Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đề thi văn số 17 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.44 KB, 6 trang )

Đề 17
Câu 1:
Hãy trình bày cách hiểu biết của em về thành phần phụ chú ? Cho ví dụ minh họa.
Câu 2:
Đoạn văn
Mùa xn người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xn người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xơn xao
(“Mùa xn nho nhỏ” –Thanh Hải)
Em hãy viết một đoạn văn ngắn, phân tích để làm rõ giá trị của điệp ngữ trong đoạn
thơ trên.
Câu 3:
Từ bài thơ “Nói với con” của nhà thơ Y Phương , em hãy cho biết người cha rong bài
thơ muốn nói với con điều gì ?
Câu 4 :
Phân tích những cảm nhận tinh tế của nhà thơ Hữu Thỉnh về thời khắc giao mùa cuối
hạ sang đầu thu trong bài thơ “Sang thu”.
Gợi ý làm bài
Câu1:
Thành phần phụ chú có tác dụng là :
+Thành phần phụ chú được dùng để giải thích cho những từ ngữ khác.
+Dùng để nêu xuất xứ của từ ngữ, nêu thái độ, cử chỉ, hành động đi kèm theo lời của người
nói, của nhân vật và nhờ đó lời nói, văn bản được hiểu đúng hơn, thích hợp hơn với hồn
cảnh được sử dụng.
Ví dụ :
- Thành phần biệt lập trong đoạn thơ:
Cơ bé nhà bên (có ai ngờ)
Cũng vào du kích


Hơm gặp tơi vẫn cười khúc khích
Mắt đen tròn (thương thương q đi thơi)
(Giang Nam – Q hương)
là thành phần phụ chú : “có ai ngờ” , “thương thương q đi thơi” nhằm nêu thái độ ( cử chỉ
, hành động) kèm theo lời nói của người nói chứ khơng trình bày việc cơ gái làm (vào du
kích) hoặc miêu tả đơi mắt cơ gái (mắt đen tròn) .
-Thành phần phụ chú ở đây trình bày thái độ của người đang nói : ngạc nhiên trước việc cơ
gái tham gia du khích, xúc động trước nụ cười hồn nhiên và đơi mắt đen tròn của cơ gái.
(Có ai ngờ-> thể hiện sự ngạc nhiên của tác giả; thương thôi ->thể hiện cảm xúc của
tác giả về đôi mắt.)
Câu 2:
1- Về hình thức:
-Trình bày đúng u cầu của đoạn văn
-Số câu khoảng 8 (+ -2)
-Khơng mắc lỗi diễn đạt
2-Về nội dung :
-Chỉ rõ các điệp ngư trong đoạn (Mùa xn , lộc, tất cả)
-Vị trí điệp ngữ :đầu câu.
-Cách điệp ngữ : cách nhau và nối liền nhau.
-Tác dụng : Tạo nhịp điệu cho câu thơ, các điệp ngữ tạo nên điểm nhấn trong câu thơ như
nốt nhấn trong bản nhạc, góp phần gợi không khí sôi nổi, tấp nập của bức tranh đất nước lao
động chiến đấu.
Câu3 :
Xây dựng đoạn văn (hoặc một văn bản ngắn), đảm bảo các nội dung sau:
- Khái quát vài nét về tác giả Y Phương và bài thơ “Nói với con”
- Qua bài thơ “Nói với con” của Y Phương , ngời cha trong bài thơ muốn nói với con:
+ Nói với con về tình cảm gia đình: Mái ấm hạnh phúc gia đình , ngày cưới của cha
mẹ Mong con hãy cảm nhận mái ấm gia đình là hạnh phúc , là cội nguồn cho mọi
tình cảm. Qua ngày cưới của cha mẹ , cha dạy dỗ con về tình cảm gia đình, về truyền
thống của dân tộc.

