bộ giáo dục và đào tạo Bộ y tế
Trờng đại học y hà nội
******************************
Nguyễn thị bạch yến
Chuyên đề:
dịch tễ học Lỵ trực khuẩn Shigella ở việt nam
Chuyên ngành:
M số:
Ngời hớng dẫn:
GS.TS. Dơng Đình Thiện
Hà nội 2008
1
bộ giáo dục và đào tạo Bộ y tế
Trờng đại học y hà nội
******************************
Nguyễn thị bạch yến
Chuyên đề:
dịch tễ học Lỵ trực khuẩn Shigella ở việt nam
Chuyên ngành: Vệ sinh học x hội và Tổ chức y tế
M số: 3.01.12
Ngời hớng dẫn:
GS.TS. Dơng Đình Thiện
Hà nội 2008
2
Mục lục
Phần I: Mở đầu 3
Phần II: Một số Vấn đề chung về bệnh lỵ do Shigella 5
2.1. Khái niệm về bệnh lỵ do Shigella 5
2.2. Những đặc điểm sinh vật hoá học của vi khuẩn Shigella 5
2.3. Sức đề kháng của Shigella, nguồn lây truyền bệnh do Shigella 7
2.4. Biểu hiện lâm sàng và điều trị lỵ do Shigella 9
2.5. Miễn dịch đối với nhiễm khuẩn do Shigella 16
Phần III: Dịch tễ học của lỵ do Shigella 21
3.1. Tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong, gánh nặng của lỵ do Shigella 21
3. 2. Sự phân phối các chủng Shigella theo nhóm huyết thanh và theo typ huyết thanh35
Phần IV: Tình hình dịch tễ lỵ do Shigella ở Việt Nam 37
4.1. Tỷ lệ mắc lỵ trực khuẩn do Shigella 37
4.2. Tử vong vì lỵ do Shigella 38
4.3. Yếu tố liên quan đến tỷ lệ mắc bệnh 38
Phần V: Một số vấn đề chung về dự phòng và khống chế bệnh .45
5.1. Các biện pháp dự phòng chung 45
5.2. Biện pháp dự phòng bằng vắc xin 48
Phần VI: Kết luận 50
Tài liệu tham khảo 52
3
Phần I:
Mở đầu
Mặc dù tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong do tiêu chảy trên toàn thế giới đ giảm từ 4,6 triệu
ngời tử vong năm 1982 xuống 3,3 triệu ngời năm 1992 và đến năm 2003 thì số tử vong
do tiêu chảy còn là 2,5 triệu ngời. Tiêu chảy cấp vẫn là một nguyên nhân hàng đầu gây
bệnh và gây tử vong ở tất cả các lứa tuổi và đặc biệt là ở là trẻ em tại các nớc đang phát
triển [33]. Từ những năm 1970, chơng trình bồi phụ nớc và điện giải qua đờng uống
đợc áp dụng rộng ri trong điều trị tiêu chảy ở các nớc đang phát triển và chơng trình
này đ có những đóng góp có ý nghĩa quan trọng làm giảm tỷ lệ trẻ tử vong mất nớc do
tiêu chảy. Tuy vậy với tiêu chảy do nhiễm độc tố vi khuẩn nh tiêu chảy Shigella hay còn
gọi là lỵ do Shigella thì chơng trình này chỉ mang lại một lợi ích rất nhỏ [19,20]. Vì vậy
cho đến nay lỵ do Shigella vẫn là một vấn đề sức khoẻ công cộng quan trọng, là một trong
những bệnh nhiễm trùng đ góp phần tạo nên gánh nặng bệnh tật cho toàn thế giới, đặc
biệt là ở các nớc đang phát triển.
Hàng năm có khoảng 11 triệu trẻ em bị tử vong do mắc các bệnh nhiễm trùng trong đó
99% ca tử vong là ở các nớc đang phát triển. Trong số trẻ bị tử vong do nhiễm khuẩn thì
tiêu chảy là nguyên nhân đứng hàng thứ hai với 3,1 triệu trẻ em dới 5 tuổi và 80% số tử
vong là trẻ dới 2 tuổi. Lỵ do Shigella là một nguyên nhân quan trọng gây tử vong trong
số trẻ bị chết vì tiêu chảy. Theo ớc tính trong nghiên cứu tổng quan các y văn gần đây
nhất của Tổ chức Y tế Thế giới [26], hàng năm có khoảng 165 triệu lợt ngời mắc lỵ do
Shigella trong đó 99% là xuất hiện ở các nớc đang phát triển và cũng tại các nớc đang
phát triển 69 % lợt mắc bệnh là ở trẻ em dới 5 tuổi. Trong 1,1 triệu ngời bị tử vong do
nhiễm vi khuẩn Shigella ở các nớc đang phát triển thì 60% số ca tử vong là trẻ dới 5
tuổi. Bức tranh này phù hợp với gánh nặng rộng lớn về tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong ở
trẻ dới 3 tuổi ở các nớc đang phát triển [26].
Do đặc tính lây lan và biểu hiện hệ thống của bệnh, do tác động xấu về dinh dỡng và do
xu hớng kéo dài tính trạng bệnh cùng với sự xuất hiện các chủng vi khuẩn kháng đa
4
kháng sinh, lỵ do Shigella là thể bệnh nặng nhất so với bệnh tiêu chảy do các nguyên
nhân khác. Ngoài việc gây nên bệnh dịch địa phơng, Shigella còn có thể gây nên những
đợt bùng nổ dịch và thậm chí gây thành đại dịch [22].Với số lợng lớn bệnh nhân đến
khám và điều trị tại các cơ sở y tế, đây chính là nguyên nhân cho khoản chi tiêu lớn phần
ngân sách vốn đ hạn hẹp cho y tế.
Phấn đầu để làm giảm tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong do các bệnh nhiễm trùng nói chung
và lỵ do Shigella nói riêng vẫn là một trong những u tiên của các nớc đang phát triển
trên thế giới, đặc biệt là các nớc đang phát triển trong đó có Việt Nam.
