Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tài nguyên du lịch ở bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.97 KB, 24 trang )

Mục lục
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ BẮC NINH
1. Địa hình, vị trí dịa lý
2. Tiềm năng phát triển kinh tế và du lịch
CHƯƠNG II: TÀI NGUYÊN DU LỊCH Ở BẮC NINH
1.Chựa Bút thỏp – Ninh phóc tự
2.Chựa Dâu
3. Tranh Đông Hồ
CHƯƠNG III: ĐIỀU KIỆN LƯU TRÚ – VẬN CHUYỂN - ĂN
UỐNG – CÁC DỊCH VỤ KHÁC
1. ĐIều kiện lưu trú
2. Các dịch vụ tạI đIểm du lịch
3. ĐIều kiện vận chuyển
Khảo sát về tuyến đường
(TỪ CAO ĐẲNG DU LỊCH HÀ NỘI – BẮC NINH)
1
Từ Hà Nội đi Bắc Ninh ta có khá nhiều phương pháp lùa chọn
ở đây ta hóy xột tuyến đường mà được nhiều du khách lùa chọn.
Trước tiên chúng ta xuất phát từ đường Hoàng Quốc Việt,
đường này được thành lập từ năm 1996 dàI 2530m kéo dàI từ
đường Bưởi đến đường Phạm Văn Đồng nay thuộc các phường
Nghĩa Đô, Nghĩa Tân, với hai làn đường rộng, giữa có vườn hoa
chạy dọc tuyến đường.
Đi hết đường Hoàng Quốc Việt ta đến đường Bưởi, đường này
chạy từ chợ Bưởi chỗ cuối phố Thụy Khuê đến phố Cầu Giấy, lập
năm 1986 thuộc quận Ba Đình và quận Cầu Giấy dàI 2000m đây là
một đoạn của tòa thàn Đại La (vòng ngoàI) bao quanh thành Thăng
Long xưa chạy men sụng Tụ Lịch.
Tiếp đó ta đI đến đường Hoàng Hoa Thám đường dàI 3320m
được xây dựng trên đất xưa thuộc nhiều làng cổ, tạI cỏc xúm cũ đều
cú đỡnh chựa, đỡnhHữu tiệp thờ Huyền Thiên hắc Đế, đình Vĩnh


Phóc thờ Thái Tể Họ Hoàng, chùa Vĩnh Khánh ở thôn Vĩnh Phóc có
quả chuụng đỳc năm Bảo TháI thứ 7(1726) đường này mang tên
Hoàng Hoa Thỏm(1845-1913) cũn cú tên gọi là Đề Thám lãnh đạo
cuộc khởi nghĩ Yên thế (còn gọi là “Hựm Thiờng Yờn Thế” ở Bắc
Giang).
Sau đường Hoàng Hoa Thám ta đến với phố Hàng Đậu phố dàI
272 m đi từ đườngTrần Nhật Duật đến phố Phan Đỡnh Phựng(vườn
hoa vạn xuân).
Chỗ gặp nhau giữa các phố: hàng giấy Hàng Than, có chỗ rẽ
vào phố Hồng Phóc, cắt ngang Nguyễn Thiếp, thuộc quận Hoàn
Kiếm. NơI dây xưa kia cúnhiều cửa hàng bán bánh đậu xanh, đậu
2
nành, đậu đen. Thời pháp thuộc gọi là phồ Fuedesgraines(phố hạt).
Ngũai ra cũn ngừ Hàng Đậu nối phố này với phố Hồng Phỳc(nằm
bờn dóy phố chắn rẽ vào số 60 Hàng Đậu), phố này được xây dựng
trên nền đất xưa vốn thuộc thụn Phúc Lõm, tổng tá túc (sau đổ ilà
tổng Đồng Xuân).
Tiếp đó là đường Trần Nhật Duật dàI 804m chạy dọc đờ Sụng
Hồng nối tiếp đường Yên Phụ chỗ chân cầu Long Biên phía Nam
đến Trần Quang KhảI phố cột đồng hồ thuộc quận Hoàn Kiếm.Thời
pháp thuộc, đây là bến Cơlờmăng’cụ (quai’clemenecau).
Sau đó ta đến cầu Chương Dương được xây dựng gần cầu long
Biên đây là cây cầu lớn đầu tiên do các kỹ sư Việt Nam tự thiết kế
và thi công trong 2 năm đây là cây cầu được xây dựng với tiến độ
nhanh. Cầu gồm 11 nhịp dài gồm 1210m chiều rộng cầu 19,5m, cầu
có ba làn đường dành cho xe tảI nặng 30 tấn hoặc bánh xích 80 tấn,
hai làn đường bên dành cho xe nặng dưới 6 tấn, xe ụtụ 4 chỗ ngồi
và xe máy. Cầu được thông xe chính thức ngày 30.6.1985, cách cầu
Chương Dương 654m là cầu Long Biên. Đây là cây cầu do người
Pháp thiết kế và chỉ huy. Thi công cầu được khởi công năm 1898 và

