Luận văn tốt nghiệp
+ Thời gian cuối những năm 1980 đầu những năm 1990, quỹ thu đóng
góp BHXH do Bộ tài chính quản lý và tính vào thu ngân sách nhà nước
(NSNN) mà không hình thành quỹ BHXH độc lập.
2. Giai đoạn từ năm 1995 đến nay.
Từ cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ trước, đất nước ta
bước vào thời kì đổi mới. Nền kinh tế từng bước chuyển sang vận hành theo
cơ chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của
Nhà nước.
Năm 1995 đánh dấu thời kì phát triển mới về sự nghiệp BHXH. Ngày
01/01/1995 Bộ luật lao động có hiệu lực thi hành, trong đó có chương XII về
BHXH. Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 ban hành điều lệ BHXH đối với
người lao động với nội dung cơ bản đổi mới thể hiện trên các mặt:
- BHXH dựa trên nguyên tắc có đóng có hưởng, đối tượng tham gia
BHXH bao gồm cả NLĐ làm công ăn lương trong các doanh nghiệp cơ quan,
tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế. Điều này tạo sự bình đẳng giữa những
NLĐ làm việc trong các thành phần kinh tế khác nhau.
- Đã hình thành được quỹ BHXH trên cơ sở đóng góp của 3 bên:
NSDLĐ đóng 15%, NLĐ đóng 5% và sự bảo hộ của Nhà nước, quỹ BHXH
được thành lập độc lập với NSNN. Với sự cải cách này, BHXH ở Việt nam đã
đảm bảo thực hiện nguyên tắc có đóng có hưởng, dần dần xóa bỏ bao cấp từ
Nhà nước về BHXH.
- Tổ chức thực hiện chế độ BHXH, với 5 chế độ: ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất.
- Về tổ chức quản lý: Hệ thống BHXH Việt nam được hình thành từ
Trung ương đến cấp huyện và thống nhất bước vào hoạt động từ 01/10/1995.
Cũng vào năm 1995 sau khi Nghị định 12/CP ra đời Chính phủ đã ban
hành Nghị định 19/CP vào ngày 16/2/1995 về việc thành lập BHXH Việt nam
Luận văn tốt nghiệp
với những chức năng, nhiệm vụ quyền hạn tổ chức, thực hiện chính sách và
quản lý quỹ BHXH. Từ đây, quỹ BHXH Việt nam được quản lý thống nhất
trong cả nước.
Tiếp theo là các Nghị định: số 45/CP Ngày 15/7/1997 của Chính phủ
ban hành Điều lệ BHXH đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ
quan, binh sĩ Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Nghị định số
09/1998/NĐ - CP ngày 23/1/1998 của Chính phủ, sửa đổi bổ sung Nghị định
số 50/CP ngày 26/7/1995 của Chính phủ về chế độ sinh hoạt phí đối với cán
bộ xã phường, thị trấn.
Ngày 24/1/2002 Chính phủ đã có quyết định số 20/2002/QĐ-TTg về
việc sát nhập BHYT vào BHXH Việt nam. Ngày 6/12/2002 Chính phủ ban
hành nghị định số 100/2002/NĐ - CP quy định chức năng nhiệm vụ và quyền
hạn, cơ cấu tổ chức của BHXH sau khi BHYT Việt nam sát nhập vào BHXH
Việt nam (thay thế Nghị định 19/CP ngày 16/02/1995) có chức năng thực hiện
chính sách BHXH và quản lý quỹ BHXH (bao gồm cả BHYT) theo quy định
của pháp luật. Sự thay đổi này đã tạo ra nhiều thuận lợi và cũng gây không ít
khó khăn cho ngành BHXH nước ta trong việc tổ chức thực hiện chế độ
BHXH và quản lý thống nhất trong cả nước.
Năm 2003 BHYT Việt nam sát nhập vào BHXH Việt nam. Theo Nghị
định số 01/2003/NĐ - CP ngày 09/01/2003 của Chính phủ về việc sửa đổi bổ
sung điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP đã mở rộng
quyền lợi tham gia BHXH đến mọi NLĐ thuộc các thành phần kinh tế.
Nhìn chung: việc cải cách BHXH là phù hợp với tình hình thực tế
nước ta khi mà xu hướng của Đảng và Nhà nước ta là tiến hành thực hiện mở
rộng chính sách BHXH đến mọi người dân, từng bước tạo điều kiện thuận lợi
cho NLĐ ở các thành phần kinh tế tham gia BHXH. Có thể thấy trong giai
đoạn này:
Luận văn tốt nghiệp
+ Đối tượng tham gia BHXH từng bước được mở rộng: Thông qua
bảng số liệu dưới đây cho thấy được hoạt động của chính sách BHXH ở nước
ta trong thời gian vừa qua
Bảng 1: Tình hình tham gia BHXH từ năm 1995-2004.