Nghiên cứu Chuyên đề dịch tễ học lỵ trực khuẩn Shigella nhằm mục tiêu sau:
1. Tìm hiểu một số khía cạnh liên quan đến lỵ trực khuẩn Shigella.
2. Mô tả dịch tễ học và một số kết quả nghiên cứu về bệnh lỵ do Shigella trên thế giới
nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
3. Tổng quan một số biện pháp dự phòng bệnh lỵ hiện nay khi tình trạng ngày càng
gia tăng các vi khuẩn lỵ kháng thuốc kháng sinh.
5
Phần
II:
Một số Vấn đề chung về bệnh lỵ do Shigella
2.1. Khái niệm về bệnh lỵ do Shigella
Lỵ do Shigella là một bệnh nhiễm khuẩn đờng ruột cấp tính mà nguyên nhân là do vi
khuẩn Shigella. ở thể điển hình, bệnh nhân đi phân lỏng nhiều lần, phân lẫn máu và chất
nhày, bệnh nhân có sốt, đau quặn bụng, mót dặn kèm theo biểu hiện nhiễm trùng, nhiễm
độc. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi, cả nam và nữ nhng thờng hay gặp hơn ở trẻ em,
đặc biệt là trẻ em lứa tuổi mẫu giáo, nhà trẻ thì bệnh dễ gây tổn thơng nhất và để lại hậu
quả nặng nề [22]. Hầu hết trẻ em có thể hồi phục trong vòng 5-7 ngày sau khi bị lỵ nhng
trẻ suy dinh dỡng thì có thể bị rối loạn tiêu hoá kéo dài hơn.
ở một số ngời đặc biệt
là ở trẻ em và ngời già, bệnh thờng nặng hơn và diễn biến xấu hơn do vậy phải
điều trị tại bệnh viện. Tỷ lệ tử vong ở trẻ em, đặc biệt trẻ em dới 5 tuổi thờng cao
hơn ở ngời lớn tuổi. Một số ngời lành có thể mang vi khuẩn lỵ và những ngời
này sẽ truyền bệnh sang ngời khác.
Bệnh lỵ do Shigella thờng là thể cấp tính. Một tỷ lệ nhỏ bệnh nhân có thể trở thành mn
tính, những bệnh nhân này thỉnh thoảng lại bị tiêu chảy và thờng xuyên thải vi khuẩn
qua phân. Bệnh hay xảy ra thành những vụ dịch rải rác hoặc gây thành các vụ dịch địa
phơng ở những nơi dân c đông đúc, tình trạng vệ sinh kém, bệnh tăng về mùa hè và liên
quan đến xử lý phân, nớc, rác không hợp vệ sinh.
2.2. Những đặc điểm sinh vật hoá học của vi khuẩn Shigella
Shigella thuộc họ Enterobacteriace do các nhà khoa học Nhật bản phát hiện ra
cách đây hơn 100 năm, là một loại vi khuẩn gây tiêu chảy ở ngời và có thể truyền
từ ngời nọ sang ngời kia. Shigella là trực khuẩn mảnh dài 1- 3
M
MM
M
bắt màu Gram
âm, không có vỏ và không sinh nha bào ( vi sinh vật học), không có lông vì vậy
6
không di động. Shigella là vi khuẩn hiếu kị khí tuỳ tiện nhng phát triển tốt trong
môi trờng hiếu khí. Shigella lên men glucose, hầu hết không sinh hơi; không lên
men lactose trừ S.sonnei có khả năng lên men lactose chậm (sau 2-4 ngày mới
thấy); không phân giải ure, không sinh H
2
S và không giáng hoá tryptophan thành
indol
[1,10]
.
Tất cả các chủng Shigella đều có kháng nguyên thân O, một số có kháng nguyên K,
tất cả đều không có kháng nguyên H. Shigella gây bệnh chủ yếu là do nó có khả
năng xâm nhiễm vào lớp tế bào biểu mô ruột.
Shigella đợc chia thành 4 nhóm A (S. dysenteriae), B (S. flexneri), C (S. boydii) và
D (S. sonnei). Mỗi nhóm huyết thanh có t một đến nhiều type huyết thanh khác
nhau:
- S. dysenteriae có 1-15 type huyết thanh, tuýp 1 (S. dysenteriae) có tên là trực
khuẩn Shiga. S.Shiga ngoài nội độc tố còn sinh ra ngoại độc tố mạnh.
- S. flexneri có 1-6 type huyết thanh với 15 sub type.
- S. sonnei chỉ có 1 type huyết thanh.
- S. boydii có 1-18 type huyết thanh [35].
Trong 4 chủng Shigella chỉ có 3 chủng là S. Dysenteriae type 1, S. flexneri và S.
sonnei có vai trò gây bệnh chủ yếu. S. sonnei và S. boydii thờng gây nên thể bệnh
tơng đối nhẹ, bệnh nhân có thể bị tiêu chảy mất nớc hoặc đi ngoài ra máu.
Shigella sonnei là loại gây bệnh chủ yếu ở các nớc công nghiệp hoá. Shigella
sonnei chiếm trên 2/3 chủng Shigella đợc phát hiện ra ở Mỹ. S. flexneri 2a là
chủng chiếm u thế trội trong các khu vực có dịch, chiếm khoảng 50% số trờng
hợp cấy phân dơng tính. Đây là chủng gây nhiễm theo đờng miệng cao nhất [35],
là nguyên nhân chủ yếu gây nên dịch lỵ ở các nớc đang phát triển. Shigella
dysenteriae type 1 là chủng gây nên dịch và đại dịch. Shigella dysenteriae type 1
gây nên thể bệnh nặng, có thể dẫn đến những biến chứng đe doạ đến tính mạng,
7
thờng kháng đa kháng sinh và có thể gây thành những vụ dịch lan rộng và thậm
chí là những đại dịch có tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong rất cao.
S. dysenteriae type 1 khác với các chủng Shigella khác ở 4 đặc tính quan trọng:
- sản xuất ra độc tố mạnh (Shiga toxin);
- gây bệnh nặng hơn, kéo dài hơn và dễ tử vong hơn các trờng hợp tiêu chảy
do chủng Shigella khác;
- khả năng kháng thuốc kháng sinh thờng xuyên hơn so với các chủng
Shigella khác và;
- gây nên dịch rộng lớn, thờng trong khu vực với tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong
cao.