+ Nói với con về tình làng xóm :Hình ảnh đơn sơ mộc mạc “Đan lờ cài nan hoa, vách
nhà ken câu hát ” gần gũi với đời sống người dân, thể hiện tình cảm làng xóm sâu
sắc
+ Nói với con về sức sống bền bỉ , mãnh liệt của quê hương:
Sống gian khổ , lên thác xuống ghềnh nhưng luôn có ý chí, nghị lực vượt qua
khó khăn. Cha nhắc con can trường dũng cảm, ý chí vượt lên gian khổ gắn bó với
quê hương
Người đồng mình chân chất khỏe mạnh tự chủ trong cuộc sống lao động sáng
tạo, ý chí vượt khó, cha mong con không bé nhỏ phải có khí phách, không bị khó
khăn vùi dập.
- Nghệ thuật : sử dụng nhiều từ ngữ, hình ảnh giàu cảm xúc
==> Nội dung thể hiện tình cảm, hạnh phúc gia đình , những phẩm chất tốt đẹp của dân tộc
mình,. Đồng thời nêu cao đạo lý làm người phải mạnh mẽ, bền bỉ, sống xứng đáng với
truyền thống quê hương.
Câu 4:
I/ Tìm hiểu đề :
- Theo nhà thơ Hữu Thỉnh, bài thơ còn có những suy ngẫm sâu xa về đời người , nhưng đề bài
này chỉ yêu cầu tập trung phân tích những đặc điểm về sự biến đổi của thiên nhiên đất trời từ
cuối hạ sang đầu thu qua cảm nhận tinh tế của nhà thơ . Làm bài cần chú ý điều này.
- Cần phân tích những đặc điểm giao mùa được thể hiện qua nhiều hình ảnh đặc sắc và gợi cảm;
cùng một số từ ngữ diễn tả trạng thái, cảm giác của nhiều giác quan về sự vật và tâm hồn.
- Bố cục bài viết nên theo trình tự từng khổ thơ, chú ý cách sắp xếp các dấu hiệu mùa thu ngày
một rõ nét của nhà thơ.
II/ Dàn ý chi tiết:
A- Mở bài :
-Đề tài mùa thu trong thi ca xưa nay rất phong phú (Ba bài thơ thu nổi tiếng của Nguyễn
Khuyến :Thu vịnh , Thu ẩm, Thu điếu ; Đây mùa thu tới của Xuân Diệu ). Cùng với việc tả mùa
thu , cảnh thu, các nhà thơ đều ít nhiều diễn tả dấu hiệu giao mùa.
-“Sang thu” của Hữu Thnhr lại có nét riêng bỡi chỉ diễn tả các yếu tố chuyển gia mùa. Bài
thơ thoáng nhẹ mà tinh tế.

B- Thân bài :
1. Những dấu hiệu ban đầu của sự giao mùa
- Mở đầu bài thơ bằng từ “bỗng” nhà thơ như diễn tả cái hơi giật mình chợt nhận ra dấu hiệu
đầu tiên từ làn “gió se” (xúc giác: gió mùa thu nhẹ, khô và hợi lạnh) mang theo hương ổi bắt đầu
chín (khứu giác)
- Hương ổi ; Phả vào trong gió se : sự cảm nhận thật tinh (vì hương ổi không nồng nàn mà rất
nhẹ); ở đây có sự bất ngờ và cũng có chút khẳng định (phả:tỏa ra thành luồng); bàng bạc một hương
vị quê.
- Rồi bằng thị giác : sương đầu thu nên đến chầm chậm , lại được diễn tả rất gợi cảm “chùng
chình qua ngõ” như cố ý đợi khiến người vô tình cũng phải để ý.
- Tất cả các dấu hiệu đều rất nhẹ nên nhà thơ dường như không dám khẳng định mà chỉ thấy
“hình như thu đã về”. Chính sự không rõ rệt này mới hấp dẫn mọi người
- Ngoài ra, từ “bỗng” , và từ “hình như” còn diễn tả tâm trạng ngỡ ngàng, cảm xúc bâng
khuâng
2 . Những dấu hiệu mùa thu đã dần rõ hơn, cảnh vật được tiếp tục cảm nhận tinh tế, cảnh vật mùa
thu mới chớm với những bước đi rất nhẹ, rất dịu , rất êm:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
vắt nửa mình sang thu
- Đã hết rồi nước lũ cuồn cuộn nên nước sông thong thả trôi (Sông dênh dàng như con người
được lúc thư thả)
- Trái lại , những loài chim di cư bắt đầu vội vã (cái tinh tế là ở chữ bắt đầu)
- Cảm giác giao mùa được diễn tả rất thú vị bằng hình ảnh :
Có đám mây mùa hạ
vắt nửa mình sang thu
chưa phải đã hoàn toàn thu để có bầu trời thu xanh ngắt mấy tầng cao (Nguyễn Khuyến) mà vẫn
còn mây vẫn còn tiết hạ, nhưng mây đã khô , sáng và trong. Sự giao mùa được hình tượng hóa
thành dáng nằm duyên dáng vắt nửa mình sang thu thì thật tuyệt.
3 . Tiết thu đã lấn dần thời tiết hạ :