hoàn thành năm 1902. Số thợ cầu là người Việt Nam bị tai nạn chết
trong thời gian làm cầu lên tới hàng nghìn người. Cầu dàI 2290m
(kể cả phần cầu dẫn). Cầu có 9 nhịp dàI, 10 nhịp ngắn, nặng 17
nghìn tấn. Về hình dáng cầu Long Biên là một cây cầu đẹp nhnf từ
xa có dáng như hình rồng lượng. Cầu có một đường sắt chạy ở
khoang giữa, 2 bên có hai đường dành cho xe thô sơ, ngoài cùng là
hai hành lang dành cho người đI bộ.
3
Từ lúc xây dựng xong đến năm 1945, cầu mang tên Đume
(paul Doumer là tờn viờn toàn quyền Pháp ở Đông Dương đã đề
xuất chương trình bắc cầu này). Sau Cách mạng tháng 8 năm 1954,
cầu được đổi tên là Long Biờn (tờn 1 làng ven sông ở gần chân
cầu).
Sau đó đến đường Nguyễn Văn Cừ thành lập năm 1998 dàI
2000m chạy từ cầu Chương Dương đến đường Ngô Gia Tù là một
đường để đI lên các tỉnh phía Bắc thuộc thị trấn Gia Lâm, huyện
Gia Lâm đường được mới mở sau khi cầu Chương Dương xây dựng.
Đi hết đường Nguyễn Văn Cừ rẽ phảI ta đến quốc lé 5 đây là
đoạn đường rất dàI nối liền từ Hà Nội – Hải Phòng, qua Hưng Yên,
HảI Dương đây là đoạn đường cao tốc đầu tiên ở Việt Nam có chất
lượng tốt đI 5 Km ta đến Bắc Ninh.
II – Giới thiệu kháI quát về Bắc Ninh
Diện tích: 804Km2
Dõn sè: 917.300 người.
4
Tỉnh lỵ: Thị xã Bắc Ninh
Các huyện: Quế Vừ, Yờn Phong, Tiên Du, Từ Sơn, Thuận
Thành, Gia Bình, Lương TàI
Dõn téc: Việt, hoa, Tày, Nùng, Mường….
Đây là một tỉnh nằm trong vùng Đồng Bằng và Trung du Bắc

Bộ (được lập vào năm 1831 thời nhà Nguyễn), phía Bắc giáp với
Bắc Giang, phía Nam giáp với hảI Dương, phía tây giáp với Hà Nội,
phía nam giáp với Hưng Yên,

hơn 30 km có quốc lé 1A chạy qua, có
nhiều sông lớn vì vậy giao thông đường bộ, đường sắt và đường
thủy đều thuận lợi. Địa hình chủ yếu là đồng bằng, có một số ngọn
núi đã đI vào thơ ca (núi Thiên Thai, sông Cầu ) nhiệt độ trung
bình khoảng 23
o
C, rất thích hợp cho du lịch.
Về văn hóa lễ hội, Kinh Bắc là vùng đất đạo Phật sớm thâm
nhập ngay từ những thế kỷ đầu công nguyên, đến đời nhà Lý, Phật
giáo đã đạt đến độ cực thịnh. Nhiều chựa, thỏp được xây dựng ở đất
Bắc Ninh và đã trở thành danh thắng, di tích lịch sử và văn hóa, là
nơI tham quan vãn cảnh của khách thập phương.
Bắc Ninh là vùng đất cổ đồng thời là một trong những chiếc
nôI của nền văn minh Việt Nam. Chớnh vựng đất này đã sinh ra
nhứng làn đIệu dân ca quan họ đặc sắc tiêu biểu cho loạI hình dân
ca trữ tình Bắc Bộ đậm đà bản sắc dõn tộc.
Bắc Ninh còn là một trong những địa phương có nhiều lễ hội.
Mỗi lễ hội đều gắn với nét đẹp văn hóa truyền thống và các trang sử
hào hùng của dõn tộc. NgoàI ra Bắc Ninh ngày nay còn có nhiều
ngành nghề thủ công nổi tiếng cả nước: gồ Đồng Kỵ, tranh Đông
Hồ, đồng ĐạI BỏI,… đó là đIều kiện cho du lịch phát triển. Trờn
5
vựng đất cổ thấm đẩm bề dày văn hóa. Mỗi độ xuân về người Kinh
Bắc lạI rộn ràng vui trẩy hội ở đây có rất nhiều lệ hội mang đậm đà
bản sắc dõn tộc: Hội Lim, Hội Đình Bảng, Hội Đền Đô, Hội Chựa
Dõu, hội Chựa Bút Thỏp….