Chỉ tiêu
Năm
Số ngư
ời tham gia
BHXH
(Nghìn người)
Lượng tăng giảm
tuyệt đối liên hoàn
(Nghìn người)
Tốc độ tăng trư
ởng
liên hoàn (%)
1995 2.276 …. …
1996 3.222 946 41,56
1997 3.560 338 10,49
1998 3.755 195 5,48
1999 3.959 204 5,43
2000 4.276 317 8,01
2001 4.476 200 4,68
2002 4.845 369 8,24
2003 5.387 542 11,19
2004 5.820 433 8,04
(Nguồn: BHXH Việt nam )
Qua số liệu bảng 1, cho thấy: việc thực hiện chính sách BHXH ở nước
ta ngày một có hiệu quả do đó số người tham gia BHXH không ngừng tăng
lên với số lượng năm sau cao hơn năm trước, số người tham gia tăng lên rõ rệt
theo từng năm. Tuy số lượng người tham gia BHXH năm sau cao hơn năm
trước nhưng tốc độ tăng trưởng liên hoàn lại tăng không đều và có xu hướng
giảm dần. Có những năm số lượng người tham gia tăng lên rất cao: như năm
1996 số người tham gia BHXH tăng so với năm 1995 là 41,56% tương ứng
946 nghìn người là năm có số người tham gia BHXH cao hơn cả, năm 2003
số người tham gia BHXH tăng so với năm 2002 là 11,19% tương ứng 542
Luận văn tốt nghiệp
nghìn người nhưng lại có những năm số lượng người tham gia BHXH tăng
lên rất ít như: năm 1998 tốc độ tăng trưởng là 5,48% tương ứng 195 nghìn
người về số tuyệt đối, năm 2001 tốc độ tăng trưởng của số người tham gia
BHXH là 4,68% tương ứng là 200 nghìn người.
Như vậy, năm 1995 có khoảng 2.276 nghìn người tham gia BHXH thì
đến năm 2004 số người tham gia BHXH tăng lên hơn 5.820 nghìn người. Nếu
tính trong cả 10 năm qua số người tham gia BHXH đã tăng lên là 3.544 nghìn
người. Đồng thời cũng đã giải quyết cho hơn 1.256 nghìn người nghỉ hưu và
trợ cấp BHXH một lần thì bình quân mỗi năm tăng 47 vạn người bằng khoảng
1,2% nguồn lao động xã hội.
Từ số liệu bảng 1 còn cho thấy, việc thực hiện và triển khai chính sách
BHXH ở nước ta ngày một mở rộng đến NLĐ ở các thành phần kinh tế khác
nhau. Số lượng người tham gia BHXH ngày một tăng cho thấy được sự nhận
thức của NLĐ về BHXH đã được nâng lên rất nhiều; đồng thời cũng thể hiện
chính sách của Đảng và Nhà nước ngày càng quan tâm, chăm lo và đáp ứng
nhu cầu của người dân khi tham gia. Điều này càng thể hiện rõ hơn khi mà
nền kinh tế nước ta đang trong xu hướng cổ phần hóa các doanh nghiệp,
chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng
Xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước.
+ Tách bạch hoạt động của sự nghiệp thu chi quản lý quỹ BHXH ra
khỏi chức năng quản lý Nhà nước. Quỹ BHXH được hạch toán độc lập trên
cơ sở và nguyên tắc của cân bằng thu chi nhằm: Đảm bảo sự công bằng và
bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ BHXH cho mọi NLĐ.
+ Quỹ BHXH tập trung thống nhất độc lập với NSNN thực hiện theo
cơ chế tự quản của 3 bên tham gia NLĐ, NSDLĐ và sự bù thiếu của Nhà
nước là phù hợp với tình hình thực tế ở nước ta từ đó tạo điều kiện cho sự chỉ
đạo kịp thời của Chính phủ được tập trung, kịp thời. Đồng thời trở thành
Luận văn tốt nghiệp
nguồn quỹ dự phòng rất quan trọng giúp Nhà nước đầu tư phát triển kinh tế,
xã hội. Tạo thêm nhiều chỗ làm mới cho người lao động và thực hiện điều tiết
xã hội trong lĩnh vực BHXH.