- Nắng còn cuối hạ còn nồng, còn sáng nhưng nhạt màu dần; đã ít đi những cơn mưa (mưa lớn, ào
ạt, bất ngờ ) ; sấm không nổ to, không xuất hiện đột ngột, có chăng chỉ ầm ì xa xa nên hàng cây
đứng tuổi không bị giật mình (cách nhân hóa giàu sức liên tưởng thú vị).
- Sự đổi thay nhẹ nhàng không gây cảm giác đột ngột, khó chịu được diễn tả khéo léo bằng những
từ ngữ chỉ mức độ rất tinh tế : vẫn còn, đã vơi, cũng bớt.
C- Kết bài:
-Bài thơ bé nhỏ xinh xắn nhưng chứa đựng nhiều điều thú vị, bởi vì mỗi chứ, mỗi dòng là
một phát hiện mới mẻ. Cái tài của nhà thơ là đã khiến bạn đọc liên tiếp nhận ra những dấu hiệu
chuyển mùa thường vẫn có mà mọi khi ta chẳng cảm nhận thấy. Những dấu hiệu ấy lại được diễn tả
rất độc đáo.
- Chứng tỏ một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, một tài thơ đặc sắc.
*Bài phân tích tham khảo :
Phân tích bài thơ “ Sang thu” của Hữu Thỉnh
Gợi ý Bài làm
I- MB:
- Giới thiệu đặc điểm những bài thơ thu của
Hữu Thỉnh (viết nhiều, hay về con người,
cuộc sống ở nông thôn, về mùa thu)
-Giới thiệu bối cảnh thời gian, không gian
của bài “Thu sang”(Thời điểm giao mùa hạ -
thu ở vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ)
-Khái quát nội dung, nghệ thuật:(cảnh giao
mùa, sự hòa nhập của thiên nhiên và con
người, sự biến đổi của đất trời , tuổi tác ,
hình ảnh đặc sắc, gợi cảm).
II-TB:
* Kết cấu của bài thơ: (ngũ ngôn, 3 khổ, mỗi
khổ 4 câu :cảm nhận từ mơ hồ (k1:buổi đàu
thu) > những biểu hiện rõ ràng (k2: thu
I-MB:

Hữu Thỉnh là nhà thơ viết nhiều, viết hay về những con
người, cuộc sống ở nông thôn, về mùa thu. Nhiều vần thơ thu
của ông mang cảm xúc bâng khuâng, vấn vương trước đất
trời trong trẻo đang biến chuyển nhẹ nhàng. Bài thơ “Sang
thu” được tác giả sáng tác vào gần cuối năm 1977. Bài thơ
ngắn nhưng có nhiều hình ảnh đặc sắc gợi cảm về thời điểm
giao mùa hạ - thu ở vùng nông thôn đồng bằng Bắc bộ Đây
là cảnh giao mùa trong tâm trạng của nhân vật trữ tình. Qua
đó, ta thấy được sự hòa nhập của thiên nhiên và con người,
sự biến đổi của đất trời cũng là sự bién đổi của tuổi tác.
II-TB:
* “Sang thu” là bài thơ ngũ ngôn, gồm ba khổ thơ, mỗi khổ
có bốn câu là một nét đẹp êm đềm của đất trời, tạo vật trong
buổi đầu thu, thu mới về, thu chợt đến.
mới về) > thu đến(k3).
*Phân tích:
a/ Khổ 1:
-Giới thiệu khổ thơ (chép khổ thơ đầu)
-Nhà thơ nhận ra những tín hiệu chuyển mùa
nào?(hương ổi, sương chùng chình)
-Cảnh vật mơ hồ về thu thể hiện qua những
cảm quan nào? (khứu giác (hương ổi) xúc
giác (vận động của gió), thị giác (sương
chùng chình).
-Từ nào cho thấy nhà thơ nhận thấy thu sang
một cách đột ngột với những biểu hiện chưa
rõ ràng. Tại sao những cảm nhận đầu tiên-
đột xuất lại là hương ổi, là gió là sương? (từ
bỗng, hình như: sự cảm nhận còn mơ hồ vì
cũng chỉ mới trực cảm qua một vài biểu hiện

tác động trực tiếp hoặc gần gũi nhất(sương
trước ngõ,gió qua nhà, hương ổi trong
vườn )
+Khi phân tích cần kết hợp các yếu tố trên
(từ ngữ, hình ảnh >cảm nhận)










b/ Khổ 2:Thu đã đến với sự biểu hiện rõ ràng
hơn :
-Không gian nghệ thuật của bức tranh thu
được mở rộng như thế nào? ( (mở rộng tầm
cảm quan lên chiều cao, chiều rộng (sông,
mây) và cả thính giác (tiếng chim), đặc biệt
là các hình ảnh vận động có tính chất người
(vội vã, vắt nửa mình) thể hiện sự đồng cảm
giữa con người với thiên nhiên đang thay
đổi).
-Trong khổ thơ thứ 2, hình ảnh thiên nhiên
sang thu được tiếp tục phát hiện bừng
những hình ảnh, chi tiết nào? (Chim vội vã,
sông dềnh dàng, mây )
+Tại sao sông dềnh dàng mà chim bắt đầu

vội vã?(sợ lạnh, đỉ tránh rét; không còn
những cơn mưa mùa hạ )



+Hình ảnh đám mây mùa hạ “vắt nửa mình
sang thu” nên hiểu như thế nào? Có thật có
đám mây như thế không?(mây như kéo dài
ra, vắt lên, đặt ngang trên bầu trời ,buông
thõng xuống- đây là đám mây liên tưởng,
tưởng tượng của tác giả “mây vắt mình” >
*Phân tích:
a/ Khổ 1:
-Khổ thơ đầu của bài thơ là sự cảm nhận vè cảnh vật chuyển
sang thu còn mơ hồ:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
-Mở đầu là từ “ bỗng” thể hiện sự đột ngột , bất ngờ, cái bất
ngờ thật nên thơ! Bất ngờ nhận ra những dấu hiệu thiên nhiên
khi mùa thu về. Đó là “hương ổi” thoang thoảng trong gió se
–hơi lạnh và hơi khô Hương ổi “phả”, từ “phả” có thể thay
các từ khác như thổi, bay, đưa ,nhưng những từ ấy không có
cái nghĩa đột ngột, bất ngờ. Từ “phả” còn gợi được hương
thơm như sánh lại, sánh vì hương đậm, vì gió se.
-Còn sương thì “ chùng chình”. Tác giả đã nhân hóa làn
sương.Nó bay (đi) qua ngõ nhà chậm chạp, như muốn dừng
lại, khác với mọi ngày. Có cái gì đó duyên dáng, yểu điệu của
một làn sương