Nội dung
III. KHẢO SÁT TUYẾN ĐIỂM DU LỊCH:
CHÙA BểT THÁP – CHÙA DÂU – LÀNG TRANH ĐễNG HỒ
1/ Chựa Bút Thỏp:
Chùa có tên là Ninh Phóc Tự, tọa lạc ở phớ Tõy thụn Bút
Thỏp, xó Đỡnh Tổ, huyện Thuận Thành cách Hà Nội cách Hà NộI
khoảng 30Km. Chùa được dựng vào thời hậu Lê (thế kỷ 17) theo
6
kiểu “Nội cung, ngoạI quốc”. NgoàI cùng là Tam Quan, tiếp đó là
các gác chuông hai tầng, tỏm mỏI, rồi đến chùa Hộ sau cùng chùa
Hộ là Thượng ĐIện có bày các bộ tượng Tam Thế, Tam Thân, tượng
phật bà Quan Âm nghìn tay, nghìn mắtcao 3,7m có 11 đầu gần 1000
tay và 1000mắt đặt trên tòa sen do rồng đôI, dưới bên là các hình
trang trí sóng nước, tôm cua, ốc rựa….Bốn gúc là bốn pho tượng
lực sĩ trông rất sống động. Trong chùa có nhiều cổ vật quý giá,
nhiều tháp đẹp, nổi tiếng nhất là thỏp Bỏo Nghiờm nơI đây đặt xỏlỵ
của thiền sư Thuyết Thuyết. Thỏp xõy bằng đá 8 mặt 5 tầng, cao 13
mđỉnh thỏp hỡnh nậm rượu. Thỏp Tụn Đức 5 tầng cõo 10m, nơI đặt
xá lỵ thiền sư mInh Hạnh – vị tổ thứ 2 ở chùa.
Chùa được trùng tu nhiều lần. Đây là một trong những ngôI
chùa danh tiếng vào bậc nhất ở Việt Nam.
2/ Chựa Dõu:
Chùa ở thôn Khương Tự (còn gọi là làng Dõu) xó Thanh
Khương, huyện Thuận Thành (cách Hà Nội 30Km tỉnh Bắc Ninh xưa
thuộc Tổng Khương, huyện Luy Lởu , quận Giao Chỉ, và sau cùng
còn gọi là huyện Siêu Loại.
Xa xưa người dân ở đây thường sống bằng nghề trồng Dâu,
nuôI tằm và cấy lúa nước. Và có lẽ chính vì vậy mà dân gian xưa
vẫn thường gọi là vựng Dõu, hoặc kẻ Dâu.
Năm 207 trước công nguyên, Triệu Đà (Trung Quốc) mang

quân sang sâm lược Việt Nam, lấy quận Giao Châu, làm thị sở –
Luy Lâu thành trung tâm đô thị.
7
Khoảng đầu công nguyên một số nhà sư từ Ên Độ đI theo
đường biển vào Luy Lâu để truyền đạo. Chựa Dõu thành một trung
tâm truyền đạo đầu tiện. Và cũng từ đây đạo Phật được truyền sang
Lạc Dương, Bành Thành (trung Quốc) và một số nơi. Với ý nghĩa
là một trung tâm Phật giáo nên ở đây đã đào tạo được 500 vị tăng
ni, dịch được 15 bé kinh, làm được hàng chục bảo tháp (su khi đó
Trung Quốc mới có Phật) có các vị cao tăng nổi tiếng đã đến đây trụ
trì như Mõu Bỏt, Tỡ-ni-da-lưu-chi, Khăng Tăng Hội, Chi Y Cương
Nương, Pháp Hiền…
Khoảng đầu công nguyên chựa Dõu chỉ là một cáI ám nhỏ, sau
phát triển lên thành một ngôI chùa, tên gọi đầu tiên là Cụ Chõu Tự
(nghĩa là một viên ngọc quý).
Đến thế kỷ thứ 2 sau công nguyên (khoảng 187 – 226, thời Sỹ
Nhiếp) hệ tư pháp được ra đời chựa Dõu thời bà Phỏp Võn nờn gọi
là Phỏp Võn Tự.
Rồi tiếp đến năm 1313 là đợi hưng công lớn nhất. Vua Trần
Nhõn Tụng đó sia Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi cho xõy lờn chựa to
cảnh lớn như ngày nay. Đó là một ngôI chùa làm theo kiểu nội
công, ngoạI quốc – chùa trăm gian, thỏp chớn tầng, cầu chín nhịp,
mà bao đời nay khách từ muôn phương vẫn thường về đây chiêm
ngưỡng. Các đời vua của các triều đạI xa xưa cũng đã từng về chựa
Dõu để rước tượng Phỏp Võn về chựa Bỏo Thiên (Hà Nội) để cầu
đảo (tức cầu mưa, cầu gió) vua Lý Thỏnh Tụng cũng đã về chựa
Dõu để cầu tự (tức cầu con) và đã đI thuyền trên sông Dâu, gặp
nguyên phi ỷ Lan. Chựa Dõu được coi là nơI rất thiêng liêng nên
8
được gọi là Diên ứng Tự (Diên là cầu, ứng là hiện. Cầu gì được