+ Hệ thống BHXH Việt nam được quản lý tập trung thống nhất từ
Trung ương đến địa phương nhằm chuyên môn hoá việc tổ chức thực hiện các
chính sách BHXH. Hệ thống tổ chức mới của BHXH Việt nam đã đi vào nền
nếp với tổ chức bao gồm ba cấp:
- Cấp Trung ương là BHXH Việt nam.
- Cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là cấp tỉnh)
trực thuộc BHXH Việt nam.
- Cấp quận huyện, thị xã thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện)
là BHXH huyện, thị xã, thị trấn, quận, thành phố trực thuộc trung ương.
Có thể nói, mô hình tổ chức thống nhất quản lý các chế độ BHXH về
một đầu mối là phù hợp với tình hình thực tế nước ta, giảm bớt phiền hà cho
cho chủ sử dụng lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho NLĐ có điều kiện tham
gia đầy đủ và nhanh chóng vào hệ thống BHXH. Đây cũng là một thành công
bước đầu trong công cuộc đổi mới BHXH ở nước ta theo cơ chế của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, được các nước trên thế giới, trong
khu vực và tổ chức lao động quốc tế - ILO đánh giá là hoạt động có hiệu quả.
II. NGUỒN HÌNH THÀNH QUỸ BHXH Ở VIỆT NAM.
1. Trước năm 1995.
Ở Việt nam, BHXH được thực hiện từ những năm 50, 60 của thế kỷ
XX. Khi đó, do điều kiện nền kinh tế - xã hội và điều kiện lịch sử nên đối
tượng tham gia BHXH chỉ mới bao gồm công nhân viên chức Nhà nước, lực
lượng vũ trang và người lao động trong các doanh nghiệp quốc doanh. Tất cả
những người tham gia BHXH đều không phải đóng góp BHXH. Vì vậy
Luận văn tốt nghiệp
nguồn quỹ BHXH lúc này được lấy từ ngân sách Nhà nước và Nhà nước
không lập ra quỹ BHXH. Thực chất trong thời kì này, Nhà nước có quy định
các doanh nghiệp Nhà nước hàng tháng phải trích nộp một tỷ lệ % trong tổng
quỹ lương vào ngân sách Nhà nước để chi trả cho các chế độ BHXH. Do đó
tạo nguồn cho quỹ BHXH trong thời kì này là từ quỹ lương của doanh nghiệp
và chủ yếu từ thuế thông qua ngân sách Nhà nước.
2. Từ năm 1995 đến nay.
Thực hiện các quy định của Bộ luật lao động, BHXH ở nước ta cũng có
được đổi mới về cơ bản. Đối tượng tham gia BHXH không chỉ có công nhân
viên chức Nhà nước và lực lượng vũ trang mà còn những người lao động làm
việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và mới đây là cả
những người làm việc ở cấp xã, phường (dưới đây gọi chung là người lao
động). Để được hưởng các chế độ của BHXH thì khi tham gia BHXH người
lao động phải đóng một tỷ lệ nhất định trong tổng quỹ tiền lương của doanh
nghiệp.
Theo điều lệ hiện hành nguồn Quỹ BHXH ở nước ta được hình thành
từ các nguồn sau:
a) NSDLĐ đóng bằng 17% so với tổng quỹ tiền lương tháng của những
người tham gia BHXH trong đơn vị.
b) NLĐ đóng bằng 6% tiền lương tháng để chi các chế độ hưu trí, ốm đau,
thai sản, TNLĐ - BNN và tử tuất.
c) Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH
đối với NLĐ.
d) Thu từ các nguồn khác như: nguồn tài trợ từ nước ngoài, nguồn lãi từ
đầu tư tài chính phần quỹ nhàn rỗi của quỹ BHXH…
Căn cứ vào Nghị định số 100/2002/NĐ - CP ngày 06/12/2002 của
Chính phủ và căn cứ vào Quyết định số 02/2003/QĐ-TTg ngày 02/01/2003
Luận văn tốt nghiệp
của Thủ tướng Chính phủ ban hành về quy chế quản lý tài chính đối với
BHXH Việt nam, ngày 26/5/2003 BHXH Việt nam đã có quyết định số
722/2003/QĐ-BHXH- BT quy định cụ thể về việc quản lý thu BHXH bắt
buộc như sau:
Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc (NSDLĐ và NLĐ).
Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc theo quy định tại khoản 1,
điều 1 Nghị định số 01/2003/NĐ- CP ngày 09/01/2003 của Chính phủ
bao gồm:
NLĐ làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn đủ từ 3 tháng trở
lên và hợp đồng không xác định thời hạn trong các doanh nghiệp, cơ quan tổ
chức sau:
- Doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà
nước, bao gồm: doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoạt động công
ích…
- Doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Đoanh nghiệp như:
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh…
- Doanh nghiệp của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
- Hộ sản xuất, kinh doanh cá thể, tổ hợp tác xã.