+Đã nhận ra hương vị của ổi qua khứu giác, vận động của gió
qua xúc giác (phả vào người, hơi se lạnh), sự vận động của
sương qua thị giác. Những dấu hiệu đặc trưng của mùa thu đã
hiện diện. Thế mà tác giả lại viết “hình như thu đã về”. Từ
ngữ “bỗng nhận ra” biểu lộc cảm xúc ngạc nhiên thì hai chữ
“hình như” thể hiện sự phỏng đoán một nét thu mơ hồ vừa
chợt phát hiện và cảm nhận. Cái bảng lãng , mơ hồ chính là
cảm giác “ hình như” đã tôn thêm vẻ khói sương lãng đãng
lúc thu sang.
+Khẳng định rằng chỉ có người thực sự yêu mùa thu, yêu
làng quê và gắn bó với quê hương đất nước mới có được
những cảm nhận tinh tế như thế.
b/ Khổ 2:Bỡ ngỡ ban đầu vụt tan biến để nhường chỗ cho sự
rung cảm mãnh liệt của nhà thơ trước mùa thu:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
-Không gian nghệ thuật của bức tranh “sang thu” được mở
rộng ở chiều cao, độ rộng của bầu trời với cánh chim bay và
đám mây trôi, chiều dài của dòng sông và cả thính giác vơi
nghe tiếng chim,đặc biệt là các hình ảnh vận động có tính
chất người “vội vã, vắt nửa mình”.
-Sông mùa thu trên miền Bắc nước ta thường đầy, trong
xanh, êm đềm trôi. Sông nước đầy, không còn những cơn
mưa mùa hạ lũ về nên mới “dềnh dàng”, nhẹ trôi như cố tình
chậm lại.
-Chim bay “vội vã”, đó là những đàn chim tránh rét khi đổi
mùa,từ phương Bắc xa xôi bay về phương Nam .Trong bài
“Thu vịnh” của Nguyễn Khuyến cũng có hình ảnh đàn chim

“Một tiếng trên không ngỗng nước nào?”. Từ “bắt đầu” rất
độc đáo. Bắt đầu vội vã thôi, chứ chưa phải đang vội vã. Phải
tinh tế lắm mới coa thể nhận ra sự “bắt đầu” này trong những
cánh chim bay. Dù có sự vội vã của chim (mới bắt đầu)
không khí thu vẫn là không khí thư thái, lắng đọng, chậm rãi,
lâng lâng. Vì thế mà đám mây mùa hạ mới thảnh thơi duyên
dáng:
Có đám mây mùa hạ
gợi cảm giác chuyển mùa thật đẹp ,thật nên
thơ)















c/ Khổ cuối: Cảm nhận và suy nghĩ của nhà
thơ:
-Tính giao mùa được thể hiện rõ nét như thế
nào qua khổ thơ cuối? (Biểu hiện của “nắng
còn”, của “mưa vơi”, “sấm bớt” . Đó là

những biểu hiện rõ nhất của thời kỳ từ hạ
sang thu qua cách cảm nhận tinh tế và chính
xác của nhà thơ).
-Phân tích tính ẩn dụ trong 2 câu cuối? (sấm
là những biến động của thiên nhiên, còn
mang ý nghĩa tượng trưng cho những thay
đổi, biến đổi, những khó khăn thử thách
trong cuộc đời. Hình ảnh “hàng cây đứng
tuổi” là một ẩn dụ nói về lớp người đã từng
trải, được tôi luyện trong nhiều gian khổ ,
khó khăn-Hai câu cuối còn mang hàm nghĩa
khẳng định bàn lĩnh cứng cỏi và tốt đẹp của
nhân dân ta trong những năm tháng gian khổ
, khó khăn của đất nước.)














