Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Lõm ngực bẩm sinh doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.67 KB, 5 trang )

Lõm ngực bẩm sinh
Lõm ngực bẩm sinh – dù trẻ sinh ra còn sống, nhưng
có thể bị các triệu chứng khó thở và ho nhiều do chèn
ép phổi nặng.

Đa số dị tật lõm ngực được phát hiện ngay khi vừa
sinh (google image)
Yếu tố di truyền được ghi nhận

Lõm ngực bẩm sinh là biến dạng lồng ngực bẩm sinh
do sự phát triển bất thường của một số xương sườn
và xương ức làm cho lồng ngực bị lõm vào. Người ta
cho rằng lõm ngực bẩm sinh đã được nhận biết từ
thời xưa, khoảng thế kỷ 16, Johan Schenck (1531-
1590) ghi lại trong y văn về dị tật này. Nhà khoa học
Bauhinus mô tả một trường hợp lõm ngực nặng với
các triệu chứng khó thở và ho nhiều do chèn ép phổi
nặng. Sau đó, yếu tố di truyền đã được ghi nhận.

Thế kỷ 19, W.Ebstein báo cáo 5 trường hợp ông mô
tả đầy đủ các triệu chứng của dị tật lõm ngực bẩm
sinh. Điều trị thời điểm này còn rất hạn chế, chủ yếu
là tập thể dục.

Khi phát hiện con em mình bị dị tật lõm ngực, các
bậc cha mẹ nên đưa các em tới thăm khám ngay tại
Bệnh viện ĐH Y Dược TP.HCM, Bệnh viện Chợ
Rẫy, Viện Nhi T.Ư

Phân loại dị tật lõm ngực


Theo Ths.BS Trần Thanh Vỹ, (Khoa Phẫu thuật lồng
ngực và tim mạch, ĐH Y Dược TP.HCM) có 2 loại
lõm ngực: lõm ngực đồng tâm và lõm ngực lệch tâm.
Dựa vào vị trí điểm lõm sâu nhất so với đường giữa
xương ức, điểm lõm sâu nhất nằm trên đường giữa
xương ức là lõm ngực đồng tâm, nếu lệch xương ức
gọi là lõm ngực lệch tâm.

Về nguyên nhân gây bệnh lõm ngực, BS Vỹ cho rằng
cơ chế chính xác gây ra dị tật này vẫn chưa được biết.
Cho đến nay, di truyền học vẫn chưa tìm ra yếu tố di
truyền gây ra sự hình thành và phát triển tình trạng
lõm ngực, ngoài sự liên quan 35% các trường hợp
lõm ngực với các hội chứng di truyền.

Biến đổi về sinh lý

Hiện tượng lõm xương ức kéo theo sự phát triển bất
thường các sụn sườn lân cận. Sự phát triển bất
thường này gây ra hiện tượng đau ngực tại các vị trí
này. PGS.TS Nguyễn Hoài Nam (ĐH Y Dược
TP.HCM) cho biết một số bệnh nhân lõm ngực bẩm
sinh có bất thường về sinh lý, sau khi được mổ, tình
trạng rối loạn được cải thiện hoàn toàn.

Dị tật lõm ngực có thể phát hiện ngay sau sinh hoặc
vào tuổi dậy thì, nhưng đa số thì được phát hiện sau
sinh. BS Trần Thanh Vỹ khẳng định diễn tiến tự
nhiên của dị tật không tự khỏi, mức độ lõm ngực có
thể giữ nguyên như sau khi sinh đến lúc trưởng

thành. Tuy nhiên, đa số các trường hợp diễn tiến nặng
dần, dù diễn tiến chậm từ sau sinh đến tuổi dậy thì
nhưng nguy hiểm là nặng lên rất nhanh trong giai
đoạn dậy thì. Khi còn nhũ nhi và lúc trẻ, hầu hết bệnh
nhân đều dung nạp tốt. Nhưng trẻ em càng lớn lên,
càng than đau vùng biến dạng sụn hoặc đau vùng
trước tim sau khi hoạt động gắng sức. Một số bệnh
nhân bị hồi hộp đánh trống ngực, có lẽ do rối loạn
nhịp nhĩ. Cũng có khi khó thở khi hoạt động gắng
sức.

Điều trị

Từ tháng 3.2008, bệnh viện ĐH Y Dược TP.HCM đã
triển khai điều trị dị dạng lồng ngực. Cho đến nay,
hàng trăm bệnh nhân đã được phẫu thuật tại bệnh
viện ĐH Y Dược và bệnh viện Chợ Rẫy có kết quả
tốt. PGS.TS Nguyễn Hoài Nam và Ths.BS Trần
Thanh Vỹ đều khẳng định, nên phẫu thuật lõm ngực
cho các em bé từ 3 đến 5 tuổi vì ở lứa tuổi này các
em chưa đến trường vì vậy sẽ không ảnh hưởng đến
công việc học tập. Đặc biệt, khi lớn lên, bệnh nhân
không còn nhớ mình đã từng bị dị tật. Như vậy, các
em sẽ không bị ảnh hưởng tâm lý.
Theo TNO

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×