nấy).
Đó là cả một qỳa trỡnh tồn tạI và phát triển mà chúng ta có thể tóm tắt sơ
qua như vậy.
Đến với chựa Dõu ngoàI cảnh quan đồ sộ, chúng ta còn được
chiêm ngưỡng những pho tượng quý giá như Phỏp Võn, Kim Đồng,
Ngọc Nữ những bức phự đIờu chạm khắc trên những bức trống cốn,
giỏ chiờng mà ngày nay Ýt khi có được. Đến với chựa Dõu chúng ta
còn được nghe kể về sự tịch Tú Phỏp – Man Nương – chuyện kể
rằng:
Ngày xửa ngày xưa, vào khoảng đầu công nguyên, ở làng Mên
(tức làng Món Xỏ ngày nay – cỏch chựa Dõu chừng 2 cây số) cú
ụng Tu Định. Ông Tu Định sinh ra bà Man Nương và rất sùng đạo
Phật. Ông bà Tu Định đã cho bà Man Nương đI tu từ năm 12 tuổi ở
chùa Linh Quang (thuộc huyện Tiên Sơn ngày nay) ụng Khõu Đà La
là người ở bờn Tõy Trỳc (ấn Độ) sang truyền đạo và trụ trì ở đó
Mét đêm trăng thanh, gió mát, bà Man Nương ngồi tựa cửa chùa và
ngủ thiếp đi. Ông Khâu Đà la đI tụng niệm về và ngủ thiếp đi. Ông
Khâu Đà La đI tụng niệm về đã vô tình bước qua bà Man Nương, đã
xao động “lũng đó thụ thai “. Hay tin đó ông bà Tu Đinh đó trỏch
ụng Khõu Đà La tạI sao con tôI đI tu Một đêm trăng thanh, gió mát,
bà Man Nương ngồi tựa cửa chùa và ngủ thiếp đi. Ông Khâu Đà la
đI tụng niệm về và ngủ thiếp đi. Ông Khâu Đà La đI tụng niệm về
đã vô tình bước qua bà Man Nương, đã xao động “lòng đã thụ thai
“. Hay tin đó ông bà Tu Đinh đã trách ông Khâu Đà La tạI sao con
tôI đI tu
9
Ông Khâu Đà La đã trả lời: đó là đIềm trời. Con nhà ngươI sau
sẽ thành phật. Bà Man Nương thụ thai 14 tháng và đã sinh ra một
người con gáI tốt lành. Trước khi về Tõy Trỳc, ụng Khõu Đà La đã
trao cho bà Man Nương cây gậy Tầm Xích dặn là khi nào hạn hán

đem ra cắm xuống đất, sẽ cứu được mọi sinh linh. Còn người con
gáI, Ông Khâu Đà La niệm chú, gửi vào một câu Dung Thụ ở bên bờ
sông Thiên Đức và cũng đã cho bà Man Nương biết chuyện đó.
Sau khi ụng Khõu Đà La về Tõy Trỳc, hạn hán kéo dàI 3 năm
liền. Bà Man Nương đó dựng cây gậy Tầm Xích. Từ vết cắm của cây
gậy tầm Xích nước phun lên chan hòa và đã cứu được muôn vạn
sinh linh. Rồi tiếp đó lạI có một trận mưa bão khủng khiếp. Cây
Dung Thụ bên bờ sông Thiên Đức bị đổ trôI về cửa Thành Lâu. Sỹ
Nhiếp là thỏI thú người Tỗu lúc bấy giê đang trị vì ở Luy Lâu đã
định cho vớt lờn làm đền Kớnh Thiờn, nhưng thần báo mộng phảI
tạc Tứ Pháp. Sỹ Nhiếp đã cho quân quyền kộo cõy Dung Thụ lên,
nhưng không làm sao kép được. Một hôm bà Man Nương ra sông
giặt yến, nhỡn cõy Dung Thụ chợt nhớ đến con. Bà man Nương liền
gọi con: có phảI con mẹ thì vào đây. Thế là cây Dung Thụ từ từ trôI
vào. Bà Man Nương dùng dảI yếm kéo tuột lên bờ. Sỹ Nhiếp đã cho
mười người họ Đào tạc nên bốn bà tượng trưng cho mây, mưa, sấm
chớp. Đó là Phỏp Võn, Phỏp Vũ, Phỏp LụI, Phỏp ĐIện. Bốn bà thờ
ở bốn chựa khác nhau trong cùng một khu vực .
Khi tạc đến khúc giữa, những người thợ vấp phảI một hòn đá
bị mẻ rìu và họ đã vứt hòn đá đó xuống sông. Ban đêm lòng sông
sáng rực lên. Thấy chuyện lạ Sỹ Nhiếp đã ra hỏi. Thì ra người con
gáI được Khâu Đà La gửi vào cây Dung Thụ đã hóa đá. Sỹ Nhiếp
10
cho người vớt lờn nhưng không sao vít được Thì ra người con gáI
được Khâu Đà La gửi vào cây Dung Thụ đã hóa đá. Sỹ Nhiếp cho
người vớt lờn nhưng không sao vít được, Nhưng khi bà Man Nương
đI thuyền ra sụng thỡ hòn đá nhảy vào lòng thuyền và đã được đưa
lên thờ, gọi là Đức Thách Quang (Thạch là đá, Quang là sáng).
***
Hội Dâu vào ngày 8 tháng 4 hàng năm, chính là ngày bà Man

