Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Lý thuyết về phân tầng xã hội pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (58.33 KB, 5 trang )





SATURDAY, 15. NOVEMBER 2008, 17:18:10
STRATIFICATION
Những cơ sở của phân tầng xã hội hiện đại (sự phân lớp, sự phân
hoá) và tính di động (sự cơ động, sự dịch chuyển ) đã được đặt nền
móng bởi P.A. Sorokin từ những năm 20 (“Hệ thống xã hội học”, “Di
động xã hội” ). Vào những năm cuối, lý thuyết này được phát triển,
được khẳng định và đã được làm phong phú thêm. Tất nhiên, trước
P.A. Sorokin, trong xã hội học đã tiếp nhận không ít những thử
nghiệm(ví dụ, K.Marx, E.Durkheim, M.Weber ) phân hoá xã hội như
vậy hoặc theo cách khác. P.A. Sorokin đã biết và nghiên cứu học
thuyết giai cấp của K. Marx nhưng coi nó là một chiều là đơn giản
hoá và chưa đủ để xác định toàn bộ vị thế xã hội của cá nhân và vai
trò của nó. Như R. Merton đã nhận xét, P.A. Sorokin đã thành công
trong việc thiết lập “một cách nhìn đầu tiên, nghiêm túc và bao quát
về sự phân tầng xã hội ở thế kỷ của chúng ta” mà trong đó chứa
đựng “sự tổng hợp tuyệt vời của chất lý luận và chất thực tiễn.”
Chừng nào vấn đề này gắn bó mật thiết với vấn đề về bình đẳng xã
hội, chúng ta sẽ dừng lại trước quan niệm của P.A.Sorokin về nó.
Trong khái niệm “bình đẳng”, ông viết, thường bao gồm 2 ý nghĩa
kép:
a. Sự bình đẳng tuyệt đối của các cá thể, sự đồng nhất của nó là
“không tưởng, viển vông, và một cách có hại mang tính xã hội.”
b. Sự bình đẳng trong ý nghĩa bảo đảm của sự phân chia những
phúc lợi xã hội tỷ lệ với công lao của cá thể này hay cá thể khác, tức
là theo nguyên tắc “mỗi người theo công sức”, “mỗi người theo mức
độ tài năng”.Ông cho rằng, quan điểm chung này đã thường xuyên
có và đang thực hiện ngày nay.


Đặc thù của khái niệm hiện nay về bình đẳng lại ở trong ý nghĩa
khác, trong tiêu chuẩn đo lường những cống hiến và sự xác định
phần phúc lợi. Trước đây, tiêu chuẩn này không mang tính cá thể và
không giống nhau bởi vì giá trị thực sự của cá thể được xác định bởi
độ cao của vị trí, hoàn cảnh xã hội của nhóm (giống, đẳng cấp, phái)
mà từ trong lòng của nó anh ta xuất thân (nô lệ, chiến binh không thể
trở thành ông chủ, thành tăng lữ). Hiện nay mức độ công lao của cá
thể được xác định bởi những bản chất cá nhân của nó, những công
lao mang tính cá thể của nó và vì vậy, những tiêu chuẩn của chúng
được cá thể hoá và giống nhau.
Từ đây là sự tan rã của những đặc ân về thừa kế gia tài hay của tình
trạng vô quyền, thậm chí của cả những cơ sở luật pháp- tôn giáo của
sự phân hoá xã hội. Hiện nay, cá nhân - mục đích tự nó, trở thành và
được đánh giá như nó vốn có. Khẩu hiệu “mỗi người theo sự cống
hiến” là như thế nhưng nội dung của nó đã thay đổi về căn bản bởi vì
nó kêu gọi tới sự phân chia phúc lợi hoàn toàn theo cách khác.
Sự phân biệt khác. Trước đây giá trị cơ bản là giá trị mang tính chất
tôn giáo bởi vì cơ sở của giá trị là “chúa cứu thế”. Ngày nay, giá trị cơ
bản – giá trị mang tính nhân văn, khai sáng bởi vì “con người mục
đích tự thân không có thể trở “thành công cụ”không vì cái gì và
không vì ai”, còn “nhân cách con người - là giá trị cao nhất”. Hiện
nay, nền tảng giá trị - là mức độ có ích cho xã hội của cá thể hay của
nhóm. Trong những điều kiện của chủ nghĩa tư bản, khẩu hiệu “mỗi
người theo cống hiến của mình” là hình thức “mỗi người theo vốn
của mình”. Nhưng thời gian gần đây, như P.A. Sorokin đã nhận xét,
nó được thay bằng khẩu hiệu “mỗi người theo mức độ lao động công
ích mang tính xã hội của cá nhân họ”, bởi vì khuynh hướng toàn cầu
chủ yếu là “sự phân phối quyền lực và phúc lợi cho tất cả loài người”.
P.A. Sorokin đã bút chiến với quan điểm Mác xít về bình đẳng và trực
tiếp bút chiến với luận điểm của Ăng ghen trong “chống Đuyring” cho