Phân bị tiêu chảy sẽ có 10
6
-10
8
vi khuẩn Shigella trên 1 gram. Khi phân bài tiết ra
ngoài, vi khuẩn sẽ rất nhạy cảm với điều kiện sống và bị chết rất nhanh, đặc biệt là
khi tiếp xúc với môi trờng khô hoặc tiếp xúc trực tiếp dới ánh sáng mặt trời [23].
2.3. Sức đề kháng của Shigella, nguồn lây truyền bệnh và sinh bnh hc ca
nhim khun Shigella
2.3.1.Sức đề kháng của vi khuẩn
Trực khuẩn lỵ chịu đựng các yếu tố ngoại cảnh tơng đối tốt. Nó có thể sống ở đất
vài tháng, ở nớc từ vài giờ đến 100 ngày, ở ruồi nhặng 2 đến 3 ngày, ở sữa và chế
phẩm của sữa thì vi khuẩn không những tồn tại lâu mà còn phát triển đợc (
Shigella Sonnei), ở phân 10 đến 15 ngày. Vi khuẩn ít chịu đựng đợc ánh sáng,
nhiệt độ nên chết dới ánh sáng mặt trời sau 30 phút và ở nớc sôi chỉ sống đợc
10 phút [10].
2.3.2. Nguồn lây truyền bệnh
Cơ thể con ngời là vật chủ tự nhiên cho Shigella. Ngời là nguồn lây bệnh duy
nhất gồm những ngời mắc bệnh thể cấp, mn và đặc biệt là ngời lành mang bệnh.
Theo Xakharova trong số trẻ em b lỵ mn tính do S. Flexneri có 49% ngời lành
8
mang vi khuẩn tới 6 tháng, 37% ngời mang vi khuẩn từ 6 tháng tới 1 năm, 9%
ngời mang khuẩn từ 1 năm đến 1,5 năm và 5% ngời mang khuẩn tới 2 năm [17]
Phơng thức lây truyền bệnh chủ yếu là tiếp xúc qua đờng phân-miệng và chỉ một
lợng nhỏ (khoảng 10 vi khuẩn) cũng khiến cho Shigella lan truyền rất nhanh.
Ngời bệnh trong thời kỳ hồi phục thải nhiều vi khuẩn trong phân (6 tuần sau khi
khỏi bệnh) và lây truyền cho những ngời xung quanh. Bệnh lây trực tiếp qua tiếp
xúc (tay bẩn bị nhiễm khuẩn) hoặc có thể lây giám tiếp qua trung gian nh ruồi
nhặng, gián, dùng chung đồ và có thể lây qua thức ăn, nớc uống Chỉ cần 10 vi
khuẩn là có thể gây bệnh đối với S.dysenteriae và 10
2
đến 10
3
vi khuẩn là có thể gây
bệnh đối với S. flexneri và S.sonnei, do khả năng và tỷ lệ sống sót của vi khuẩn khi
đi qua dạ dày cao, đặc biệt là ngời giảm ái toan ở dạ dày thì có nguy cơ bị mắc
bệnh cao hơn [17]. Bệnh cũng còn gặp ở những ngời đồng tính luyến ái nam [24].
2.3.3. Cơ chế sinh bệnh
Trực khuẩn Shigella theo thức ăn, nớc uống xâm nhập vào cơ thể ngời bệnh qua
đờng tiêu hoá (qua hàng rào acid của dạ dày, do trực khuẩn có khả năng đề kháng
với axit) xuống ruột non và c trú ở ruột non trong khoảng thời gian 24 đến 72 giờ
sau đó thâm nhập vào đại tràng. Nhờ khả năng xâm nhập và nội độc tố, Shigella
bám và xâm nhập vào tế bào thợng bì của đại tràng, nhân lên nhanh chóng trong
các tế bào biểu mô ruột, lan từ tế bào này sang tế bào khác gây nên phản ứng viêm
cấp tính tại lớp niêm mạc đại tràng, đây là giai đoạn khởi phát.
Vi khuẩn chết giải phóng nội độc tố gây xung huyết và tạo thành các mảng hoại tử.
Sau đó các mảng hoại tử bong ra tạo nên những ổ loét nông ở thành đại tràng trên
nền viêm cấp tính chứa nhiều chất nhầy và bạch cầu đa nhân. Tổn thơng loét lúc
đầu khu trú ở đại tràng Sigma và trực tràng, sau 4 ngày có thể lan lên đoạn trên của
đại tràng. Trờng hợp nặng tổn thơng lan khắp khung đại tràng và cuối hồi tràng.
Nội độc tố còn tác động lên thần kinh giao cảm gây co thắt và tăng nhu động ruột.
9
Những tác động này khiến cho bệnh nhân đau quặn bụng, buồn đi ngoài và đi ngoài
ra nhiều lần, phân có nhầy lẫn máu. Có hai loại độc tố do Shigella tạo ra là ShET1
v ShET2. Các độc tố này đợc coi là các yếu tố trung gian gây nên tiêu chảy trong
biu hin lâm sng ban ủu của bệnh. Các chng Shigella khác nhau thì to ra
lng ủc t khác nhau trong đó chng S. dysenteriae 1 to ra ủc t có ủc lc
mnh nht gi l ủc t Shiga. Độc tố Shiga không tham gia vào quá trình gây độc
của S.dysenteriae nhng nó làm tăng mức độ trầm trọng của bệnh thông qua khả
năng phá huỷ lòng mao mạch gây nên thiếu máu cục bộ ở tổ chức niêm mạc ruột.
Cuối cùng là quá trình hồi phục của tế bào biểu mô niêm mạc ruột, các tế bào mới
đợc sinh ra từ sự phân chia của các tế bào lớp đáy niêm mạc ruột. Nếu phản ứng
viêm và đáp ứng miễn dịch có hiệu quả làm hạn chế sự lan tràn của Shigella thì cứ
4-6 ngày lại có một lớp tế bào biểu mô mới thay cho các tế bào cũ chết đI, điều này
giải thích vì sao lỵ trực khuẩn có khả năng tự khỏi trong vòng 1-2 tuần ở những
ngời khoẻ mạnh mắc bệnh [23].
