phần kinh tế và tổ chức xã hội vào
các hoạt động lâm nghiệp nhằm đóng góp ngày càng tăng vào quá trình phát triển kinh tế - xã
hội, bảo vệ môi trường sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học, cung cấp các dịch vụ môi trường,
xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống cho người dân nông thôn miền núi và góp phần giữ
vững an ninh quốc phòng".
Để đạt được các mục tiêu tổng thể trên, Chiến lược xác định 3 mục tiêu cụ thể - kinh tế,
xã hội và môi trường – đối với ngành lâm nghiệp như sau:
- Về kinh tế: Thiết lập, quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng bền vững 3 loại rừng. Quản
lý tốt rừng tự nhiên hiện có, gia tăng diện tích và năng suất rừng trồng, tăng cường các
hoạt động nông lâm kết hợp và sử dụng có hiệu quả các diện tích đất trống đồi trọc phù
hợp cho phát triển lâm nghiệp. Sản xuất, chế biến gỗ và lâm sản ngoài gỗ có tính cạnh
tranh và bền vững để đáp ứng về cơ bản nhu cầu nội địa và tham gia xuất khẩu các sản
phẩm gỗ và lâm sản khác.
- Về xã hội: Cải thiện sinh kế của người làm nghề rừng thông qua xã hội hoá và đa dạng
hoá các hoạt động lâm nghiệp; tạo công ăn việc làm, nâng cao nhận thức, năng lực và
mức sống của người dân; đặc biệt chú ý đồng bào các dân tộc ít người, các hộ nghèo và
phụ nữ ở vùng sâu, vùng xa để từng bước tạo cho người dân làm nghề rừng có thể sống
được bằng nghề rừng, góp phần xoá đói, giảm nghèo và giữ vững an ninh quốc phòng.
- Về môi trường: Bảo vệ rừng, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học nhằm thực hiện
có hiệu quả chức năng phòng hộ của ngành Lâm nghiệp là: Phòng hộ đầu nguồn, phòng
hộ ven biển, phòng hộ môi trường đô thị, giảm nhẹ thiên tai, chống xói mòn, giữ nguồn
nước, bảo vệ môi trường sống; tạo nguồn thu cho ngành lâm nghiệp từ các dịch vụ môi

trường (phí môi trường, thị trường khí thải CO
2
, du lịch sinh thái, du lịch văn hoá, nghỉ
dưỡng…) để đóng góp cho nền kinh tế đất nước.

2.2


Chiến lược phát triển Lâm
nghiệp Việt Nam 2006-2020

Chương 2. Lâm nghiệp Việt Nam và Chiến lược phát triển 2006-2020

Báo cáo tiến độ ngành Lâm nghiệp 2006-2010

43

Để đạt được mục tiêu tổng thể, chiến lược đưa ra 5 chương trình chính, trong đó có 3
chương trình phát triển và 2 chương trình hỗ trợ. Mỗi chương trình đều có mục tiêu riêng.
Các chương trình phát triển gồm:
• Quản lý và Phát triển rừng bền vững;
• Bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học và các dịch vụ môi trường
• Chế biến và tiếp thị lâm sản
Các chương trình hỗ trợ gồm:
• Nghiên cứu, Giáo dục, Đào tạo và Khuyến lâm/Phổ cập
• Chính sách, Thể chế, Lập kế hoạch và Giám sát.
Kế hoạch 5 năm của ngành đưa ra mục tiêu tổng thể giống như mục tiêu tổng thể của
Chiến lược, gồm 4 mục tiêu nhỏ giải quyết các vấn đề liên quan đến kinh tế, xã hội, môi
trường và quản lý ngành. Trong đó, 3 mục tiêu cụ thể đầu tiên giống với 3 chương trình đầu
của Chiến lược còn mục tiêu thứ 4 - quản lý ngành - giống với các chương trình hỗ trợ của

Chiến lược.
Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng đưa
ra các mục tiêu cụ thể để đạt được mục
tiêu kinh tế, xã hội và môi trường trong
phát triển lâm nghiệp và nó giống với các
mục tiêu của Chiến lược và Kế hoạch 5
năm.
Như trình bày thêm trong các
chương tiếp theo, hệ thống chỉ tiêu ngành
lâm nghiệp được xây dựng nhằm đánh giá
tiến độ đạt được các mục tiêu phát triển
của ngành như đã được nêu trong Chiến
lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam
(2006-2020), Kế hoạch 5 năm của Ngành
và Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng hay
Dự án 661.



