Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.19 KB, 4 trang )
Thần Đồng Quyền – Võ cổ truyền
Người xưa quan niệm truyền thụ võ công là việc trang nghiêm, người học đến
võ đường phải làm lễ nhập môn, bái tổ, bái sư. Nghi thức ấy xem ra cổ mà kính,
đó là khởi nguồn của lễ. Võ thuật bắt đầu bằng lễ và kết thúc cũng bằng lễ.
Chính từ những quan niệm xưa ấy mà thầy trò giữ
lễ với nhau, lấy nhân nghĩa làm tiêu chí hành xử. Thầy sẽ là tấm gương soi trong
sáng cho hậu thế, lời nói đi đôi với việc làm, tri hành hợp nhất. Ngoài khả năng
chuyên môn, tư cách đạo đức, người thầy còn làm sáng lên nhân cách xử thế,
người học nhìn vào mà noi theo.
Người xưa trọng tinh thần hơn trọng vật chất, do vậy ít nghe chuyện khoe khoang,
quảng cáo, công nghệ đánh phấn tô hồng chữ tôi, mà tâm niệm học võ là để phát
huy chữ đức. Không có chuyện dùng thủ đoạn thấp hèn độc quyền xưng bá đồ
vương, mà cùng nhau chung sống, nên thế đạo võ lâm như khu rừng có nhiều gỗ
quý. Đức Khổng tử được hậu thế tôn xưng là “Vạn thế sư biểu” nhưng khiêm tốn
vô cùng. Ngài nói: “Thuật nhi bất tác – có nghĩa là chỉ thuật lại (chuyện trời đất)
chứ không phải là người làm ra”.
Võ cổ truyền Việt Nam không dùng tên gọi bài quyền số 1, bài quyền số 2; không
dùng tên thế chém số 1, thế đá số 2… mà là Lão mai quyền, Ngọc trản quyền,
Phượng hoàng quyền, Thái sơn côn, Âm dương song kiếm… Đó là tinh thần
người xưa gửi vào bài võ, mỗi tên gọi, danh xưng có âm vang của hồn thiêng sông
núi với một tấm lòng thành.
Sổ hàng di biểu lưu thiên địa.
Nhất phiến đan tâm phó sử thi.
Có nghĩa là:
Đôi hàng soi dấu lưu muôn thuở.
Một tấm lòng son tạc sử xanh.
(Cổ thi)
Ngày trước người tập Võ cổ truyền Việt Nam gọi bài quyền là thảo bộ, bài binh
khí là thảo binh khí hay thảo pháp, như thảo bộ Lão mai, thảo binh khí Ngũ môn
côn hoặc Ngũ môn thảo pháp.