Lý Nhân Tông
Nhân Tông Ðời Lý, Vị Vua Anh Minh
Lý Càn Ðức (Bính Ngọ 1066 - Mậu Thân 1128) là vua thứ 4 nhà Lý, con trai duy
nhất của vua Lý Thánh Tông và Ỷ Lan phu nhân tức Linh Nhân hoàng hậu. Càn
Ðức sinh ra ở Cung Ðộng Tiên, gác Du Thiềm (gác thưởng Trăng) vào tháng
Giêng năm Bính Ngọ, niên hiệu Chương Thánh năm thứ 8 (23-2-1066), hồi vua
Thánh Tông đã ngoài 40 tuổi. Một ngày sau ngày sinh thì được lập làm Thái tử, 6
tuổi vua cha mất, được tôn làm vua, tức vua Lý Nhân Tông. Vua có tướng hảo,
tâm hiền, bản chất thông minh dũng lược. Ngay từ tuổi nhỏ được nuôi dạy rất tốt,
chăm đọc rộng các sách kinh tạng nội điển Phật giáo, sách Nho học, pháp luật và
biện pháp chính trị của pháp gia, nên sớm có trình độ kiến thức khoáng đạt uyên
bác, trí tuệ hiếu nhân, lương tri chính đại.
Bản thân và tính chất Càn Ðức Lý Nhân Tông vốn là người con nhờ phụ tinh mẫu
huyết cao khiết của cha mẹ là bậc khí tượng quang minh, bình sinh có tấm lòng
nhân đức thương người, bao dung rộng khắp, thủ đắc nhân tâm.
Lớn lên ở ngôi trị vì, nhờ triều đình có người giỏi giúp việc triều chính, bản thân
vua ngày càng trưởng thành lại biết trực tiếp điều hành, tỏ rõ bậc tài năng, nên thế
nước rất vững vàng, hưng thịnh.
Giỏi kết hợp vua tôi:
Triều đại ông có những chiến công rực rỡ đập tan âm mưu xâm lược của nhà Tống
phương Bắc, ổn định trấn giữ phương Nam, thu phục quân Chiêm thành với kỳ
công của các danh tướng như Lý Thường Kiệt, Lý Thừa Ân, Tôn Ðản, và người
giỏi việc triều chính, thực hiện lợi ích cho dân cho nước như thái sư Lý Ðạo
Thành.
Giỏi về đào tạo nhân tài:
Ông là vị vua chú trọng về văn hóa, giáo dục, mở các cuộc thi kén chọn nhân tài,
và đặc biệt ưu đãi, trọng vọng các bậc thiền sư thạc đức. Năm Ất Mão (1075) vua
cho tổ chức một khoa thi Tam trường, là khoa thi chọn người giỏi đầu tiên ở nước
ta.
Tiếp liền năm sau (1076), vua cho lập Quốc tử giám và bổ nhiệm những người
khoa bảng văn học vào dạy.
Giỏi về tổ chức cải tiến:
Ðể tổ chức lại guồng máy nhà nước, cải tiến triều đại, năm Kỷ Tỵ (1089) vua định
quan chế, chia văn võ ra làm 9 bậc, quan đại thần thì có Thái sư, Thái phó, Thái
úy, và Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu úy. Dưới các bậc ấy, bên văn có Thượng thư,
Tả Hữu Tham tri, Tả Hữu Giám nghị đại phu, Trung thư Thị Lang, Bộ Thị Lang
v.v Bên võ thì có Ðô thống, Nguyên súy, Tổng quản khu mật sứ, khu mật Tả
Hữu sứ, Kim Ngô thượng tướng, Chư vệ tướng quan v.v Ở ngoài, các Châu,
Quận, văn thì có Tri phủ, Phán phủ, Tri Châu. Võ thì có Chư lộ, Trấn trại quan. Về
quốc phòng thì ủy thác cho hai danh tướng Lý Thường Kiệt và Tôn Ðản huy động
mọi lực lượng quân sự, ứng chiến đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Giỏi về âm luật:
Theo Ðại Việt sử lược (quyển 2) thì những bài ca, khúc nhạc mà nhạc công tập
luyện đều do vua Lý Nhân Tông thân chế, sáng tác. Bởi biết thừa hưởng cái gia tài
văn hóa văn minh Thăng Long - Ðại Việt phong phú, độc đáo do ông cha ta xây
đắp lại gắn hợp với khả năng văn nghệ dồi dào của vua, cũng là người giỏi âm
nhạc, nên dàn nhạc dân tộc của ta được chạm khắc ở bệ đá chùa Phật tích là một
phức thể nhạc dân tộc hòa hợp ảnh hưởng âm nhạc Chiêm-Ấn-Hoa giao thoa diễm
tuyệt.
Ở bài văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh nói về vua Lý Nhân Tông, khắc năm
1121, của Thượng thư Bộ hình Nguyễn Công Bật viết: "Vua ta tinh tường âm nhạc
nước ngoài, chuyển nắm được đầu mối cốt yếu của mọi nghệ thuật".
Ðiều đó chứng tỏ Lý Nhân Tông hiểu biết đến nơi đến chốn âm nhạc các nước nói
trên và nhiều ngành nghệ thuật khác (trong đó có vũ đạo) để mà sáng tác các khúc
điệu mới của nhà vua.
Cuộc sống của vua thật khoan dung, giản dị, tạo ra cái vui thanh tao, chân thiện
cho thần dân vui hưởng, nhưng không đam mê, lãng phí.