Nguồn ảnh: FSSP CO

Chương 2. Lâm nghiệp Việt Nam và Chiến lược phát triển 2006-2020

Báo cáo tiến độ ngành Lâm nghiệp 2006-2010

44



Chiến lược phát triển Lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020 được Thủ tướng

Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 18/2007/QĐ-TTg ngày 5/2/2007. Để tổ chức triển
khai thực hiện Chiến lược, Thủ tướng Chính phủ đã giao nhiệm vụ, cơ chế phối hợp cho các
Bộ, ngành và các địa phương như sau:
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan đầu mối có nhiệm vụ chủ trì, phối
hợp với các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ
chức thực hiện Chiến lược phát triển lâm nghiệp; đưa các nội dung của Chiến lược vào kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội của cả nước, các Bộ, ngành và địa phương; Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về cân đối và bố
trí vốn, tính toán các nguồn vốn để thực hiện có hiệu quả các nội dung của Chiến lược;

Bộ Tài nguyên và Môi trường (MONRE) đặc biệt quan tâm tới quy hoạch sử dụng đất
và giao, cho thuê đất lâm nghiệp và kiểm kê rừng được thực hiện trên toàn quốc theo định kỳ
5 năm một lần. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng sẽ làm việc với Tổng cục
Thống kê về các dữ liệu và chỉ tiêu giám sát đánh giá ngành lâm nghiệp; chỉ đạo, hướng dẫn
các địa phương thu thập số liệu, và tiến hành các cuộc điều tra, nghiên cứu về những đóng
góp về kinh tế, môi trường Bộ đề xuất trình Chính phủ rà soát và sửa đổi phân ngành Lâm
nghiệp hiện tại quy định trong Nghị định số 75/CP ngày 27 tháng 10 năm 1973 dựa trên định
nghĩa mới về lâm nghiệp;

2.3


Phương pháp tiếp cận thực hiện
chiến lược

Nguồn ảnh: Trần Hiếu Minh, TCLN, Bộ NN&PTNT

Chương 2. Lâm nghiệp Việt Nam và Chiến lược phát triển 2006-2020

Báo cáo tiến độ ngành Lâm nghiệp 2006-2010


45

Các Bộ, ngành, UBND và các dự án có trách nhiệm tổ chức thực hiện các nội dung của
Chiến lược liên quan đến ngành mình.
Để tổ chức thực hiện 5 Ủy ban
chiến lược, năm Tiểu ban điều phối
thực hiện chương trình đã được
thành lập. Các tiểu ban điều phối
này xây dựng chương trình, kế
hoạch, tìm kiếm tài trợ, hỗ trợ thực
hiện, thảo luận và đề xuất xây dựng
và sửa đổi của các quy trình, quy
phạm, giáo trình, định mức kinh tế
kỹ thuật, định kỳ họp toàn thể và
hội thảo chuyên đề giữa các bên
tham gia, và phối hợp với các đối
tác quốc tế, đối tác trong nước, các
cơ quan, tổ chức liên quan.
Hàng năm, Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn phối hợp
với các Bộ, ngành và địa phương tổ
chức đánh giá việc thực hiện Chiến
lược, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Nội dung về bảo vệ và phát triển
rừng phải được xem là một bộ phận quan trọng trong báo cáo cuối năm của Chính phủ trước
Quốc hội. Việc giám sát và đánh giá thực hiện Chiến lược phát triển Lâm nghiệp được thực
hiện theo định kỳ vào cuối mỗi kế hoạch 5 năm nhằm nâng cao hiệu quả và hiệu lực thực
hiện chiến lược thông qua cung cấp các thông tin, ý kiến phản hồi cho các nhà hoạch định
chính sách để điều chỉnh kế hoạch và có giải pháp khắc phục kịp thời. Tập trung đánh giá

những tác động phát triển chủ yếu. Song song với việc tổ chức triển khai thực hiện các mục
tiêu, nội dung và chỉ tiêu Chiến lược đặt ra, trong quá trình thực hiện luôn có những sự bổ
sung, cập nhật và lồng ghép để đảm bảo sự phù hợp với chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật mới của Nhà nước, xu hướng quốc tế và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của cả
nước, các Bộ, ngành và địa phương.
Nguồn ảnh: Trần Hiếu Minh, TCLN, Bộ NN&PTNT

