Đông y điều trị đại tràng
Phần 3
Năm bài thuốc hay từ nghệ đen
Nghệ đen thường được dùng chữa đau bụng, ăn không tiêu, đầy hơi, bế kinh,
tích huyết Xin giới thiệu năm bài thuốc thông dụng sử dụng vị thuốc này.
Theo Y học cổ truyền, nghệ đen là tên gọi của vị thuốc “Nga truật”, thuộc
họ Gừng (ZINGIBERACEAE).
Hiện nay, khoa học hiện đại đã có nhiều nghiên cứu về thành phần hóa học
của Nghệ đen; gồm: Tinh bột 82,6%, tinh dầu 1 - 1,5%, khá nhiều chất
tương tự có trong thành phần của Nghệ vàng và một số khoáng vi lượng.
Nghiên cứu thực nghiệm trên động vật cho thấy Nghệ đen có tác dụng tăng
cường sự bài tiết mật rõ rệt trên chuột cống trắng, đồng thời ức chế nhẹ sự
tiết dịch dạ dày; giảm tốc độ di chuyển than hoạt trong ruột chuột nhắt trắng.
Ngoài ra, Nghệ đen còn có tác dụng kích thích tiêu hóa, tăng trương lực ống
tiêu hóa.
Các nghiên cứu của một số nước cho thấy, tinh dầu Nghệ đen có tính kháng
khuẩn. Y học hiện đại dùng Nghệ đen để chế rượu bổ trường sinh (Elixir de
longue vie) gồm các vị: Nghệ đen, Lô hội, Long đởm thảo, Đại hoàng, Phan
hồng hoa và tá dược.
Theo Y học cổ truyền, Nghệ đen (Nga truật) có vị cay, đắng, tính ôn, vào
kinh can; có tác dụng hành khí, phá huyết, thông kinh, tiêu tích, hóa thực.
Nghệ đen thường được dùng làm thuốc chữa đau bụng, ăn không tiêu, đầy
hơi, bế kinh, tích huyết, hành kinh không thông, nhiều máu cục (huyết khối).
Liều dùng 3 - 6g dưới dạng sắc uống hoặc tán bột.
Dưới đây là một số bài thuốc thông dụng có sử dụng Nghệ đen.
Bài 1: Chữa chứng huyết ứ, hành kinh không thông, có nhiều huyết khối; bế
kinh, máu ra kéo dài, đen, đông thành khối nhỏ. Người bệnh thường kèm
theo đau bụng trước khi thấy kinh.
Nghệ đen và Ích mẫu, lượng bằng nhau 15g. Sắc uống ngày một thang.
Bài 2: Chữa chứng nôn ở trẻ đang bú: Nghệ đen 4g, Muối ăn 3 hạt, đun với
Sữa cho sôi chừng 5 phút, hòa tan tý chút Ngưu hoàng (lượng bằng hạt gạo).
Cách dùng: Chia uống nhiều lần trong ngày.
Bài 3: Chữa cam tích, trẻ biếng ăn, suy dinh dưỡng, đại tiện phân thối khẳn:
Nghệ đen 6g, Hạt muồng trâu 4g. Sắc uống ngày 1 thang.
Bài 4: Nghệ đen hoàn: Nghệ đen 160g, Cốc nha 20g, Khiên ngưu (sao) 40g,
Hạt cau 40g, Đăng tâm (Bấc lùng) 16g, Nam mộc hương 16g, Thanh bì 20g,
Thanh mộc hương 20g; Củ gấu 160g, Tam lăng 160g, Đinh hương 16g. Tất
cả các vị tán thành bột mịn, hoàn thành viên. Liều dùng: Ngày uống 8 đến
12g với nước sắc Gừng (nướng chín).
Tác dụng: Chữa chứng ăn kém, chậm tiêu, đầy hơi, mệt mỏi, lạnh bụng, đại
tiện phân sống, nấm mạn tính đường ruột.
Bài 5: Nghệ đen tán: Nghệ đen, Bạch chỉ, Hồi hương, Cam thảo, Đương
quy, Thục địa, Bạch thược, Xuyên khung. Lượng các vị bằng nhau (đều
40g). Tất cả các vị tán bột, hoàn thành viên. Liều dùng: Uống 8 đến 12g.