Nương sinh hạ. Hội Dâu rất đông vui đã từng có hàng nghìn thiện
nam tín nữ từ khắp nơI đổ về đây dự hội. Hội Dâu mở ra trong 3
ngày: mồng 7, mồng 8, mồng 9 âm lịch với một quy chế rất chặt
chẽ. 11 liệu Phật được rước ra ngoàI trời, đI khắp 12 làng xã trong
Tổng Khương. Các Kiệu Phật được phong ỏo trụng rất lộng lẫy uy
nghi. Trong ba ngày hội trường có rất nhiều trò vui như thi cướp
nước, thi múa trống, múa gậy, múa sư tử. Ban đêm cú hỏt chầu văn,
hát chốo, hát trống quõn…. đI theo các pho tượng rước, cũn cú cỏc
thứ phụ đạo như tán, lọng, bát bửu, cờ sai, cờ lệnh, cờ thần cựng
cỏc thú nhạc khi như thanh la, chũm chọe, tù và trống chiờng… và
tất cả đã tạo nên cho ngày hội thờm đụng vui náo nhiệt.
Về với chựa Dâu, chúng ta còn được nghe kể rất nhiều chuyện,
những truyền thuyết dân gian về trạng nguyên Mạc Dĩnh Chi, về
cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng đã đánh tan bọn Tô Định ở thành Luy
Lâu, về ả tắc, ả di, về dòng họ Nguyễn con ở làng ĐạI Tự đI cứu
thỏnh…. Mà chỉ có trực tiếp nghe kể chúng ta mới thấy hết được cáI
hay.
11
Chựa Dâu – Hội Dâu – quả là một nơI mang đậm màu sắc dõn
tộc Việt nam, là một nơI mang nhiều ý nghĩa lịch sử sâu sắc. Hội
Dõu đó thành lịch hội trong dân gian.
Mồng bảy hội Khám
Mồng tám Hội Dõu
Mồng chín đâu đâu
Cũng về hội Gióng
Hay là lịch thời tiết:
Dõm dâm Hội Khám
U ám hội Dâu
Nắng vỡ đầu hội Gióng
Hội Dõu đó trở thành tiếng gọi tâm linh đối với tất cả mọi

người:
Dù ai đi đâu, về đâu
Hễ trông thấy thỏp chựa Dõu thỡ về
Dù ai buôn bán trưm nghề
Tháng tư, tháng tám, nhớ về hội Dâu
Cũng với tầm quan trọng và ý nghĩa về chựa Dõu đó được nhà
nước Việt Nam cho hạng liệt bảo vệ kể từ ngày 28/4/1962 mà mỗi
người công dân chúng ta phảI có trách nhiệm bảo vệ, giữ gìn.
Chựa Dâu cũng có nhứng phần thờ cóng chung nhất theo như
quy dịnh của đạo phật. Thờ ở ban thờ trước nhất phảI là Tam Bảo.
Tam Bảo là nơI quan trọng nhất, có ý nghĩa thiêng liêng nhất. Đó là
nơI thờ Thích Ca Mâu Ni, thờ Tòa Cửa Long, thê Tam Thanh, Tam
Thế, thờ đức phật A Di Đà. NơI mà mọi chỳgn sinh hướng về cõi
12
Niết Bàn và đó là nơI các vị tăng ni thường xuyên sớm tối tụng
kinh, thỉnh chuông, gừ mừ.
Đối với hai bên gian Tam Bảo thường là các vị thập đIện
(mười ông vua dưới âm phủ) hai ông Hộ Pháp, Bát Bộ Kim Cương.
Rồi lan tỏa ra vòng ngoà, ở dãy hành lang hậu đường là các vị thập
bát La hán, Đức Thánh Hiền, Phật Bà Quan Âm, Đức Ông và ở nhà
thờ Tổ thờ Thánh mẫu… mỗi một pho tượng đều có tên gọi và có ý
nghĩa lịch sử riêng mà chúng ta có thể tìm hiểu qua sách báo, hoặc
chuyện kể dân gian.
Sau đây là sơ đồ mặt bằng chựa Dõu mà chúng tôI phác họa
qua để khách thập phương tiện tham quan và cóng lễ:
1. Sơ đồ mặt bằng.
2. Sơ đồ tượng Phật.
1.SƠ ĐỒ MẶT BẰNG.
13
Chú thích