Chương 2. Lâm nghiệp Việt Nam và Chiến lược phát triển 2006-2020

Báo cáo tiến độ ngành Lâm nghiệp 2006-2010

46



Hệ thống chỉ tiêu chuyên ngành lâm nghiệp được xây dựng trên cơ sở cách lập kế hoạch
được định hướng theo mục tiêu và kết quả của Chiến lược phát triển Lâm nghiệp Việt Nam
giai đoạn 2006-2020, sử dụng khung lô gic được đơn giản hoá để phục vụ cho thiết kế, thực
thi, giám sát và đánh giá việc thực hiện chiến lược cũng như các chương trình lâm nghiệp và
từ đó xác định các chỉ tiêu và số liệu thống kê cần thiết cho hệ thống chỉ tiêu đánh giá ngành
lâm nghiệp.
Bảng 3: Khung logic của Chiến lược phát triển lâm nghiệp 2006-2020
Mục tiêu và kết quả
Đánh giá tiến độ và mức độ đạt được
các mục tiêu
Chỉ tiêu
Mục tiêu tổng quát

Mục tiêu phát triển dài hạn của
Ngành

Các chỉ tiêu tác
động
Mục tiêu cụ thể

Các mục tiêu kinh tế
• Các mục tiêu xã hội
• Các mục tiêu môi trường
Các chỉ tiêu kết quả

Kết quả (đầu ra) của 5 Chương
trình của Chiến lược
• Chương trình quản lý và phát triển
rừng bền vững
• Chương trình bảo vệ rừng, bảo tồn
đa dạng sinh học và phát triển dịch
vụ môi trường
• Chương trình chế biến và thương
mại lâm sản
• Chương trình nghiên cứu, giáo dục,
đào tạo và khuyến lâm
• Chương trình đổi mới thể chế, chính
sách, lập kế hoạch và giám sát
ngành lâm nghiệp
Chỉ tiêu thực hiện
Đầu vào

Đầu tư tài chính
• Đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Các chỉ tiêu đầu
vào

Nguồn: Chiến lược Phát triển Lâm nghiệp Việt Nam 2006 – 2020, Bộ NN&PTNT

Khung lôgic được thiết kế theo các mục tiêu tổng quát (chỉ tiêu tác động), mục tiêu cụ
thể (chỉ tiêu thành quả) của Chiến lược phát triển Lâm nghiệp quốc gia, Kế hoạch 5 năm và
các chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng, cũng như các mục tiêu của 5 chương trình phát
triển và chương trình hỗ trợ trong Chiến lược phát triển Lâm nghiệp giai đoạn 2006-2020 (chỉ
tiêu thực hiện). Các chỉ tiêu đầu vào cũng giúp cho các nhà hoạch định chính sách thực hiện
các kế hoạch, chương trình đánh giá được mức độ thực hiện các hoạt động trên cơ sở các
nguồn tài lực có thể huy động được. Hệ thống chỉ tiêu thống kê sửa đổi lần này bao gồm 72
chỉ tiêu trong đó hiện tại chỉ có 55 chỉ tiêu thu thập được số liệu.

2.4

Giám sát việc thực hiện Chiến
lược phát triển Lâm nghiệp Việt
Nam 2006 - 2020

Chương 2. Lâm nghiệp Việt Nam và Chiến lược phát triển 2006-2020

Báo cáo tiến độ ngành Lâm nghiệp 2006-2010

47

Bộ chỉ tiêu thống kê chuyên ngành lâm nghiệp về cơ bản được sắp xếp theo các cột
tương tự Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia và Hệ thống chỉ tiêu thống kê ngành
Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, ví dụ: tên chỉ tiêu, phân tổ chính, kỳ cung cấp số liệu, cơ
quan chủ trì, thu thập, tổng hợp thông tin (thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT), nguồn cung cấp
số liệu. Ngoài ra, hệ thống này còn cung cấp thêm thông tin về danh mục các cơ quan,
chương trình quốc gia, các tổ chức và công ước quốc tế và các chỉ tiêu cần để phục vụ cho

xây dựng báo cáo và kế hoạch quốc gia.