Tác dụng: Bổ khí, dưỡng huyết, trị nhiều bệnh về khí huyết.
Đây là bài thuốc bổ khả dụng, dùng chữa nhiều chứng bệnh thuộc phạm vi
chứng suy nhược, tiêu hóa hấp thu kém, thể trạng xanh xao, thiếu máu, dễ
cảm vặt mà “Trung Quốc bách khoa đại từ điển” gọi là chữa bách bệnh
(liệt kê 33 chứng bệnh khác nhau).
Tuy nhiên, kinh nghiệm thực tế cho thấy nếu bài thuốc được làm thành thang
sắc uống thì hiệu quả kém hẳn, do việc sắc đã làm thay đổi tính chất bài
thuốc, đặc biệt là một số vị thuốc chứa tinh dầu như Bạch chỉ, Hồi hương
bị bay mất tinh dầu và làm mất cái “hay” của bài thuốc.
12 bài thuốc từ cây dâu
Theo Sức Khỏe & Đời Sống
Việc vội vàng động phòng khi kinh nguyệt chưa dứt dễ sinh chứng toàn thân
đau nhức như dùi đâm
Việc vội vàng động phòng khi kinh nguyệt chưa dứt dễ sinh chứng toàn thân
đau nhức như dùi đâm. Nên dùng lá dâu già và lược gãy, nệm rách, tóc rối
lượng bằng nhau, đem đốt tồn tính, tán nhỏ, mỗi lần uống 3 đồng cân
(khoảng 12 g) với nước nóng thì khỏi.
Bổ huyết, dưỡng huyết
Phù tang chí bảo là một bài thuốc hay đã được đề cập đến trong nhiều y thư
cổ. Uống ba tháng thì thân thể mọc đầy mụn do sức thuốc đẩy ra; sau đó
khắp mình sẽ tươi sáng, da dẻ mịn màng. Nếu uống liên tục nửa năm, khí lực
trở nên mạnh mẽ, bệnh tật dần dần tiêu tan. Trường kỳ uống mãi thì gân cốt
rắn chắc, khí huyết dồi dào, rõ tai, sáng mắt, tinh thần khoan khoái, tăng
thêm tuổi thọ.
Chọn lá dâu non, hái lúc mặt trời mọc, rửa sạch bụi phấn, phơi nắng cho
khô. Vừng đen phân nửa, xát tróc vỏ, đem đồ chín “cửu chưng cửu sái” (có
nghĩa là chín lần đồ, chín lần phơi), cùng lá dâu tán bột, có thể đem xay nhỏ,
cho luyện mật làm thành viên hoàn.
Cũng hai vị thuốc này, Tuệ Tĩnh còn dùng nấu với nước vo gạo để gội đầu,
chỉ 7 lần mà tóc dài được vài “thước”! Nếu đúng như vậy thì bài thuốc này
có tác dụng kích thích mọc tóc.
Chữa thong manh, đau mắt
Tuệ Tĩnh cũng giới thiệu dùng chữa chứng thong manh bằng lá dâu tươi đem
về giã nát, phơi khô, đốt thành than, nấu lấy nước mà rửa mắt. Xưa có người
thong manh đến 20 năm mà đã chữa khỏi bằng bài thuốc này.
Để chữa đau mắt gió hay chảy nước mắt: Lá dâu hái vào tháng chạp, hãm
lấy nước mà rửa hàng ngày.
Chữa hen suyễn lâu ngày
Lá dâu già, lá thầu dầu già, trấu sao mật, các vị tán nhỏ, thắng mật làm viên
bằng hạt ngô đồng, mỗi lần uống một viên với nước sôi. Bài thuốc này được
Tuệ Tĩnh cho là rất hay.
Chữa huyết áp cao
Lá dâu bánh tẻ một nắm nhỏ, cá diếc sống một con. Đem cá diếc bỏ vào
châu pha nước muối cho nhả hết nhớt, không mổ, để nguyên con đem luộc,
gỡ lấy thịt nấu canh với lá dâu mà ăn.