Giải phẫu bệnh thấy tổn thơng chủ yếu ở đại tràng, niêm mạc ruột dày lên, xung
huyết, phù nề, có những ổ loét rộng, viêm xớc. Các tổn thơng không xuyên sâu
xuống lớp dới niêm mạc do đó rất ít khi gây thủng ruột (đây là điểm khác với lỵ
do amíp gây ra). Bệnh nhân đau quặn bụng do viêm ruột và tăng kích thích co bóp
của đại tràng, tổn thơng ở phần trực tràng gần hậu môn gây kích thích mạnh làm
cho các bệnh nhân mót rặn (do viêm trực tràng).
2.4. Biểu hiện lâm sàng và điều trị lỵ do Shigella
2.4.1. Biểu hiện lâm sàng bệnh do Shigella
Bệnh lỵ trực khuẩn Shigella thờng xảy ra qua các giai đoạn sau đây [18,28]:
10
2.4.1.1. Thời kỳ ủ bệnh
Thời kỳ ủ bệnh thờng ngắn từ 1/2 ngày đến 7 ngày, bình thờng từ 1 đến 4 ngày,
bệnh nhân thơng không có biểu hiện triệu chứng gì đặc biệt.
2.4.1.2. Thời kỳ khởi phát
Thời kỳ khởi phát thờng diễn ra rất đột ngột hoặc từ từ trong khoảng thời gian rất
ngắn với các triệu chứng chính nh sau:
- Sốt cao 39-40 độ, bệnh nhân rét run, trẻ em có thể có co giật.
- Đau quặn bụng, mệt mỏi, mặt hốc hác, biểu lộ tình trạng nhiễm trùng, nhiễm
độc cấp rất rõ rệt.
- Bệnh nhân rất mệt mỏi, buồn nôn, nôn, đau nhức các cơ toàn thân.
2.4.1.3. Thời kỳ toàn phát
- Hội chứng lỵ biểu hiện rất rầm rộ:
+ Đau bụng: Lúc đầu đau âm ỉ quanh vùng rốn rồi lan ra toàn bụng theo
khung của đại tràng, cuối cùng tạo nên các thành cơn đau quặn bụng khu trú
ở hố chậu trái làm bệnh nhân muốn đi ngoài. Cơn đau này có thể dữ dội.
+ Mót rặn liên tục: làm bệnh nhân luôn có cảm giác muốn đi ngoài. Các cơn
mót rặn là do co thắt cơ tròn hậu môn chứng tỏ là có tổn thơng niêm mạc tại đó
(nếu tổn thơng cao hơn thì sẽ không có triệu chứng đó). Những trờng hợp
nặng cơ tròn mất phản xạ co bóp gây sa trực tràng, bệnh nhân không mót rặn
nữa mà hậu môn mở to ra.
+ Đi ngoài nhiều lần với phân có tính chất đặc biệt (phân này do các chất bài
tiết của niêm mạc trục tràng tạo nên).
* Phân có mũi nh lòng trắng trứng và có thêm dây máu
* Hoặc đám mũi giây máu nh một bi đờm
* Hoặc phân toàn nớc màu hồng nh nớc rửa thịt
11
* Bệnh nhân đi ngoài nhiều lần tuỳ theo nặng hay nhẹ trong một ngày
có thể đi từ 20-60 lần. Tuỳ theo bệnh nặng nhẹ, có thể trong 24 giờ
bệnh nhân đi ngoài từ 10 đến 100 lần.
- Hội chứng nhiễm trùng:
+ Bệnh nhân vẫn tiếp tục sốt cao, môi khô, lỡi bẩn.
+ Thể trạng suy sụp nhanh chóng, ngời mệt mỏi hốc hác và mất nớc nặng
+ Một số trờng hợp có thể sốt nhẹ.
+ Xét nghiệm máu: Cô đặc máu, bạch cầu tăng cao.
Thời kỳ toàn phát kéo dài chừng 5 đến 7 ngày có thể đến 10 ngày
2.4.1.4. Thời kỳ hồi phục
- Nếu đợc điều trị đúng, kịp thời bệnh nhân nhanh chóng hồi phục, bệnh
nhân có thể khỏi bệnh sau 2-4 ngày. Các triệu chứng giảm và hết dần.
+ Sốt lui dần, hết sốt.
+ Đau quặn giảm rồi hết hẳn.
+ Phân dần trở lại thành khuôn
- Nếu không đợc điều trị bệnh nhân có thể diễn biến nh sau:
+ Có thể sau 1-2 tuần bệnh tự khỏi
+ Có thể chuyển thành thể nặng: sốt cao, ỉa máu nhiều, rối loạn nớc điện
giải, có thể tử vong (thờng do S. Shiga) [18].
2.4.2. Các thể lâm sàng
2.4.2.1. Thể nhẹ
Thờng do trực khuẩn S. flexneri, S. sonnei và S. boydii
- Hội chứng nhiễm trùng nhẹ hay không rõ.
- Biểu hiện nh ỉa chảy thờng.
- Bệnh tự giảm nhanh.
12
- Có thể dễ lan thành dịch do không để ý.
2.4.2.2. Thể nặng
Hay gặp ở trẻ với tình trạng sức khỏe và nuôi dỡng kém nh suy dinh dỡng,
ngời già sức đề kháng kém, thờng do trực khuẩn Shigella Shiga gây ra. Bệnh
nhân có thể bị nặng ngay làm tử vong sau 24 hoặc 48 giờ hoặc khởi phát nh thể
trung bình sau đó chuyển sang thể nặng.
- Đại đa số bệnh nhân có biểu hiện hội chứng lỵ rất nặng, rầm rộ và liên miên
khiến cho bệnh nhân không đợc nghỉ ngơi. Bệnh nhân đi ngoài phân có
máu hoặc có mủ lẫn máu. Bệnh nhân hốc hác, mất nớc nhanh chóng, lỡi
khô, mạch nhỏ huyết áp hạ và có thể dẫn đến truỵ tim mạch.
- Bệnh thờng phục hồi rất chậm, dễ có các biến chứng và sau khi khỏi bệnh
thì gày yếu và mệt nhọc tới vài tuần.
- Nếu không đợc xử trí tích cực, bệnh nhân có thể tử vong sau trong vòng
thời gian từ 3-7 ngày.
2.4.2.3. Thể rất nặng (tối cấp)
Thể này thờng rất hiếm xảy ra.
- Bệnh nhân đi ngoài nhiều lần, phân nhầy toàn máu.