Cách sắp xếp hệ thống chỉ tiêu thống kê chuyên ngành theo khung lô gic tuy nhiên còn
khá mới mẻ ở Việt Nam, vì nó khác so với cách sắp xếp các hệ thống chỉ tiêu thống kê thông
thường đang được các cơ quan chính phủ sử dụng. Do vậy, các chỉ tiêu của Hệ thống chỉ tiêu
thống kê chuyên ngành lâm nghiệp FOMIS cũng có thể được sắp xếp lại theo nhóm chỉ tiêu,
tương tự Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia và Hệ thống chỉ tiêu ngành Nông nghiệp và
PTNT.

Nguồn ảnh: Trần Hiếu Minh, TCLN, Bộ NN&PTNT

Báo cáo tiến độ ngành Lâm nghiệp 2006-2010

48
PHẦN II

ĐÁNH GIÁ

TI
ẾN ĐỘ
TH
ỰC HIỆN
CHIIẾN LƯỢC

Nguồn ảnh: Vụ KHCN&HTQT, TCLN, Bộ NN&PTNT

Báo cáo tiến độ ngành Lâm nghiệp 2006-2010

49



















Chiến lược Phát triển Lâm nghiệp Việt Nam 2006 – 2020

Thiết lập, quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng bền vững 16,24 triệu ha đất được quy hoạch
cho lâm nghiệp; nâng tỷ lệ đất có rừng lên 42 - 43% vào năm 2010 và 47% vào năm 2020;
đảm bảo có sự tham gia rộng rãi hơn của các thành phần kinh tế và tổ chức xã hội vào các
hoạt động lâm nghiệp nhằm đóng góp ngày càng tăng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội,
bảo vệ môi trường sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học, cung cấp các dịch vụ môi trường, xóa
đói giảm nghèo, nâng cao mức sống cho người dân nông thôn miền núi và góp phần giữ
vững an ninh quốc phòng.

Kế hoạch 5 năm 2006 - 2010
Bảo vệ và quản lý bền vững tài nguyên rừng, phát triển kinh tế lâm nghiệp nhằm nâng cao sự

đóng góp vào sự phát triển kinh tế, xã hội của cả nước, góp phần xóa đói, giảm nghèo, bảo
vệ môi trường và bảo tồn đa dạng sinh học cũng như cung cấp các dịch vụ môi trường.

Các chỉ tiêu đánh giá
 Chỉ tiêu 1.1: Diện tích rừng hiện có
 Chỉ tiêu 1.2: Độ che phủ rừng
 Chỉ tiêu 1.3: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) của ngành Lâm nghiệp
 Chỉ tiêu 1.4: Tỷ lệ nghèo ở các tỉnh/TP có nhiều rừng

Chương

Đánh giá tiến độ thực hiện
các mục tiêu tổng quát và
tác động


3

Chương 3: Tiến độ thực hiện các mục tiêu tổng quát và tác động

Báo cáo tiến độ ngành Lâm nghiệp 2006-2010

50


Rừng là một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật rừng, vi sinh vật
rừng, đất rừng và các yếu tố môi trường khác, trong đó cây gỗ, tre nứa hoặc hệ thực vật đặc
trưng là thành phần chính có độ che phủ của tán rừng từ 0,1 trở lên. Rừng gồm rừng trồng và
rừng tự nhiên trên đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng (Luật Bảo vệ và
Phát triển rừng 2004).

Số liệu diện tích rừng hiện có của năm 2005 và 2009 cho thấy tổng diện tích rừng của
Việt Nam đã tăng từ 12.601.800 ha (2005) lên 13.258.800 ha (2009) bình quân tăng 164.250
ha/ năm. Tuy nhiên, diện tích rừng tự nhiên tăng rất ít (66.200 ha trong 4 năm) trong khi diện
tích rừng trồng tăng khá nhanh với 590.800 ha trong 4 năm nghĩa là 150.000ha/năm.