Hoặc: Vỏ rễ dâu 15,5 g, sinh địa 9 g, hoài sơn (củ mài) 15,5 g, phục linh 6 g,
mẫu đơn bì 9 g, tri mẫu 15,5 g, sa sâm bắc 15,5 g, táo ta 10 g, mai rùa 10 g,
thạch xương bồ 6 g, huyền sâm 15,5 g, đương quy 6 g, hà thủ ô đỏ 10 g,
hoàng cầm 6 g. Sắc uống ngày một thang. Uống liên tục 2-3 tháng.
Hoặc: Trai sông 50-100 g, lá dâu tươi 20 g thái nhỏ, nấm hương 20 g, hành
củ khô 2-3 củ. Nấu cháo ăn hàng ngày, có tác dụng hạ huyết áp tốt. Bài
thuốc này thích hợp với người già bị tăng huyết áp và u xơ tiền liệt tuyến có
các dấu hiệu tiểu không thông, tiểu đêm, tiểu nhiều lần… Đặc biệt là người
tăng huyết áp bị chứng “trên bảo dưới chẳng chịu nghe” thì cũng nên dùng.
Tẩy sán
Lấy dao tre cạo lấy vỏ trắng ở cành dâu 3 nắm, nước 3 bát sắc lấy 1 bát. Tối
hôm trước phải nhịn ăn, sáng mai bụng đói thì uống, sán sẽ xuống hết. Uống
2-3 lần.
Chữa tiểu buốt, nước tiểu đục
Tổ bọ ngựa trên cây dâu, mỗi lần chỉ cần một cái nướng khô, tán nhỏ, uống
với rượu lúc đói, nặng thì uống 2-3 lần là khỏi. Chuyên trị chứng “cao lâm”
tiểu buốt. Ngài tằm bỏ đầu, chân, cánh, sấy khô, tán nhỏ, giã với cơm vo
thành viên bằng hạt ngô đồng, uống với nước muối lúc đói, chữa được nước
tiểu đục, trắng.
Chữa viêm họng
Mộc nhĩ cây dâu lấy vào ngày 5 tháng 5 âm lịch, thứ trắng như vẩy cá, giã
nhỏ, lấy lụa bọc lại thành viên, tẩm mật ngậm, có tác dụng chữa bệnh viêm
họng.
Chữa viêm tuyến vú
Đọt dâu non một nắm, giã nhỏ đắp vào chỗ vú sưng, lấy giấy dấp nước đắp
ngoài, khi khô lại thay, hết viêm thì thôi.
Chữa thiếu máu, mất ngủ
Quả dâu chín ngâm với đường (hoặc mật ong), mỗi ngày pha nước uống.
Uống liên tục trong nhiều ngày càng tốt. Nếu mất ngủ, nên uống vào buổi tối
trước khi đi ngủ.
Chữa bệnh với trà
www.thanhnien.com.vn
Các loại trà thông thường không chỉ để thưởng thức, giải khát mà còn có
công dụng giúp kích thích tiêu hóa, lợi tiểu và trị liệu nhiều chứng bệnh
Chữa trị bệnh kiết lỵ do nhiệt độc hoặc tiêu chảy: 100 gr trà loại ngon
đem rang cho giòn rồi tán thành bột cho vào bình ngâm với nước thật sôi
(hoặc sắc), uống bệnh sẽ khỏi dần.
Trị chứng đau lưng, người khó xoay trở: Dùng trà loại ngon (15 gr) cho
vào 20 ml giấm ăn, ngâm uống từ từ, uống hết ngâm liều khác uống tiếp.
Trị chứng hôi miệng: Dùng loại trà ngon pha với nước sôi (pha thật đậm).
Dùng nước trà này súc miệng khi ngủ dậy. Nếu đi công tác xa, không tiện thì
có thể nhai trà sống ngậm cũng trừ được chứng hôi miệng.
Trị chứng đau dạ dày kinh niên: Dùng loại trà tốt, mật ong, đường cát
trắng (mỗi thứ 100 gr), cho vào 4 bát nước, sắc còn lại 2 bát, lọc bỏ bã, để
thật nguội rồi cho vào lọ thủy tinh, đậy nắp thật kín, đợi 10 ngày sau lấy ra
dùng. Mỗi ngày dùng 3 lần, mỗi lần một thìa cà phê pha với nước sôi, uống
ấm. Uống hết một đợt, làm tiếp đợt thứ hai, nhưng ở đợt hai cho thêm nghệ
tươi (gọt vỏ, thái thật mỏng) vào. Trong lúc dùng loại trà theo cách chế biến
này thì không được ăn, uống những gì có tính chất chua.