- Bệnh nhân có thể chết trong vài ngày đầu với hôn mê, truỵ tim mạch
2.4.2.4. Thể của trẻ em
Biểu hiện lâm sàng nhẹ, hay kéo dài và chỉ có ỉa chảy thờng (có thể do hệ thần
kinh không ổn định, KST đờng ruột sẵn có ở đờng tiêu hoá)[18]
2.4.3. Biến chứng
2.4.3.1. Biến chứng tại ruột
+ Thể hoại chất: Phân bệnh nhân màu nâu sẫm nặng mùi do từng mảng niêm
mạc ruột bị hoại th màu xám hoặc đen, tình trạng bệnh nhân rất trầm trọng.
13
+ Xuất huyết: Bệnh nhân đi ngoài máu tơi nhiều, da xanh, lạnh, mạch nhanh,
ấn bụng đau
+ Thủng đại tràng, thờng hiếm gặp: xuất hiện muộn, ở thể bệnh nặng.
2.4.3.2. Biến chứng toàn thân
- Thời kỳ toàn phát:
+ Có thể xuất hiện hội chứng tả, đột ngột tử vong trong vài giờ (bệnh nhân đi
ngoài ra chất rửa màu vàng, nhiều, liên tục). Theo Remlinger và Dumas là do
viêm thợng thận cấp.
+ Viêm tuyến mang tai kèm ta.
- Thời kỳ hồi phục:
+ Phù: xuất hiện khoảng 1 tháng rỡi sau khỏi, phù trắng mềm, có thể toàn
thân (không do viêm thợng thận, không để lại di chứng)
- Thấp khớp lỵ: chỉ xuất hiện ở thời kỳ lại sức 2-3 tuần sau khi khỏi lỵ, có thể
gặp ở tất cả các thể bệnh (không chỉ ở thể nặng) và bất kỳ loại trực khuẩn
nào cũng có thể gây ra (S. Shiga, S. Flexneri). Bệnh nhân sốt, nhức đầu, qui
đầu chảy mủ, đau mắt, chảy máu cam và có biểu hiện vào các khớp. Các
biểu hiện khỏi nhanh chỉ còn thấp khớp kéo dài vài tuần (Hội chứng
Fiessinger leroy reiter: Hội chứng mắt niệu đạo khớp) [18].
2.4.4. Chẩn đoán bệnh lỵ trực khuẩn Shigella
Chẩn đoán dơng tính:
- Dịch tễ học: Bệnh xảy ra đồng loạt ở nhiều bệnh nhân trong một địa bàn hẹp,
trong thời gian ngắn.
- Lâm sàng: Hội chứng lỵ + hội chứng nhiễm khuẩn
- Cấy phân tìm trực khuẩn lỵ: Lấy chất nhầy máu, nuôi cấy trong môi trờng
thạch máu khi cha dùng kháng sinh.
14
- Soi phân tơi thấy có nhiều hồng cầu và bạch cầu đa nhân.
- Soi trực tràng: Thấy hình ảnh viêm lan toả cấp tính niêm mạc trực tràng, có
vết loét nông, có thể xuất huyết
- Chẩn đoán huyết thanh: Chỉ sử dụng từ ngày thứ 7 với S. Shiga tỉ lệ 1/50, S.
Flexneri tỉ lệ 1/150 là có giá trị (một số bệnh nhân mắc bệnh không có biểu
hiện lâm sàng thì kết quả cũng dơng tính).
- Sử dụng phơng pháp miễn dịch huỳnh quang phát hiện vi khuẩn trong phân
(dùng chẩn đoán cấp) là phơng pháp chẩn đoán hiện đại cũng đ đợc áp
dụng ở nhiều nớc hiện nay.
2.4.5. Điều trị lỵ trực khuẩn do Shigella
2.4.5.1. Bồi phụ nớc điện giải cho bệnh nhân [17],[26]
- Thể nhẹ: Cho bệnh nhân uống Oresol
- Thể nặng: Bệnh nhân mất nớc nhiều, truỵ mạch, hạ HA, truyền dịch, chủ
yếu truyền các dung dịch đẳng trơng nh dung dịch Ringerlactat.
2.4.5.2. Điều trị đặc hiệu [26]
- Kháng sinh có vai trò rút ngắn thời gian bệnh và giảm ngắn thời gian thải vi
trùng ra phân.
- Nếu có thể sự lựa chọn kháng sinh nên dựa trên số liệu về đọ nhậy của kháng
sinh đối với các chủng Shigella phân lập đợc ở từng khu vực. Nếu số liệu về
chủng đặc hiệu tại địa phơng đó không sẵn có thì có thể sử dụng các thông
tin từ các nớc láng giềng. Sự lựa chọn kháng sinh cần phải:
- Có hiệu quả kháng lại chủng vi khuẩn đang lu hành tại địa phơng gồm cả
Sd1
- Chấp nhận đợc
15
- Sẵn có tại địa phơng hoặc dễ mua. Nếu trong trờng hợp khó mua thì cần
u tiên cho ca bệnh nặng hoặc cho những ca bệnh có nguy cơ bị tử vong.
- Trớc kia ngời ta thờng dùng Sulfamid, Chloramphenicol, Ampixilin,
Cotrimoxazole, Axit Nalixidic
để điều trị nhng ngày nay tất cả các loại này đ
bị kháng thuốc một cách rộng ri. Ciprofloxacin trớc đây đợc sử dụng nh
một loại thuốc dự phòng trong điều trị lỵ do Shigella thì giờ đây là thuốc
đợc sử dụng cho tất cả các bệnh nhân đi ngoài ra máu ở mọi lứa tuổi. Mặc
dù Quilolone còn gây nên tác dụng phụ trên súc vật thí nghiệm nhng ở
ngời Quilolone đợc coi là một loại thuốc nhạy cảm với bệnh này.