Về các loại rừng tự nhiên, rừng tre nứa giảm 161.600 ha và rừng ngập mặn giảm 3.900
ha trong 4 năm, trong khi rừng gỗ và rừng núi đá tăng và rừng hỗn giao giảm không đáng kể.
Đáng chú ý là tuy diện tích rừng ngập mặn nhỏ so với tổng diện tích rừng tự nhiên của cả
nước, nhưng đã giảm 3.900 ha trong 4 năm qua, tương đương với 6% diện tích rừng ngập
mặn tự nhiên.
Về các loại rừng trồng, rừng trồng có trữ lượng (lớn hơn 3 năm tuổi) đã tăng mạnh
trong giai đoạn này là kết quả của các nỗ lực trồng rừng của ngành Lâm nghiệp trong giai

Chỉ tiêu

1.1


Di
ện tích rừng hiện có

Nguồn ảnh: Trương Lê Hiếu

Chương 3: Tiến độ thực hiện các mục tiêu tổng quát và tác động

Báo cáo tiến độ ngành Lâm nghiệp 2006-2010

51
đoạn trước năm 2006. Diện tích rừng trồng có trữ lượng tăng 636.300 ha, bình quân tăng trên
150.000 ha/năm trong khi diện tích rừng trồng chưa có trữ lượng (nhỏ hơn 3 năm tuổi) năm

2009 báo cáo là trên 1,1 triệu ha. Điều này có nghĩa là diện tích trồng mới và trồng lại hàng
năm của cả nước là trên 300.000 ha/năm trong giai đoạn 2007-2009.
Bảng 4: Diện tích rừng hiện có (đến 31/12/2009) theo loại rừng và vùng sinh thái
Đơn vị tính: 1.000 ha

Loại đất
loại rừng
Toàn
quốc
Tây
Bắc
Đông
Bắc
Sông
Hồng
Bắc
T/Bộ
Duyên
Hải
Tây
Nguyên