III KL : Khẳng định giá trị bài thơ:
“Sang thu” , khúc giao mùa nhẹ nhàng, thơ

mộng, bâng khuâng mà cũng thầm thì triết
lý. Bài thơ đã nối tiếp hành trình thơ thu dân
tộc, góp một tiếng thơ đằm thắm về mùa thu
quê hương, đem đến cho ths hệ trẻ tình yêu
đất nước qua nét thu đẹp Việt Nam.
Vắt nửa mình sang thu
-Nhà thơ có một liên tưởng bất ngờ , một cách dùng từ độc
đáo.Hữu Thỉnh không dùng từ (mây) lang thang, lơ
lửng,bồng bềnh, nhẹ trôi mà lại dùng từ “vắt”.Mây như
kéo dài ra, vắt lên , đặt ngang trên bầu trời, buông thỏng
xuống. Đây là một hình ảnh liên tưởng sáng tạo thú vị. Sự
thật, không hề có đám mây nào như thế. Vì làm sao có sự
phân chia rạch ròi, mắt nhìn thấy được trên bầu trời như thế.
Đó là đám mây trong liên tưởng, tưởng tượng của tác giả.
Nhưng chính cái hình ảnh mùa hạ nối với mùa thu bởi đám
mây lững lờ, bảng lảng trên tầng không làm cho người đọc
cảm nhận cả về không gian và thời gian chuyển mùa thật là
đẹp, thật là khêu gợi hồn thơ. Câu thơ tả đám mây mùa thu
của Hữu Thỉnh khá hay và độc đáo, cách chọn từ và dùng từ
rất sáng tạo .
*Hình ảnh nào cũng bắt được cái hồn của thiên nhiên từ hạ
sang thu. Trong các câu thơ những chữ “dềnh dàng”, “vội
vã”, “vắt ” đã thổi hồn vào thiên nhiên đang đến gần nhẹ êm
mà mỗi lúc một rõ dần thể hiện sự đồng cảm giữa con người
với thiên nhiên đang thay đổi.
c/ Khổ cuối:
Khổ cuối nói lên một vài cảm nhận và suy ngẫm của nhà thơ
khi nhìn cảnh vật trong những ngày đầu thu:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
-Tính giao mùa được thể hiện rõ nét dần qua những biểu hiện
của “nắng rớt”,, của “mưa rơi”, của “sấm lặng”. Đó là các
biểu hiện rõ nhất của thờ kỳ từ hạ sang thu qua cách cảm
nhận tinh tế và chính xác của nhà thơ. Nắng mưa lúc sang thu
cũng không giống như hồi giữa hạ. Nắng nhạt dần chứ không
còn chói chang, gay gắt. Mưa cũng đã ít đi, không còn những
trận mưa rào ầm ầm , ào ạt. Bỡi vậy sấm cũng ít hơn, nhỏ
hơn không còn bất ngờ cho hàng cây.
-Các từ ngữ gần như đồng nghĩa gợi tả rất hay thời lượng và
sự hiện hữu của sự vật , của thiên nhiên : “Vẫn còn” diễn đạt
cái hết là nhiều, cái còn là ít ; “đã vơi” di
ễn đạt cái hết nhiều
hơn cái còn, “cũng bớt” diễn đạt cái hêt mới bắt đầu, cái còn
vẫn nhiều. Mùa hạ như còn níu giữ. Nắng, mưa, sấm mùa hạ
như còn vương vấn đến mùa thu, vương vấn hàng cây và đất
trời
-Sang thu đậm chất dân gian làng quê dân dã, mang đậm hơi
thở của ruộng đồng nhưng vẫn rõ nét triết lý:
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
Có hai tầng nghĩa: tả thực và ẩn dụ :sấm mùa hạ ít đi khi
sang thu. Bỡi vậy hàng cây không còn mấy bị giật mình đột
ngột. Nhưng đó còn là âm vang , ba động bất thường của
ngoại cảnh, cuộc đời. Và ở con người từng trải, đứng tuổi thì
tất nhiên sẽ vững vàng, trầm tĩnh hơn, càng không bị bất ngờ,
giật mình trước những tác động của ngoại giới, dù là những
tiếng sấm đầu thu. Hai câu cuối còn mang hàm nghĩa khẳng
định bàn lĩnh cứng cỏi và tốt đẹp của nhân dân ta trong

những năm tháng gian khổ , khó khăn của đất nước.
III KL :
“Sang thu” , khúc giao mùa nhẹ nhàng, thơ mộng, bâng
khuâng mà cũng thầm thì triết lý. Bài thơ đã nối tiếp hành
trình thơ thu dân tộc, góp một tiếng thơ đằm thắm về mùa thu
quê hương, đem đến cho thế hệ trẻ tình yêu đất nước qua nét
thu đẹp Việt Nam.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×