Trị chứng ngủ gà, ngủ gật, tiểu khó, đau mắt, khô môi miệng, cảm nắng,
đi lỵ : Lấy 100 gr trà thật ngon cho vào bình, dùng nước suối nấu thật
nóng để pha trà (pha đặc), thêm vào mật ong hay đường phèn để uống.
Trị bỏng nước sôi, bỏng lửa: Dùng xác trà (mỗi lần súc bình trà lấy xác
cho vào hũ keo đậy thật kín, để lâu ngày dùng rất tốt) đắp lên vết bỏng.
Trị bệnh suyễn lâu ngày, đờm vướng ở cổ: Trà ngon (30 gr), bạch cương -
tàm (30 gr). Cả hai thứ đem sao cho vàng, tán bột cho vào bình pha với nước
thật nóng, uống từ từ (uống nhấp ít ít). Nếu thấy gắt cổ thì thêm vào vài thìa
mật ong hay đường phèn để uống
Hoa chữa bệnh tiểu đường
Thạc sĩ Hoàng Khánh Toàn
Báo Sức khỏe và Đời sống
Gần đây, cùng với các bệnh lý rối loạn chuyển hóa khác như rối loạn lipit
máu, gút bệnh tiểu đường có xu hướng gia tăng và diễn biến ngày càng
phức tạp. Để phòng chống căn bệnh này, ngoài việc nghiên cứu và sử dụng
các thuốc y học hiện đại mới, người ta cũng chú trọng tìm trong kho tàng
kinh nghiệm phong phú của y học cổ truyền những phương pháp, những vị
thuốc và bài thuốc có tác dụng làm hạ đường huyết để nghiên cứu và ứng
dụng trên lâm sàng, trong đó có phương thức trị liệu bằng các loại hoa.
Rượu Cúc hoa Mạch môn
Cam cúc hoa 20g, Kỷ tử 250g, Mạch môn 50g, rượu nếp 3.000ml. Cho tất cả
các vị thuốc vào ngâm với rượu nếp trong bình kín, mỗi ngày lắc nhẹ bình 1
lần, sau 10 ngày thì có thể dùng được, uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 20ml.
Công dụng: tư âm bổ thận, ích tinh dưỡng can, minh mục, dùng thích hợp
cho những người bị tiểu đường thuộc thể can thận âm hư biểu hiện bằng các
triệu chứng người gầy, môi khô họng khát, hai gò má đỏ, lòng bàn tay và
bàn chân nóng, trong ngực rạo rực không yên, hay hoa mắt chóng mắt, mắt
mờ, lưng đau gối mỏi, nam giới di tinh liệt dương, nữ giới kinh nguyệt ít và
có màu đỏ thẫm, đại tiện táo, tiểu tiện sẻn đỏ, lưỡi đỏ không hoặc ít rêu
Cao nhị hoa Sơn tra
Kim ngân hoa 500g, Cúc hoa 500g, Sơn tra 500g, mật ong 300g. Sơn tra rửa
sạch, thái phiến; Kim ngân hoa và Cúc hoa rửa sạch, tất cả đem sắc kỹ lấy
nước, bỏ bã rồi cho mật ong vào cô chung bằng lửa nhỏ cho tới khi thành
dạng cao đặc, mật ong chuyển màu vàng đậm là được. Để nguội rồi đựng
trong lọ kín dùng dần. Mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 30g. Công dụng: thanh
nhiệt giải độc, sinh tân nhuận táo, dùng thích hợp cho những người bị tiểu
đường có biến chứng viêm nhiễm như ung thũng, mụn nhọt, viêm loét sưng
nóng đỏ đau, viêm tắc động mạch đầu chi, môi khô miệng khát, tâm phiền
bất an
Gia vị Ngân hoa thang
Kim ngân hoa 120g, Sơn tra 120g, đường phèn 120g, sắc uống mỗi ngày 1
thang, chia uống vài lần trong ngày. Công dụng: thanh nhiệt giải độc, nhuận