Đông
Nam
Bộ
Tây
Nam
Bộ
Đất có rừng 13.258,8


1.572,5

3.391,9

97,9

2.764,9

1.827,2

2.925,2

402,9

276,4

I. Rừng tự
nhiên 10.339,2

1.422,4

2.302,3

49,0

2.110,1

1.409,9

2.715,7


269,3

60,5

1. Rừng gỗ 8.235,8

1.109,4

1.646,3

15,5

1.667,0

1.314,4

2.284,1

163,9

35,2

2. Rừng tre
nứa 621,5

84,5

110,6


0,0

165,3

27,4

199,6

34,0

0,0

3. Rừng hỗn
giao 685,6

58,0

199,7

0,9

84,2

55,2

232,0

55,6

0,0


4. Rừng
ngập mặn 60,5

0,0

19,9

0,0

0,9

0,0

0,0

14,9

24,8

5. Rừng núi
đá 735,8

170,4

325,8

32,6

192,7


12,8

0,0

0,9

0,5

II. Rừng
trồng 2.919,6

150,1

1.089,6

48,9

654,8

417,3

209,4

133,6

215,9

1. RT có trữ
lượng 1.464,4


92,3

510,2

23,4

326,5

232,0

115,5

64,1

100,4

2. RT chưa
có TL 1.124,9

53,1

454,3

7,5

237,9

176,6


63,6

32,7

99,1

3. Tre luồng 87,8

2,9

11,5

0,1

72,5

0,1

0,7

0,0

0,0

4. Cây đặc
sản 206,7

1,7

113,1


3,4

17,1

8,5

29,6

33,0

0,3

5. Ngập
mặn, phèn 35,7

0,0

0,5

14,5

0,8

0,1

0,0

3,8


16,2

Nguồn: Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2010
Nhìn chung, diện tích rừng tự nhiên đều tăng ở 7 vùng sinh thái lâm nghiệp (không kể
vùng Đồng bằng sông Hồng), tăng nhiều nhất là ở vùng Bắc Trung Bộ (110.200 ha) và ít nhất
ở vùng Tây Bắc (45.400 ha) trong 4 năm qua, trong khi diện tích rừng tự nhiên giảm nhiều
nhất ở Tây Nguyên (113.000 ha), ở vùng Duyên hải Nam Trung Bộ (26.100 ha) và Đông
Nam Bộ (22.700 ha) trong 4 năm qua. Hiện tượng diện tích rừng tự nhiên giảm đáng kể ở các
vùng này, đặc biệt là ở Tây Nguyên là rất đáng báo động, vì đây là các vùng đầu nguồn của
nhiều con sông quan trọng của khu vực miền Trung và Đông Nam Bộ.


Chương 3: Tiến độ thực hiện các mục tiêu tổng quát và tác động

Báo cáo tiến độ ngành Lâm nghiệp 2006-2010

52
Biểu đồ 1: Diện tích rừng hiện có (đến 31/12/ 2009) theo vùng sinh thái lâm nghiệp

Nguồn: Cục Kiểm lâm

Về rừng trồng của 7 vùng sinh thái lâm nghiệp (không kể vùng Đồng bằng sông Hồng):
trong 4 năm qua diện tích rừng trồng tăng ở 6 vùng, nhiều nhất ở vùng Đông Bắc Bộ
(264.700 ha) và ít nhất ở vùng Tây Bắc (49.200 ha). Diện tích rừng trồng giảm ở Đông Nam
Bộ (31.000 ha) và Tây Nam Bộ (37.700 ha) do hiệu quả trồng rừng không cao so với trồng
các cây nông nghiệp khác.
Bảng 5: Thay đổi diện tích rừng tự nhiên 2005-2009 theo các vùng sinh thái lâm nghiệp
Đơn vị tính: 1000 ha

Năm/

Vùng ST
TB ĐB SH BTB DH TN ĐNB TNB
Năm 2009 1.422,4

2.302,3

49,0

2.110,1

1.409,9

2.715,7

269,3

60,5

Năm 2005 1.377,0

2.231,2

49,7

1.999,9

1.436,0

2.828,7


292,0

58,6

Tăng/ giảm +45,4

+71,1

- 0,7

+110,2

-26,1

-113

-22,7

+1,9

Nguồn: Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2010
Một nét mới trong các thống kê gần đây là đã có các số liệu về rừng trồng ngập mặn và
phèn ở các vùng bờ biển và đất phèn ở Việt Nam với tổng diện tích 35.700 ha (2009) chủ yếu
tập trung ở vùng Tây Nam Bộ (16.200 ha) và Đông Nam Bộ (3800 ha).
Bảng 6: Thay đổi diện tích rừng trồng 2005-2009 theo các vùng sinh thái lâm nghiệp
Đơn vị tính: 1000 ha

Năm/
Vùng ST
TB ĐB SH BTB DH TN ĐNB TNB

Năm 2009 150,1

1089,6

48,9

654,8

417,3

209,4

133,6

215,9

Năm 2005 100,9

824,9

45,5

484,8

309,9

144,4

164,6


253,6

Tăng/ giảm +49,2

+264,7

+3,4

+170

+107,4

+65

-31

-37,7

Nguồn: Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2010
Diện tích có rừng phân theo chủ quản lý (Bảng 7) có thay đổi rõ rệt sau đợt rà soát quy
hoạch 3 loại rừng (theo Chỉ thị số 38/TTg), sau thực hiện Nghị định 200 về đổi mới Lâm
Chương 3: Tiến độ thực hiện các mục tiêu tổng quát và tác động