rằng, chỉ có nội dung bình đẳng của giai cấp vô sản là bình đẳng xã
hội mà được hiểu trong ý nghĩa thủ tiêu các giai cấp, và tất cả mọi
đòi hỏi của bình đẳng mà vượt qua những giới hạn này điều là vô
nghĩa. P.A. Sorokin cho rằng hệ thống của chủ nghĩa Mác bản thân
nó đã hạn chế và thu hẹp lại một cách đáng kể tính chất của sự phân
chia công bằng những phúc lợi xã hội và hơn nữa cả bản thân khái
niệm bình đẳng, bởi vì dưới quan điểm này cho phép quyền bình
đẳng nhiều hay ít chỉ trong những phúc lợi kinh tế, nhưng không thể
có sự phân chia bình đẳng những phúc lợi khác (ví dụ: quyền về kiến
thức, tức là bình đẳng trí tuệ; quyền về danh dự, lòng kính trọng và
sự thừa nhận; quyền tối đa về đạo đức tức là bình đẳng về đạo đức).
Đối với điều này, bình đẳng trí tuệ được P.A. Sorokin hiểu như là “sự
chiếm hữu giống nhau một cách nhiều hơn hay ít hơn bộ máy tư duy
logic phát triển, chứ không phải là sự chiếm hữu những nhận thức
như nhau”.
Khi chuyển trực tiếp sang vấn đề phân tầng xã hội, trước hết cần
nhận thấy rằng, P.A. Sorokin hiểu vị thế xã hội là tổng hoà của những
quyền và những đặc quyền đặc lợi, những bổn phận và trách nhiệm,
quyền lực và uy tín mà cá nhân sở hữu. Và mặc dù phần lớn những
quốc gia hiện đại đã tuyên bố mang tính hiến pháp về quyền bình
đẳng của tất cả mọi người nhưng xã hội không bao giờ được đồng
nhất và luôn luôn bị phân hoá. Khi đặt ra câu hỏi, cái gì hợp nhất mọi
người thành một nhóm hay tầng lớp, và nền tảng của nó là gì, ông
nhìn thấy câu trả lời cho câu hỏi đó trong sự tồn tại của những mối
liên hệ chức năng giữa các cá thể, các hành động và các ý nghĩ,
thiếu điều đó không có sự thống nhất xã hội mà chỉ có sự cùng tồn
tại máy móc.
P.A. Sorokin chia những nhóm xã hội theo “chuẩn mực của tính quan
trọng” tức là theo khả năng của họ có ảnh hưởng đến hành vi của
người khác và tới sự phát triển xã hội. Hơn nữa, những nhóm đại

diện về mặt số lượng, về tính đoàn kết, tính tổ chức và sự hoàn thiện
của bộ máy kỹ thuật thường là những nhóm quan trọng và hùng hậu
nhất.
Nhìn chung, ông chia ra những dạng nhóm sau : nhóm đơn giản, tức
là những nhóm được hợp nhất bởi một dấu hiệu chung nào đó (ví dụ
nhóm tôn giáo); nhóm phức tạp, tức là những nhóm được hợp nhất
bởi hai hoặc trên hai dấu hiệu (nghề nghiệp, việc làm, chính kiến ),
thuộc về số đó còn có giai cấp, dân tộc, đảng ; những kết khối phức
tạp của những nhóm đơn giản và những nhóm phức tạp (ví dụ: dân
cư của đất nước, tất cả loài người ). Những nhóm phức tạp có thể lại
được chia ra thành những nhóm đoàn kết và những nhóm đối kháng.
Giữa những nhóm phức tạp, P.A. Sorokin đặc biệt chú ý đến giai cấp
(cũng như K. Marx và M.Weber) - “Tổng hợp những người xuất thân
theo nghề nghiệp, theo tình trạng tài sản, theo phạm vi quyền lực mà
có những quyền lợi nghề nghiệp, tài sản và của nhóm xã hội,”. Giữa
những gia cấp này - là công nhân, tư sản, quý tộc,
Nền tảng của sự phân tầng xã hội có thể mang tính chất khác nhau:
tính chất kinh tế (giàu - nghèo); tính chất nghề nghiệp (lao động có
uy tín - không uy tín); tính chất chính trị (tính chất hoạt động quản lý,
cai trị - bị quản lý, bị cai trị). Cống hiến của P.A. Sorokin đặc biệt lớn
trong sự giải quyết vấn đề về sự khác biệt xã hội bên trong các
nhóm. Ông viết rằng: “Cơ cấu xã hội - là một mạng lưới phức tạp của
những hệ thống và phân hệ được thẩm thấu qua lại lẫn nhau. Xã hội
được phân hoá không chỉ trong vị thế giữa các nhóm mà còn cả ở vị
thế trong lòng các nhóm”. P.A. Sorokin là người đầu tiên đã chỉ ra ý
nghĩa của những khác biệt theo chiều thẳng đứng bên trong các
nhóm. Nếu học thuyết giai cấp của K. Marx đều tập trung chú ý vào
sự phân hoá xã hội theo dấu hiệu kinh tế, trước tiên là theo mối quan
hệ với phương tiện sản xuất thì học thuyết phân tầng xã hội của
Sorokin cho phép tiếp nhận hệ thống phân hoá xã hội rộng hơn,