- Ngoài Ciprofloxacin một số loại kháng sinh khác nh fluoroquilolone,
pivmecillinam(amdinocillin pivoxil) và cefatriaxone hiện đang đợc coi là
kháng sinh có hiệu quả trong điều trị lỵ do Shigella kháng đa kháng sinh ở
tất cả các lứa tuổi. Ngoài ra còn một số loại kháng sinh khác có thể đợc sử
dụng nhng các loại kháng sinh này chi phí cao, kháng thuốc nhanh và thiếu
tiện lợi vả lại bằng chứng về hiệu lực của các thuốc này còn hạn chế nên
chúng sẽ đợc dùng nh kháng sinh thay thế khi chủng Shigella tại địa
phơng nào đó kháng với Ciprofloxacin. Kháng sinh đợc sử dụng trong điều
trị lỵ do Shigella nh sau:
Liều lợng và thời gian điều trị
Loại kháng sinh
Ngời lớn Trẻ em
Phác đồ I
Ciprofloxacin
15 mg/kg/ x 2 lần/ngày x 3 ngày
Dùng theo đờng uống
500 mg x 2 lần/ngày x 3 ngày
Dùng theo đờng uống
Phác đồ II
Pivmecillinam
20 mg/kg/ x 4 lần/ngày x 5 ngày
Dùng theo đờng uống
100 mg x 4 lần/ngày x 5 ngày
Dùng theo đờng uống
16
Cefatriaxone
50-100 mg/kg/ x 1 lần/ngày IM x
2-5 ngày.Dùng theo đờng uống
Azithromycin
6-20 mg/kg/ x 1 lần/ngày x 1-5
ngày. Dùng theo đờng uống
1-1,5g/1 lần/ngày x 1-5 ngày
Dùng theo đờng uống
2.4.5.3. Điều trị hỗ trợ
- Cho bệnh nhân uống thuốc hạ sốt.
- Giảm đau (atropin sulfat)
- Tăng cờng sức khỏe, trợ lực, vitamin nhóm B
- Thụt tháo cho bệnh nhân
- Cho thêm thuốc an thần
- Trẻ em co giật: dùng Diazepam hay Phenobacbital.
- Cho bệnh nhân ăn thức ăn dễ tiêu hoá nh ăn cháo thịt, kiêng mỡ, cay, với
trẻ nhỏ tiếp tục cho bú mẹ bình thờng.[26]
Thông thờng bệnh nhân bị lỵ Shigella có thể đợc điều trị khỏi trong thời gian từ 5
đến 7 ngày. Tuy nhiên với trẻ em và ngời già, bệnh có thể nặng hơn và thời gian
điều trị phục hồi hoàn toàn có thể kéo dài hơn [17,24]. ở những ngời khoẻ mạnh,
lỵ thờng đợc điều trị dứt điểm sau 5-7 ngày mà không để lại hậu quả gì. Trờng
hợp cấp tính mà đe doạ đến tính mạng thờng gặp ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ bị rối
loạn dinh dỡng ở các nớc đang phát triển.
2.5. Miễn dịch đối với nhiễm khuẩn do Shigella
Mọi ngời đều mang tính cảm nhiễm với Shigella, không có miễn dịch tự nhiên. ở
các địa phơng có dịch bệnh, tỷ lệ hiện mắc lỵ do Shigella cao nhất trong 5 năm
đầu sau đó giảm đi và điều này cho thấy rằng đáp ứng miễn dịch đ phát sinh sau
17
khi cơ thể lại tiếp xúc trong thời thơ ấu. Tỷ lệ mới mắc giảm đi cùng với khoảng
thời gian ở tại các khu vực có nguy cơ cao nh trại lính.
Sau khi mắc bệnh lỵ trực khuẩn hoặc nhiễm trùng thể ẩn, trong máu xuất hiện các
kháng thể đặc hiệu. Tuy nhiên hiệu lực bảo vệ của các kháng thể này rất kém.
Vai trò bảo vệ chủ yếu là nhờ IgA tiết tại ruột. Nghiên cứu về miễn dịch tiết trong
lỵ trực khuẩn đ đợc tiến hành sớm, thuộc vào những công trình đầu tiên trong
lịch sử nghiên cứu miễn dịch nói chung.
Miễn dịch đạt đợc sau khi mắc bệnh là miễn dịch dịch thể với kháng thể chống
kháng nguyên và độc tố của vi khuẩn và miễn dịch tế bào. Miễn dịch sẽ phụ thuộc
vào các chủng Shigella cụ thể (trực tiếp với kháng nguyên O của vi khuẩn). Bằng
chứng có tính thuyết phục về miễn dịch tự nhiên của từng chủng huyết thanh cụ thể
xuất phát từ nghiên cứu thuần tập theo dõi dọc trẻ em ở Chile thì thấy ở những trẻ
đ nhiễm Shigella đ mang lại hiệu lực miễn dịch cho 76% khi bị nhiễm lại chủng
đó. Hơn thế nữa, ở những ngời trởng thành tự nguyện tham gia thử nghiệm
nhiễm chủng Shigella sonnei và Shigella flexneri thì có khả năng kháng lại cùng
chủng đó một cách có ý nghĩa (hiệu lực bảo vệ là 64-74%). Vì miễn dịch đối với
Shigella tuỳ thuộc vào các tuýp huyết thanh cụ thể, nên các tác dụng bảo vệ của vắc
xin ở bất kỳ khu vực nào sẽ phụ thuộc vào dự lu hành của chúng Shigella mang
tuýp huyết thanh đó và phụ thuộc vào đặc điểm dịch tễ học quan trọng của các
chủng khác nhau ở khu vực đó. Nh vậy biết đợc sự phân bố theo tuýp huyết
thanh trong các trờng hợp phân lập đợc sẽ là vai trò quan trọng trong việc phát
triển vắc xin mới, cập nhật và đánh giá khả năng bền vững của việc đa vào sử
dụng tại chơng trình y tế công cộng [23].
18
2.6. Vấn đề kháng thuốc kháng sinh của trực khuẩn lỵ Shigella
Vào những năm đầu thập kỷ 1940, lần dầu tiên thuốc Sulphonamide đợc sử dụng,
tất cả các chủng Shigella đều nhạy với loại thuốc này và đây là loại thuốc đợc lựa
chọn số một trong điều trị lỵ do Shigella. Cuối những năm 1940, Tetracycline và
sau đó là Chloramphenicol đ đợc sử dụng để điều trị lỵ do Shigella bởi vì
Sulphonamide không còn hiệu quả trong điều trị. Rất nhanh sau đó ngời ta đ
quan sát thấy cả hai loại thuốc này đều kháng lại Shigella. Sự kháng thuốc của
Shigella đối với Tetracycline đ tăng nhanh chóng kể từ lần đầu tiên vào năm 1953
ngời ta thấy xuất hiện sự kháng thuốc rõ ràng của S. dysenteriate đối với
Tetraxyclin và hầu hết các yếu tố kháng Tetracycline đợc xác định là do các đơn
vị gen di truyền. Một cuộc điều tra đợc thực hiện trên 600 chủng thu thập từ 6
nớc đ chứng minh rằng sự kháng Tetraxylin của Shigella là do sự lan truyền của
chủng này và do sự vận chuyển gen ngang.