phế sinh tân, hoạt huyết hóa ứ, dùng thích hợp cho những người bị tiểu
đường thuộc thể phế nhiệt thương tân biểu hiện bằng triệu chứng khát nhiều,
uống nhiều, môi khô họng háo, tiểu tiện nhiều lần, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi
vàng mỏng, mạch nhanh
Hoa nhài bồ câu thang
Hoa nhài tươi 25 bông, thịt chim bồ câu non 300g, lòng trắng 2 quả trứng
gà, bột mỳ và gia vị vừa đủ. Hoa nhài rửa sạch để ráo nước; cho lòng trắng
trứng, bột mỳ và gia vị vào bát quấy đều thành dạng hồ; thịt chim bồ câu rửa
sạch, thái miếng, nhúng qua nước sôi rồi cho vào nồi, chế thêm gia vị, đun
chín. Khi được, múc ra bát, rải những bông hoa nhài lên trên, ăn nóng. Công
dụng; tư thận ích khí, trừ phong giải độc, dùng thích hợp cho người bị tiểu
đường có thể chất suy nhược, thiếu máu
Cháo địa hoàng hoa
Địa hoàng hoa 9g, gạo tẻ 100g, hai thứ đem nấu nhừ thành cháo, chế thêm
gia vị, chia ăn vài lần trong ngày. Công dụng: tư âm thanh nhiệt, trừ phiền
chỉ khát, dùng thích hợp cho những người bị tiểu đường thuộc thể can thận
âm hư.
Canh actiso lá lách lợn
Hoa Actiso 50g, Ý dĩ 50g, lá lách lợn 150g, gia vị vừa đủ. Hoa Actiso và Ý
dĩ giã nhỏ, lá lách lợn rửa sạch thái miếng. Tất cả cho vào bát đem hấp cách
thủy, khi chín chế đủ gia vị, ăn nóng. Cần ăn liên tục 3-4 liệu trình, mỗi liệu
trình 10 ngày, giữa các liệu trình nghỉ 5 ngày. Công dụng: kiện tỳ dưỡng
huyết, bình can nhuận mật, giáng đường huyết.
Bánh Hòe hoa Đậu phụ Vừng đen
Hòe hoa non tươi 500g, đậu phụ 250g, trứng gà 2 quả, Vừng đen, bột mỳ,
Hành hoa, Gừng tươi, dầu thực vật và gia vị vừa đủ. Hòe hoa rửa sạch, để
ráo nước, cho vào bát cùng với đậu phụ, trứng gà, bột mỳ, Hành hoa, Gừng
tươi thái vụn và gia vị vừa đủ, quấy đều, vê thành viên để làm nhân bánh.
Vừng đen rửa sạch, để khô rồi đem rang thơm, đựng vào bát. Đổ dầu vào
chảo đun nóng, lấy các viên nhân bánh lăn trên vừng rang rồi cho vào chảo
rán chín là được, ăn nóng. Công dụng: tư âm nhuận táo, ích khí dưỡng
huyết, dùng thích hợp cho những người bị tiểu đường, đại tiện ra máu, khái
huyết
Cua đồng chữa bệnh
Lương y Vũ Quốc Trung
www.thanhnien.com.vn
Cua đồng thì ai cũng biết, nhưng hiểu rõ về công dụng chữa bệnh của các
món chế biến từ cua đồng thì không phải ai cũng rành.
Thực phẩm dinh dưỡng cao
Cua đồng là cua nước ngọt, phổ biến ở khắp nước ta. Cua sống và đào hang
ven các thủy vực (ao, hồ, đầm, ruộng nước ). Cua là thực phẩm có giá trị
dinh dưỡng cao: toàn thân con cua đều dùng được. Cua có hàm lượng
protein cao, giàu vitamin và đặc biệt là các nguyên tố vi lượng cần thiết cho
cơ thể con người. Cách sơ chế cua đồng thật giản đơn. Thời vụ cua béo chắc
thường là vào mùa hè. Chọn cua càng to, lưng gù là cua chắc, có nhiều thịt.