chính xác và chặt chẽ hơn cả về chiều ngang lẫn chiều dọc.
Vấn đề tính di động xã hội gắn chặt với vấn đề phân tầng xã hội. Một
vấn đề dân chủ lành mạnh hiện đại, theo quan điểm của P.A.
Sorokin, đó là xã hội mở của tính di động xã hội mạnh mẽ. Ông đã
đưa tính di động vào những khía cạnh sau:
a. Sự dịch chuyển của những cá thể từ một nhóm xã hội này sang
một nhóm xã hội khác.
b. Sự mất đi của một số nhóm xã hội và sự xuất hiện của những
nhóm xã hội khác.
c. Sự mất đi của toàn bộ tập hợp những nhóm mang tính chất đơn
giản và tính chất phức tạp và sự thay thế hoàn toàn nó bằng tập hợp
nhóm khác. Những sự chuyển dịch xã hội của con người có thể diễn
ra theo chiều ngang cũng như theo chiều dọc.
P.A. Sorokin nhìn thấy nguyên nhân của tính di động xã hội trong
trạng thái thực hiện trong xã hội nguyên tắc phân chia phúc lợi tỷ lệ
với những cống hiến của từng thành viên của xã hội chừng nào sự
hiện thực hoá từng phần của nguyên tắc này dẫn tới sự tăng cường
của tính di động xã hội và sự cải tổ thành phần của những tầng lớp
cao hơn. Hay nói cách khác, trong những tầng lớp này cùng với thời
gian, sự yếu ớt được tích tụ lại, tức là một số lớn những người yếu
đuối, không có khả năng, còn trong những tầng lớp dưới, ngược
lại,là những con người tài năng. Như vậy, trong quan hệ xã hội ở
dạng không hài lòng và thù địch trong tầng lớp dưới, chất liệu dễ
cháy được hình thành có thể dẫn đến cách mạng và sự cân bằng
tình hình một cách tạm thời. Để điều này không xảy ra, xã hội cần
phải thoát khỏi cơ cấu xã hội khắc nghiệt, thực hiện một cách thường
xuyên tính di động xã hội, hoàn thiện và kiểm soát nó.
Học thuyết phân tầng xã hội và tính di động xã hội đã được tiếp nhận
và lan truyền rộng rãi ngay cả thời tác giả của nó đang sống. Và ngày
nay đối với nhiều cuộc nghiên cứu xã hội, nó vẫn là một công cụ

quan trọng nhất của sự nghiên cứu xã hội dưới góc độ xã hội học .
Đặc biệt, trong sự phát triển và sự hoàn thiện tiếp theo của nó, chủ
nghĩa cơ cấu chức năng đã đóng góp đáng kể (T. Parsons, E.Sills, B.
Barber, K. Davis,U. Moore, X.Isenxtadn )T. Parsons đã hình dung hệ
thống phân tầng của xã hội như là sự phân hoá những vai trò và vị trí
xã hội được xác định bởi sự phân công lao động và hệ thống giá trị,
chuẩn mực văn hoá được thống trị trong xã hội mà ý nghĩa của hoạt
động nhất định phụ thuộc vào nó. Nhà xã hội học Mỹ B. Barber trong
tác phẩm “phân tầng xã hội” đã định nghĩa nó như sản phẩm của sự
tương tác phân hoá xã hội và đánh giá xã hội”, như là “sự bất bình
đẳng được điều tiết mang tính cơ cấu mà trong đó mọi người được
sắp xếp “cao hơn” hay “ thấp hơn” trong sự phù hợp với ý nghĩa xã
hội mà các vai trò xã hội và những dạng hoạt động khác nhau sở
hữu nó”.
K. Davis và U. Mur khi dẫn sự phân tầng xã hội tới sự bất bình đẳng
xã hội, nhìn thấy trong đó đặc trưng chức năng cần thiết của hệ
thống xã hội. Công cụ mà cho phép xã hội đảm bảo một cách có ý
thức “việc nắm giữ những vị trí quan trọng hơn của những cá thể
được phân loại”. Thuyết chức năng chú ý hơn tới sự làm rõ ý nghĩa
của sự phân tầng xã hội trong sự hội nhập xã hội của xã hội. T.
Parsons đã chia ra 3 tiêu chuẩn chung của phân tầng xã hội: “phẩm
chất”, có nghĩa là sự ấn định trước của cá nhân những đặc đIểm vị trí
nhất định ( tính trách nhiệm, sự thành thạo ,có thẩm quyền),”sự thực
hiện”-có nghĩa là sự đánh giá hoạt động của cá nhân nào đó so với
hoạt động của cá nhân khác,”sở hữu”những giá trị vật chất, tài năng,
sáng tạo, chỉ tiêu văn hoá.
Nguồn: />1&action=prev

×