(Sơ đồ mặt bằng)
A: Cổng tam quan (nay không còn) K: Nhà tổ K: Nhà tổ
B: Tiên thất N: Khu mộ sư tổ N:
Khu mộ sư tổ
C: Thập hòa phong M: Bếp + công trình phụ
M: Bếp + công trình phụ
D: Giang ống muống- Tam Bảo O: Dãy tăng phòng
Đ: Tiên đường
E: Thượng đIện
G: Điện hạ
H+H:Hai dãy hành lang
I+P: Cổng trong+ cổng ngoài
2. SƠ ĐỒ TƯỢNG PHẬT.
14
H µ n h
l a n g
H µ n h
l a n g
1
2 TIỀN ĐƯỜNG 2
0220 20
1414 14
433 3 4 4 33 3 4
THƯỢNH ĐIỆN
Thượng ĐIện
ĐIỆN HẠ
CHÚ THÍCH
(SƠ ĐỒ TƯỢNG PHẬT)
TRONG PHÁP
(1) Bốn ông Tứ Trần

*
(2) + (2): Bát Bộ Kim Cương
(2)’ + (2)’: Hai ông Hộ Pháp
*
GIAN ỐNG MUỐNG – TAM BẢO
(3); NơI thờ Thích Ca, Tam Thanh, Tam Thế, A Di Đà
(4)+ (4): Thập đIện
*
15
15 2 0 19 18 1 7 16
3
GIAN THƯỢNG ĐIỆN
(5): Pháp Vũ
(6): Ngọc Nữ
(7): Kim Đồng
(8): Chóa Đỏ
(9): Chóa trắng
(10): Sư tổ
(11): Sư tổ Tỳ Ni Đà Lưu chi
(12): Phỏp Võn
(13) + (13): Các chư vị Bồ Tát
*
HAI DÃY HÀNH LANG
(14) + (14): Thập bát La Hán
(15)+ (16): Bia hậu
DÃY HẬU ĐƯỜNG
(17); Đức Ông
(18): Thánh mẫu
(19): Phật Bà Quan âm
Tam Thế, Tam Tôn

Nam Tào, Bắc Đẩu
(20): Thánh Hiền, Bà La Sát, Đức Diệm Nhiên
3 Làng tranh Đông Hồ:
Đây là một làng nghề vẽ tranh dân gian nổi tiếng ở Việt Nam ở
làng Đông Hồ, huyện Thuận Thành.
16
Nghề vẽ tranh dân gian của làng có từ rất lâu trước đây họ vẽ
tranh phục vụ tết Nguyên Đán, ngày nay họ vẽ tranh cũn bỏn cho
các khách hàng có nhu cầu bất cứ lúc nào. Nguyên liệu để vẽ tranh
là giấy giã ( được làm cõy giú gió nhỏ lọc và cán mỏng). Màu vẽ
được lấy từ chất liệu thiên nhiên như gỏch non, lá cây, dễ cây đốt
thành than, màI ra để tạo màu nền lấp lánh, họ phảI dùng vỏ sò,
nghờu (cũn gọi là đIệp) nung nên thành vụI, ró nhỏ trộn với nhựa
cây phết đều lên giấy gió để tạo ra màu nền. Hầu hết tranh Đông Hồ
đều phản ánh ước nguyện hòa bình, Êm no, có một số tranh vẽ động
vật như: bũ, dờ, chó, lơn, mèo, chuột,… là các con vật gần gũi với
người nông dân. Đặc biệt là một số tranh với mảnh đề tàI “hứng
dừa”, “đỏm cưới chuột”, “đỏnh ghen” rất hấp dẫn khách trong và
ngoàI nước.
Hiện nay làng tranh Đông Hồ còn làm thêm đồ hàng mã đẻ
phục vụ thêm việc tế lễ.
Hàng năm chợ tranh được họp vào dịp tờts Nguyên đán tạI
đình làng Đồng Hồ. Khách ở các tỉnh và các tỉnh xa nô nức về chợ
để mua tranh. Hội chợ thi đỗ mã cũng được tổ chức tạI đình từ
chiều 14.3 đến 18/3 âm lịch hàng năm. Chợ tranh và hội chợ thi đồ
mã được tổ chức hàng năm phần nào phản ánh được nét đặc thù
trong hoạt dodọng văn hóa của người dân làng Đông Hồ.
4 Đỡnh Đụng Hồ:
Còn gọi là đình tranh thuộc làng Đông Hồ, huyện Thuận
Thành. Đình vừa là nơI thờ Thành Hoàng làng vừa là chợ tranh của