Vào những năm 70-80, lúc đầu là Ampicillin và sau đó là Co-trimoxazol đ đợc
đa vào thị trờng và trở thành thuốc đầu tay cho điều trị lỵ trực khuẩn. Tuy nhiên
vào những năm 1980, trong thời gian dịch xảy ra tại miền Đông ấn Độ, trực khuẩn
S.dysenteriae type 1 phân lập đợc đ cho thấy chủng này kháng lại hầu hết các
loại kháng sinh, trừ Axit Nalidixic là loại còn có hiệu quả cao trên lâm sàng nhng
sau đó S.dysenteriae type 1 phân lập đợc trong đợt bùng phát dịch tại khu vực
Tripura đ cho thấy chủng vi khuẩn này kháng lại cả A xit Nalidixic. Vào cuối
những năm 1980, các thuốc thuộc nhóm Fluoroquinolone (Norfloxaccin,
Ciprofloxacin và Ofloxaccin) đ đợc đa vào sử dụng trong điều trị lỵ trực khuẩn
do Shigella và đợc nhận thấy có hiệu quả rất tốt trên lâm sàng, ngay cả với các
loại trực khuẩn kháng lại đa kháng sinh nh S. dysenteriae type 1 cũng rất nhậy
cảm với nhóm thuốc này. Gần đây điều tra đợt dịch bùng phát tại Siliguri, Diamond
Harbour, Kolkata và Aizwai của ấn Độ và Bangladesh đ cho thấy rằng mức độ
19
kháng thuốc của trực khuẩn lỵ rất cao ngay cả với Norfloxaccin, Ciprofloxacin và
Ofloxaccin. Chỉ còn có Ceftrioxome và Azithromycin là còn có hiệu quả trên lâm
sàng để điều trị các loại trực khuẩn kháng đa kháng sinh. Tại Bangladesh ngời ta
quan sát thấy thuốc Pivmecillinum là có tác dụng điều trị tốt [21,24,26].
Điều trị lỵ do Shigella đang gặp nhiều khó khăn do sự kháng kháng sinh ngày càng
lan rộng của vi khuẩn đối với các loại kháng sinh thờng đợc sử dụng nh
ampicilin, co-trimoxazole, tetraxyclin, a xit nalidixic và gần đây là norfloxacin và
ciprofloxacin. Khả năng lan truyền kháng thuốc có thể xảy ra do sự lan rộng của
các chủng cụ thể nh đ thấy ở chủng S.dysenteria tuyp 1.
Các kháng sinh thuộc nhóm quinolones đặc biệt là các fluoroquinolne là những
thuốc có hiệu quả rất cao trong điều trị lỵ trực khuẩn nhng cũng bắt đầu có biểu
hiện kháng thuốc. Sự kháng lại nhóm thuốc này là do đột biến nhiễm sắc thể của
Shigella.
Hiện nay Shigella là một trong những vi khuẩn kháng thuốc ở mức độ cao nhất
trong số các vi khuẩn gây bệnh thờng gặp. Tỷ lệ kháng đa kháng sinh của Shigella
phổ biến trên toàn thế giới. Nghiên cứu trên tổng số 277 bệnh nhân dơng tính với
Shigella điều trị tại Bệnh viện Dhaka, Bangladesh trong thời gian từ tháng 1 năm
2000 đến tháng 9 năm 2001, kết quả cho thấy axit Nalidixic bị các chủng Shigella
kháng nhiều nhất: S. dysenteriae type 1 (100%), sau đó là S. flexneria 2a (69%) và
S. flexneria 2b (52%) [25]. Năm 2002 có sự bùng phát kháng đa kháng sinh của S.
dysenteriae type 1 tại một số vùng của miền Đông ấn Độ, trong đó có miền Nam
và miền Bắc bang Tây Bengal. Tại Mizoram và Matlab của Bangladesh cũng có sự
bùng phát kháng các kháng sinh vào năm 2003.
20
Tại khu vực Tây Thái Bình Dơng, mức độ kháng kháng sinh của S. flexnerie trong
khu vực rất cao đối với một số kháng sinh thông dụng nh Ampiciline (59-96%),
Cloramphenicol (54-90,1%) và Co-trimoxazol 910,5-96%) và các kháng sinh thuộc
nhóm Quinolon vẫn là loại đợc lựa chọn cho điều trị lỵ vì có tỷ lệ kháng thấp.
21
Phần III:
Dịch tễ học của lỵ do Shigella
ở các nớc trên thế giới, gánh nặng toàn cầu
của nhiễm khuẩn do Shigella
Để có thể ớc tính một cách chính xác gánh nặng của bệnh lỵ do Shigella,
hai khía cạnh quan trọng đ đợc xem xét đến: a) Khía cạnh lâm sàng cho thấy
mức độ nghiêm trọng của tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong do vi khuẩn gây nên và b)
Khía cạnh sinh học cho thấy sự phân bố của các type huyết thanh của các chủng
Shigella ở các khu vực khác nhau [23].
3.1. Tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong, gánh nặng của lỵ do Shigella
Vào những năm cuối của thập kỷ 60, đại dịch lỵ Shiga (S. dysenteria type 1) đ
xuất hiện nh những làn sóng ở Trung Mỹ, ở Nam và Đông Nam á và ở Sub-
Shaharan Châu Phi
và
thờng gây ảnh hởng đến dân c ở các nớc và các khu vực
có những bớc ngoặt về chính trị hoặc đang chịu những thiên tai, những thảm họa
do thiên nhiên gây nên. Khi đại dịch Shigella dysenteriae type 1 tràn vào những
khu vực dân c này thì mức độ tấn công của bệnh rất mạnh mẽ và lỵ do Shigella
thờng trở thành nguyên nhân hàng đầu gây tử vong
[
23
,
26
]
.