Báo cáo tiến độ ngành Lâm nghiệp 2006-2010

53
trường quốc doanh (LTQD) và có các định hướng phát triển của CLPTLN VN 2006-2020.
Diện tích rừng của các doanh nghiệp Nhà nước đã giảm 811.900 ha, diện tích rừng giao cho
các hộ gia đình tăng 439.000 ha và diện tích rừng do các Ban quản lý rừng phòng hộ và rừng
đặc dụng quản lý tăng 1.122.500 ha do nhiều diện tích rừng của các LTQD (707.600ha) được

chuyển thành rừng phòng hộ hoặc rừng sản xuất. Số liệu về diện tích giao cho cộng đồng và
các tổ chức khác không thống kê được do có sự không đồng nhất về tên chủ quản lý giữa năm
2005 và 2009. Tuy nhiên, số diện tích giao cộng đồng quản lý là quá thấp vì đến năm 2009 cả
nước mới giao được 191.400 ha, không đạt yêu cầu so với CLPTLNVN đề ra là 2,5 triệu ha
vào 2010 và 4 triệu ha vào năm 2020. Diện tích rừng tạm thời do UBND xã quản lý đã giảm
384.100 ha sau 4 năm. Tuy nhiên, diện tích đất chưa sử dụng này vẫn rất lớn (2.422.700 ha),
cần phải tiếp tục giao cho các chủ quản lý, vì trên thực tế phần lớn diện tích này người dân đã
sử dụng nhưng chưa được hợp thức hoá bằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Diện tích
còn lại nằm ở các vùng sâu, vùng xa, manh mún, đất xấu hoặc khó bảo vệ nên người dân và
doanh nghiệp đều không muốn nhận.
Bảng 7: Diện tích có rừng (đến 31/12/2009) phân theo loại chủ quản lý
Đơn vị tính: 1000 ha