làng là nơI giao lưu buôn bán tranh với khách hàng gân fxa.
17
Đỡnh có 5 gian báI đường, 2 gian hậu cung, kiến trúc theo
kiểu chữ Đinh máI lợp ngói mũi hàI nhỏ. Đỡnh cũn giữ nhiều di vật
quý, Đỡnh Đụng Hồ không chỉ là di tích mà còn là nơI sinh hoạt
văn hóa của làng.
Hội Đông Hồ:
Diễn ra từ ngày 4 đến 7 tháng giêng tạI đình làng Đông Hồ
huyện thuận Thành đây là một lễ hội mang tính chất làng nghề nơI
sản xuất tranh dân gian nổi tiếng
IV - Giới thiệu một số lễ hội và danh thắng khác
1/ Hội Lim:
Diễn ra từ 11 đến 13 tháng giêng âm lịch hàng năm lễ hội này
gắn liền với một truyền thống văn hóa nổi tiếng của đất kinh bắc đó
là hát quan họ.
18
Cũng như các lễ hội khác hội Lim cũng có đủ các phần từ lễ
rước đến tế lễ cùng nhiều trò vui khác.
2.Hội Đình Bảng.
Thuộc nhuyện Từ Sơn thờ 3 thần là: Cao Sơn ĐạI Vương(thần
núi) Thủy Bá đạI Vương( thần sông). Bạch Lê đạI Vương(thần trồng
chọt) và 6 nhân thần là 6 vị tổ của 6 dòng họ có công dựng làng vào
thế kỷ 15. Lễ hội hàng năm diễn ra từ 12-16 tháng 3 âm lịch để
tưởng nhớ công lao các đức thần, có tổ chức một số trò trơI như
đánh cờ, đánh vật, đánh đu…
3. Hội chùa Phật Tích:
Diễn ra từ ngày mùng 4-5 tháng giêng để nhớ công ơn Lý
Thỏnh tụng, được mở để cho khách thập phương về lễ phật cầu
kinh, cầu yên, cầu phóc, đồng thời thăm quan di tích thắng cảnh
4. Lễ hội Đền Đô:

Lễ hội được tổ chức tạI đền Đô( nơI thờ 8 vị Vua nhà Lý) tạI
làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn hội diễn ra vào ngày 15 tháng 3 âm
lịch, lễ hội diễn ra trong 4 ngày, hội mở vào ngày Vua Lý TháI Tổ
lên ngôI, khách thập phương đến để cóng lễ và vãn cảnh đẹp của
đền
5. Hội Chùa Tổ:
TạI làng Vạn Lý TháI Bảo Huyện Gia Bình quê hương của
Huyền Quang (Lý Đạo tàI) một trong 3 vị sáng lập thiền phỏI trỳc
lõm đời Trần lễ hội diễn ra từ 18-22 tháng giêng.
19
6. Đền Đô:
Xây dựng vào thời Lê đền đã được trùng tu nhiều lần lớn nhất
vào thời Lê Trung Hưng thế kỷ 17 với kiểu ( nội công ngoạI quốc)
xung quanh có tường bao bọc.
7. Đền Bà Chóa Kho.
TạI làng tổ Mễ xã Vũ Ninh, Thị xã Bắc Ninh nơi có đền thờ bà
Chóa Kho, tương truyền bà là người phụ nữ Việt nam đó khộo tổ
chức sản xuất, tích trữ lương thực, trông nom kho tàng quốc gia
trong và sau chiến thắng Như Nguyệt(1076).
Hiện nay đền đang được tu sửa khang trang thu hót nhiều
khách thập phương về để xin cầu tài, cầu léc, xin may mắn.
8. Đình Làng Đình Bảng:
Thuộc huyện Từ Sơn cách Hà Nội 20Km đây là một vùng đất
nổi tiếng nhất của đất Kinh Bắc.
Đình được xây dựng 1700 đến 1736 mới hoàn thành xong.
Tũa bỏI đỡnh có hình chữ nhật, dàI 20 m, rộng 14m chia làm 7
gian, 2 cáI nằm tren nền đất đá cao bú đỏ xanh, vẻ dồ sộ của đình
thể hiện qua phần máI tỏa rộng và các cột lim hiếm thấy ở cỏc ngụI
đỡnh khỏc, có khoảng 60 cột lim lớn nhỏ, hoa văn đa dạng chạm trổ
tinh vi, chau chuốt, hàI hòa kết cấu bộ khung đỡnh khỏ vững chắc