Bỏ cua vào nồi đổ nhiều nước, dùng que (hoặc đũa) khoắng và thay nước
nhiều lần để làm sạch bùn đất bám ngoài thân cua.
Theo Đông y, cua đồng có vị mặn, tính hàn, có tác dụng hoạt huyết, chữa
tổn thương gân, xương, sản phụ máu không ra hết sinh đau bụng, trong lòng
bồn chồn phiền muộn, trẻ em hở thóp, chữa bệnh cảm phong tà phát sốt, giải
các thứ độc, hút được độc ra ngoài cơ thể, chữa mụn nhọt, giúp cứng xương,
nuôi gân. Trong trước tác của Tuệ Tĩnh và Hải Thượng Lãn Ông đều có nói
tới tác dụng chữa bệnh của cua đồng.
Theo các tài liệu của Trung Quốc, cua đồng có tác dụng điều trị các triệu
chứng ung thư rất tốt. Bệnh nhân ung thư vòm họng thường bị nổi hạch ở cổ,
cua đồng có tác dụng "tiêu hạch, tán kết" nên ăn cua đồng là rất tốt. Đối với
bệnh nhân ung thư tuyến vú cho ăn cua đồng và lấy mai cua, càng cua rửa
sạch, phơi khô, nghiền thành bột mịn pha với nước uống rất thích hợp.
Những bài thuốc từ các món cua đồng
Chữa bị thương sưng đau - cua đồng 10 con, rửa sạch, bỏ mai, yếm giã nhỏ
cho nước vào lọc lấy 100 ml nước cua đặc, cho 20 ml rượu trắng vào quấy
đều, chia làm 2 lần dùng trong ngày và dùng liền 2 - 3 ngày; Chữa mất ngủ,
trong người bồn chồn - nấu canh rau rút, khoai sọ với cua đồng cho ăn vào
buổi chiều, ăn liền 5 ngày; Chữa trẻ em hở thóp - cua đồng 1 con rửa sạch
giã nhỏ cùng 10g bạch cập đắp vào thóp trẻ, dùng băng buộc lại 10 tiếng
đồng hồ rồi bỏ đi. Hai ngày sau lại làm lại. Làm 5 lần liền; Chữa viêm vú
cấp - lấy 10 cái mai cua rang chín vàng sẫm, tán bột mịn ngày uống 2 lần,
mỗi lần 10g với nước pha 50% rượu trắng; Chữa sốt sau sanh - mai cua
100g, cho vào nồi đất đậy kín, đốt lửa xung quanh sau 1 giờ lấy mai cua tán
bột mịn cho uống ngày 3 lần, mỗi lần với nước sôi để nguội pha 50% rượu
trắng; Thúc đẻ, xuống thai - càng cua 60g với một lượng hoàng tửu (rượu
vàng) vừa phải sắc với nước rồi uống. Sau sanh máu không thông - 3 con
cua đồng hấp chín với rượu vàng (hoàng tửu) ngày uống 1 lần, khi thông
huyết thì thôi.
Chữa ong đốt - lấy cua đồng sống đem đốt tồn tính (đốt kín không có oxy),
nghiền thành bột, trộn với mật ong bôi vào chỗ ong đốt ngày 2 lần; chữa sai
trẹo khớp lưng - 3 con cua đồng rửa sạch, giã nhỏ trộn với 50g đường trắng
đắp chỗ đau. Ngày thay 1 lần, đắp liền 3 - 5 ngày.
Lưu ý: do cua có tính hàn nên người có biểu hiện tỳ vị hư hàn (lạnh) cần
hạn chế. Nếu người có cảm giác sợ lạnh, bị tiêu chảy không nên ăn cua.
Gạch cua có nhiều cholesterol, nên người huyết áp cao, bệnh tim mạch hạn
chế dùng. Khi ăn cua, nên ăn cùng lá tía tô, gừng để làm giảm bớt tính hàn
của cua.
Con cua thường có 2 càng to và 8 cẳng (chân). Có loại cua đồng chỉ có 6
hoặc 4 cẳng (chân) hoặc có 1 mắt đỏ, dưới bụng có lông, trong bụng có
xương, đầu, lưng có chấm sao, chân có khoang thì chớ ăn mà hại đến người.