- Các cơ quan đơn vị hành chính sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác, lực lượng vũ trang, các tổ
chức, Đảng, đoàn thể, các hội quần chúng tự trang trải về tài chính …
- Trạm y tế xã phường, thị trấn.
- Cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế tại Việt nam, trừ
trường hợp Điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam kí
kết hoặc tham gia có quy định khác.
Cán bộ công chức viên chưc theo Pháp lệnh cán bộ, công chức
Luận văn tốt nghiệp
NLĐ, xã viên làm việc và hưởng tiền công theo hợp đồng lao động từ
đủ 3 tháng trở lên trong các hợp tác xã thành lập, hoạt động theo Luật hợp tác
xã.
NLĐ làm việc tại các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức có thời hạn dưới
3 tháng khi hết hạn hợp đồng lao động mà NLĐ tiếp tục làm việc hoặc giao
kết hợp đồng lao động với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đó thì phải tham
gia BHXH bắt buộc.
Đối với những đối tượng tham gia này thì mức thu đóng góp BHXH
là 20% tiền lương hàng tháng trong đó NSDLĐ đóng 15% tổng quỹ tiền
lương tháng và NLĐ đóng 5% tiền lương tháng.
Đối với đối tượng tham gia là quân nhân, công an nhân dân thuộc
diện hưởng lương và hưởng sinh hoạt phí: theo Điều lệ BHXH đối với sỹ
quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sỹ quan, binh sỹ Quân đội nhân dân và
Công an nhân dân ban hành kèm theo Nghị định số 45/CP ngày 15/7/1995 của
Chính phủ thì mức đóng cho đối tượng này cũng là 20% tiền lương tháng
trong đó NSDLĐ đóng 15% tổng quỹ tiền lương tháng và NLĐ đóng 5% tiền
lương tháng.
Đối tượng là Cán bộ xã phường, thị trấn hưởng sinh hoạt phí được
quy định tại Điều 3 Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23/01/1998 của
Chính phủ, Điều 7 Nghị định số 40/1999/NĐ-CP ngày 23/6/1999 của
Chính phủ và Điều 1 Nghị định số 46/2000/NĐ - CP ngày 12/9/2000 của
Chính phủ: thì mức đóng được quy định cho những đối tượng này là 15%
mức sinh hoạt phí hàng tháng, trong đó Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn
đóng 10% mức phí sinh hoạt tháng; cán bộ xã, phường, thị trấn đóng 5% mức
phí sinh hoạt tháng.
Đối tượng là NLĐ đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo quy
định tại Nghị định số 152/1999/NĐ-CP ngày 20/9/1999 của Chính phủ:
Luận văn tốt nghiệp
thì mức đóng bằng 15% tiền lương tháng đóng BHXH liền kề trước khi ra
nước ngoài làm việc còn trong trường hợp nếu chưa tham gia BHXH ở trong
nước thì mức đóng hàng tháng bằng 15% của hai lần mức tiền lương tối thiểu
do Nhà nước quy định tại từng thời điểm.
Đối tượng tự đóng BHXH theo nghị định số 41/2002/NĐ - CP ngày
11/4/2002 của Chính phủ và đối tượng quy định tại khoản b điểm 9 mục
II thông tư số 07/2003/TT-BLĐTBXH ngày12/03/2003 của Bộ lao động -
Thương binh và Xã hội: Mức đóng cho những đối tượng này là 15% mức
tiền lương tháng trước khi nghỉ việc.
Đối tượng tham gia BHYT bắt buộc (NSDLĐ và NLĐ).
NLĐ trong danh sách lao động thường xuyên, lao động hợp đồng
từ đủ 3 tháng trở lên làm việc trong:
- Các doanh nghiệp Nhà nước, kể cả các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực
lực lượng vũ trang.
- Các tổ chức kinh tế thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan
Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội.
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, doanh
nghiệp liên doanh…. Các tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế tại Việt nam,
trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam kí
kết hoặc tham gia có quy định khác.
- Các đơn vị tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh có từ sử dụng lao động
từ 10 lao động trở lên.
Đối với những đối tượng trên thì mức đóng là 3% tiền lương hàng
tháng trong đó NSDLĐ đóng 2% tổng quỹ lương tháng còn NLĐ đóng 1%
tiền lương tháng.
Cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan hành chính sự
nghiệp, trong tổ chức Đảng, chính trị xã hội, cán bộ xã phường thị trấn