Giỏi về thân dân:
Lý Nhân Tông nổi bật về đức độ thương dân, gần dân, chăm lo nâng đỡ người
nghèo khổ, kẻ thân phận tôi đòi, người già nua, góa bụa. Ông đi thăm và khuyến
hóa nông dân chăm sóc việc đồng án, xem dân cày cấy, gặt mùa, chỉ bảo ngư dân
đánh cá, khuyên dân ra sức đắp đê, đắp đập ngăn nước, đào sông, khơi ngòi. Ðộng
viên cổ vũ các nghề thủ công như nghề giầy, nghề sơn, kiến trúc và điêu khắc,
đóng thuyền, nung gạch ngói. Ông xuống chiếu cầu người nói thẳng, cầu hiền tài,
giảm tô, tha thuế, ân xá tội đồ, giúp đỡ Tăng Ni dựng chùa thờ Phật.
Về thể lực, ông khuyên dân tung cầu, đấu vật, đua thuyền, khuyên dân học chữ,
dạy quần chúng phát triển văn thơ. Bản thân vua cũng rất giỏi bắn cung nỏ, rành
binh pháp, hể nơi nào có giặc, ông thân chinh cùng binh tướng đi dẹp.
Hâm mộ Phật pháp:
Với ánh sáng trí tuệ, chiếu tỏa, Lý Nhân Tông rất thân gần quí trọng sự tham vấn,
nghiên cứu về tinh hoa Phật học cùng các vị cố vấn, quốc sư như ngài Thông Biện,
Từ Ðạo Hạnh, Minh Không. Ðặc biệt với Thiền sư Mãn Giác (tục danh Nguyễn
Trường -1052-1096) được vua ban hiệu Hoài Tín, vì lòng mến sư là người học
rộng hiểu nhiều. Vua và Hoàng thái hậu Linh Nhân Ỷ Lan dựng chùa Giác
Nguyên bên cạnh cunh Cảnh Hưng, rồi cung thỉnh Sư về trụ trì, để tiện việc tới lui
học hỏi và luận đạo. Ðến khi Sư viên tịch, vua kính lễ rất hậu, các công khanh đều
tiễn đưa, làm lễ hỏa táng, thu xá lợi của Sư, xây tháp thờ tại chùa Sùng Nghiêm
(làng An Cách), rồi ban thụy là Mãn Giác.
Tiếp nối sự nghiệp xây dựng khởi đầu của các vua Lý Thái Tổ Công Uẩn (974-
1028), Lý Thái Tông (1000-1051), và Lý Thánh Tông (1023-1072), vua thứ 4
Nhân Tông đời nhà Lý, đã có sự phát triển toàn diện của quốc gia phong kiến độc
lập thời đại bấy giờ, nhất là trong khoảng thế kỷ XI, công việc xây dựng đất nước
bắt đầu và qui mô lớn. Ý thức tốt việc tăng cường quân đội làm cho các lân bang,
nước lớn nể nang, nước nhỏ cảm phục; lại thể hiện, chính sách đứng đắn đối với
các dân tộc thiểu số, củng cố khối đoàn kết dân tộc và bảo vệ quốc gia thống nhất.
Kinh tế nông nghiệp thời đó có những bước phát triển khả quan, sức lao động và
sức kéo trong nông nghiệp được nhà nước hết sức chăm sóc. Quân lính được thay
phiên nhau hàng tháng về các địa phương tham gia sản xuất. Mở mang văn hóa
dân tộc, mở mang học tập và thi cử để đào tạo nhân tài và tuyển lựa quan lại có
năng lực cho bộ máy hành chính. Nền đại học Việt Nam cũng bắt đầu hình thành
từ đó. Thời Lý là giai đoạn thịnh đạt của Phật giáo ở nước ta, có ảnh hưởng sâu
sắc trong đời sống xã hội, in rõ dấu ấn trong mọi lĩnh vực văn hóa. Nhiều chùa
tháp mọc lên ở khu kinh thành, và từ đó có ở khắp nơi những danh lam thắng cảnh
mang sắc thái Phật giáo gắn bó với thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Các công trình kiến thiết đời Lý, gồm có lâu đài, cung điện của nhà vua, thành lũy
của Nhà nước, tự viện nhà chùa, đền thờ các anh hùng dân tộc mà đặc điểm là ở
qui mô to lớn, mỹ quan vượt hẳn các thời trước và các thời sau đó.
Năm Ðinh Mùi vào tháng chạp âm lịch (31/1/1128), vua Lý Nhân Tông mất, thọ
62 tuổi, là vị vua nhà Lý trị vì lâu nhất, ở ngôi 56 năm, đổi hiệu năm đến 8 lần.
Ông sống kiệm ước, khi sắp mất có lời di chúc nổi tiếng khiêm nhường: "Ta đã ít
đức, không lấy gì làm cho trăm họ được yên vui, làm sao khi chết đi lại để cho
nhân dân mình mặc sơ gai, sớm tối khóc than, giảm ăn uống, tuyệt cúng tế, làm
cho lỗi ta nặng thêm, thì thiên hạ bảo ta là người thế nào? Việc tang thì sau 3 ngày
bỏ áo trở nên thôi thương tiếc. Việc an táng cần phải tiết kiệm, không xây lăng mộ
riêng, nên chôn ngay bên cạnh Tiên đế".
Thật quả như lời đánh giá ca ngợi của nhà bác học Lê Quí Ðôn (1726-1784, thời
Lê Mạt) đối với Lý Nhân Tông: "Xứng đáng là vị anh quân đời Lý".