Loại đất loại
rừng
Tổng
diện
tích
BQLR
DN
nhà
nước
Đơn
vị KT
khác
Đơn vị

trang
Gia
đình

Cộng
đồng

Tổ
chức
khác
UBND
Đất có rừng 13.258,8

4.318,4

2.044,3

91,5

243,7

3.287,1

191,4

659,8

2.422,7

I. Rừng tự
nhiên 10.339,2

3.818,6


1.551,5

27,2

196,0

1.961,5

171,4

575,4

2.037,6

1. Rừng gỗ 8.235,8

3.111,7

1.271,3

18,2

144,9

1.416,9

152,7

421,3


1.698,8

2. Rừng tre
nứa 621,5

147,5

121,6

3,5

10,8

168,6

6,0

36,7

126,7

3. Rừng hỗn
giao 685,6

249,0

139,5

5,3


37,1

123,0

5,5

18,9

107,3

4. Rừng ngập
mặn 60,5

35,0

4,9

0,0

0,3

3,5

0,5

3,7

12,5

5. Rừng núi

đá 735,8

275,5

14,1

0,2

2,8

249,5

6,7

94,8

92,2

II. Rừng
trồng 2.919,6

499,8

492,8

64,3

47,7

1.325,6


20,0

84,4

385,1

1. RT có trữ
lượng 1.464,4

306,8

267,5

30,4

31,1

564,4

12,9

46,9

204,4

2. RT chưa
có TL 1.124,9

155,2


200,8

29,6

14,6

557,3

7,1

32,1

128,3

3. Tre luồng 87,8

1,8

3,5

1,3

0,1

76,1

0,0

0,9


4,2

4. Cây đặc
sản 206,7

32,2

20,6

3,1

0,6

110,4

0,0

4,1

35,7

5. Ngập mặn,
phèn 35,7

3,9

0,4

0,0


1,3

17,4

0,0

0,3

12,5

Nguồn: Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2010

Chương 3: Tiến độ thực hiện các mục tiêu tổng quát và tác động

Báo cáo tiến độ ngành Lâm nghiệp 2006-2010

54
Bảng 8: Thay đổi diện tích rừng của các chủ sử dụng 2006-2009
Đơn vị tính: 1000 ha

BQL DNNN
ĐVKT
khác
Đơn vị
VTrang

Hộ GĐ CĐ
TC
khác

UBND
2009 4.318,4

2.044,3

91,5

243,7

3.287,1

191,4

659,8

2.422,7

2005 3.195,9

2.856,2

66,7

259,7

2.848,1

-

-


2.806,8

Thay đổi 1.122,5

-811,9

24,8

-16

439



-384,1

Nguồn: Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2010
Tỷ lệ rừng phân theo chủ quản lý thay đổi không nhiều từ 2005 đến 2009 (Biểu đồ 2).
Các Ban quản lý và doanh nghiệp Nhà nước vẫn chiếm 48% (2006 là 49,8%), trong khi hộ
gia đình chỉ chiếm 24,8% diện tích rừng (2005 là 23%). Đáng chú ý là trong 4 năm qua, rừng
tự nhiên đã giao cho các Ban quản lý tăng 1.122.000 ha trong khi diện tích rừng tự nhiên của
các hộ gia đình hầu như không thay đổi. Vai trò của cộng đồng thôn bản chưa được quan tâm
đúng mức nên mới chỉ có khoảng 1% diện tích rừng đươc giao cho cộng đồng.
Diện tích rừng trồng nhìn chung tăng khá sau 4 năm, trừ diện tích của doanh nghiệp
Nhà nước giảm (113.200 ha) do đã bàn giao cho chính quyền địa phương để giao lại cho các
hộ gia đình và cá nhân. Diện tích rừng do hộ gia đình quản lý tăng 439.000 ha sau 4 năm đã
chỉ rõ vai trò của hộ gia đình trong trồng rừng đặc biệt là trồng rừng sản xuất.
Biểu đồ 2: Diện tích rừng hiện có (đến 31/12/ 2009) phân theo chủ quản lý


Nguồn: Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2010


Định nghĩa về rừng của Việt Nam hiện tại còn có nhiều ý kiến khác nhau và cần được
thống nhất. Luật Bảo vệ và Phát triển rừng quy định “rừng có cây gỗ, tre nứa hoặc hệ thực vật
đặc trưng là thành phần chính có độ che phủ của tán rừng từ 0,1 trở lên”, trong khi trên thế
giới đang có nhiều định nghĩa khác nhau về rừng. Tổ chức Nông Lương Liên Hiệp Quốc
(FAO) đã đưa định nghĩa về rừng như sau: “Rừng là diện tích đất lớn hơn 0,5 ha với các cây
Chương 3: Tiến độ thực hiện các mục tiêu tổng quát và tác động

Báo cáo tiến độ ngành Lâm nghiệp 2006-2010

55
có chiều cao trên 5 m và độ tàn che trên 10% hoặc các cây có thể phát triển để đạt ngưỡng nói
trên. Rừng không bao gồm các diện tích đất chủ yếu sử dụng cho nông nghiệp và đô thị
1
.
Định nghĩa về rừng trong Luật Bảo vệ và Phát triển rừng chỉ quy định một tiêu chí là độ
tàn che của rừng từ 0,1 trở lên có nghĩa là có thể coi hầu hết diện tích đất trống đồi trọc có
cây rừng rải rác hoặc cây bụi (IB, IC) là rừng. Tuy nhiên, việc quy định độ tàn che rừng từ
0,1 và không quy định chiều cao cây rừng ở tuổi thành thục sẽ gây khó khăn cho công tác
quản lý bảo vệ rừng, nhất là khi xử lý các vi phạm về “phá rừng”, “mất rừng”, vì như vậy nếu
chỉ phá các cây bụi có thể bị quy là “phá rừng” và khó có trường hợp nào sau khai thác rừng
tự nhiên hợp pháp và bất hợp pháp mà độ tàn che rừng ở mức 0,1 để quy là “làm mất rừng”.
Định nghĩa về rừng trong Luật Bảo vệ và Phát triển rừng còn có nhược điểm nữa là nhiều
diện tích đất trống, đồi trọc có cây rải rác không có khả năng tái sinh tự nhiên tốt sẽ vẫn được
coi là “rừng”, trong khi diện tích đất này theo quy định của ngành Lâm nghiệp là diện tích đất
trống, đồi trọc được quy hoạch cho mục đích lâm nghiệp để trồng rừng hoặc khoanh nuôi xúc
tiến tái sinh tự nhiên. Tuy nhiên, định nghĩa cũng có ưu điểm là có thể đưa rừng “lùn” trên
núi cao và một số diện tích cây rừng ngập mặn có độ cao thành thục nhỏ hơn 3-5m là các

diện tích rừng mà không cần giải thích thêm.




1
Global Forest Resources Assessment Update 2005, Terms and Definitions, Final version, Forest Department ,
FAO, Rome 2004
Nguồn ảnh: Trần Hiếu Minh, TCLN, Bộ NN&PTNT

×