gắn với nhau bằng các loạI mộng.
9/ Đình Cổ mễ:
20
Là Một ngụI đỡnh lớn được xây dựng vào năm 1681 tạI làng
Cổ mễ đình được dựng theo chữ nhất với 5 gian, các mạng chạm
khắc gỗ trong đình rất đẹp thể hiện theo các đề tàI Long Vân ĐạI
Hội. Kiến trúc đình mang cỏc nột kiến trúc của làng quê Việt Nam.
10. Hát quan họ:
Là thể nhạc dân gian truyền thống của vùng Đồng Bằng trung
du Bắc bộ cáI nôI của nghệ thuật này là ở Bắc Ninh.
Nguồn gốc sinh ra là do tục kết bạn, kết nghĩa giữa con người
với con người, giữa làng này với làng khác mỗi khi dịp xuân về hẹn
gặp gỡ nhau để trao đổi tình cảm.
11/ Bánh “Su Sờ” hay còn gọi là bánh “phu thờ”
Trong lễ cưới có nhiều lễ vật nhưng không thể thiếu bánh “phu
thờ” một số địa phương nói chệch là bánh “ Su Sờ”. Bánh làm từ bột
đường trắng, rừa, đậu xanh và các hương vị, nặn hình tròn, bọc
bằng hai khuôn hình vuông vừa khít, khuôn làm bằng lá dừa hoặc lá
cau vỏ để nguyên không luộc để giữa màu xanh thẫm.
Sở dĩ gọi là bánh Phu Thê vỡ nú là biểu tượng của đôI vợ chồng
thuận đẹp duyên thưa: vuụng, trũn, trong mền dẻo, ngọt ngào, thơm
tho, xanh thẫm đồng thời cũng là biểu tượng của đát trời (trời tròn
đất vuụng)có âm dương ngò hành, ruột trắng nhân vàng hai vá xanh
buộc lạI bằng sợi dây hồng Sở dĩ gọi là bánh Phu Thê vì nó là
biểu tượng của đôI vợ chồng thuận đẹp duyên thưa: vuông, tròn,
trong mền dẻo, ngọt ngào, thơm tho, xanh thẫm đồng thời cũng là
21
biểu tượng của đát trời (trời tròn đất vuông)có âm dương ngũ hành,
ruột trắng nhân vàng hai vá xanh buộc lạI bằng sợi dây hồng
V - SỰ LIÊN KẾT CÁC TUYẾN ĐIỂM – CÁC TUA DU LỊCH

CÓ THỂ TRIỂN KHAI
Có thể nói Bắc Ninh là nơI tập trung rất nhiều các di tích cổ
của nền văn hóa lâu đời của Việt Nam bao gồm cỏc đỡnh chua fcổ
kính được xây dựng rất lâu đời đặc chưng cho sù du nhập đạo phật
vào Việt nam với các lễ hụij đậm đà tính dan téc những trò chơI dân
22
gian đặc trưng cho một ngày với các loạI đồtruyền thống mà chỉ ở
đây mới có như bánh phu thê, tranh đông hồ. NơI đây rất thích hợp
cho việc tham quan và tìm hiểu giảI trí của khách .
Các lễ hội được tổ chức rất gần nhau nên rất thích hợp để mở
các chuyến du lịch dàI ngày nhưng do ở đây hệ thống các khách sạn
nhà nghỉ vẫn chưa đủ đIều kiện để phục vụ khách du lịch có thể
nghỉ qua đêm nờn nú đó hạn chế đI rất nhiều về việc thu hót khách
du lịch trong thời gian ngắn ngày tập trung tạI 1 hoặc 2 địa đIểm
trong thời gian rất ngắn hoặc có thể chỉ mở các tuyến tham quan
liên kết với cỏc vựng khỏc như Hà Nội – Bắc Ninh , HảI Phòng –
Bắc Ninh.
Các lệ hội chỉ được tổ chức vào mùa xuân nên chỉ có mùa
xuân là có thể tập trung nhiều khách du lịch như vậy. Khách du lịch
ở đây chỉ tập trung theo mùa còn lạI như đó núi ở trên hệ thống
khách sạn chưa có nên việc du lịch thăm quan còn rất hạn chế.
Các hàng hóa lưu niệm để bán cho khỏch cú độ đa dạng chưa
cao chỉ có thể tạp trung ở một số hàng hóa truyền thống làm cho
việc khai thác tàI nguyên du lịch ở đây chưa cao chưa khai thác
được hết tiềm năng.
Hệ thống giao thông đướng sỏ cũn rất khó khăn đI lạI trở ngạI
chưa thể phục vụ như cầu du lịch thường xuyên
Nói tóm lạI: Việc liên kết giữa các đIểm du lịch cũn kộm, hệ
thống các dịch vụ du lịch còn rất nghèo nàn chưa khai thác được tối
đa các tàI nguyên và chưa đủ đIều kiện để phục vụ du lịch. Bắc

Ninh hiện nay có thể ở dạng tiềm năng nó chỉ có thể tham gia vào
23
các tour du lịch ngày liên kết với các đIểm du lịch lớn khác như Hà
Nội – Hạ Long…
24

×