Nhiễm khuẩn do Shigella cũng xuất hiện ở các nớc công nghiệp hoá. Bệnh thờng
xảy ra ở trẻ em tuổi nhà trẻ và mẫu giáo tại các trung tâm chăm sóc trẻ ban ngày, ở
tù nhân tại các trại giam và ở những nơi này đôi khi bệnh bùng phát thành dịch lớn.
ở một số khu vực thành phố, sự lan truyền của bệnh vẫn còn tồn tại. Shigella còn là
tác nhân gây bệnh phổ biến gây tiêu chảy ở những ngời phải đến các khu vực kém
phát triển trên thế giới. ở những ngời này lỵ do Shigella có xu hớng trầm trọng
hơn bệnh tiêu chảy do nội độc tố của Escberichia coli, nguyên nhân hàng đầu gây
hội chứng tiêu chảy cho những ngời đi du lịch hoặc đi công tác xa[26].
22
Nhiễm khuẩn giữa Shigella với dịch HIV đ và đang để lại những hậu quả nghiêm
trọng. Tiêu chảy và lỵ mn tính là triệu chứng thờng gặp ở những ngời nhiễm
HIV; Shigella còn gặp nhiều ở những ngời nam đồng tính mà bị viêm đại tràng.
Mặc dù điều ngày không có nghĩa là nguy cơ bị lỵ do Shigella tăng lên hay không
là do có kèm theo nhiễm HIV. Ngời ta chỉ nhận thấy rằng suy giảm miễn dịch do
HIV khiến cho bệnh cảnh lâm sàng của lỵ do Shigella nặng hơn. Bệnh nhân bị
nhiễm HIV có thể bị tiêu chảy kéo dài hoặc nhiễm khuẩn đờng ruột tái phát do
Shigella mặc dù là bệnh nhân đ sử dụng đủ liều kháng sinh. Bệnh nhân cũng có
thể phải đối mặt với tăng nguy cơ nhiễm Shigella trong máu mà có thể tái phát, có
thể trở nên nặng hoặc có thể tử vong[26].
3.1.1. Lỵ do Shigella ở các nớc đang phát triển:
Năm 1967 đến 1970, lần đầu tiên, dịch do trực khuẩn lỵ đ đợc báo cáo ở các
nớc Trung Mỹ. Sau đó sự lan rộng của loại bệnh nhiễm trùng này đ đợc báo cáo
ở nhiều nớc châu á nh Bangladesh (1972-1978, 2003), Sri Lanka (1976),
Maldives (1982), Nepal (1984-1985), Bhutan (1984-1985) và Myanmar (1984-
1985). ở ấn Độ dịch xảy ra chủ yếu ở miền nam, bao gồm các địa phơng nh
Vellore (năm 1972-1973, 1997-2001), đảo Andaman và Nicobar và ở Sub-Shaharan
Châu Phi. Thời gian gần đây vào năm 2002-2003 đ bùng phát dịch do Shigella
dysentyriae type 1, với sự kháng thuốc kháng sinh ở các vùng Siliguri, Diamond
Harbour, Kolkata và Aizwal, dịch cũng đồng thời xảy ra tại Bangladesh trong thời
gian này [23,24,26].
3.1.1.1. Dịch bệnh địa phơng ở trẻ dới 5 tuổi ở các nớc đang phát triển:
Shigella là một nguyên nhân quan trọng gây tiêu chảy ở mọi lứa tuổi, đặc biệt là ở
trẻ em dới 5 tuổi do vậy việc ớc tính tỷ lệ mắc Shigella xuất phát từ gánh nặng
của tiêu chảy.
23
Phơng pháp ớc tính của Bern và cộng sự đ đợc sử dụng trong nghiên cứu tổng
quan kết quả của 22 nghiên cứu dọc trên hệ thống giám sát chủ động bằng theo dõi
2 tuần 1 lần trong 1 năm ở cộng đồng với số dân ổn định ở 12 nớc đang phát triển
thuộc châu á, Phi và Mỹ la tinh trong khoảng thời gian từ 1981 đến 1987 để ớc
tính số đợt mắc tiêu chảy ở trẻ dới 1 tuổi và trẻ từ 1 đến 4 tuổi ở các nớc này. Kết
quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mới mắc trung bình 1 năm là 3,9 đợt/1 trẻ thuộc
nhóm trẻ 0-11 tháng tuổi và 2,1 đợt/1 trẻ trong 1 năm cho trẻ từ 1- 4 tuổi. Nhân số
đợt tiêu chảy trung bình trên 1 trẻ với số trẻ tại các nớc trong phạm vi nghiên cứu,
kết quả cho thấy có 487,5 triệu đợt mắc tiêu chảy ở nhóm 0 -11tháng và 945 triệu
lợt mắc tiêu chảy ở nhóm 1-4 tuổi. Số liệu thu thập đợc vào giữa những năm
1980 ở cộng đồng nghèo ngoại ở thành phố Santiago, Chi lê đ cho thấy trong số
đợt mắc tiêu chảy ở nhóm 0-11
tháng, 88,2% số đợt mắc tiêu chảy thể nhẹ không
đến khám tại các cơ sở y tế nhng đợc phát hiện nhờ giám sát chủ động tại nhà,
10,3% là bệnh nhân ngoại trú điều trị tại trung tâm cấp cứu và 1,5% là bệnh nhân
phải nhập viện (số liệu không công bố của R.Lagos). Trong nhóm trẻ 1-4 tuổi,
91,9% đợt tiêu chảy đợc phát hiện do giám sát tại nhà, 7,9% là bệnh nhân ngoại
trú điều trị tại trung tâm cấp cứu và 0,2% là bệnh nhân phải nhập viện. Số liệu này
đợc khẳng định trong một khu vực khác thuộc Chi lê sử dụng số liệu từ 1995 đến
1996 (R.Lagos và P.Abrego M.M.Levine, số liệu không công bố). Vì không có các
số liệu tơng tự ở các nớc không thuộc khối các nớc công nghiệp hoá nên số liệu
ở Chi lê đợc sử dụng để ớc tính số trờng hợp mắc tiêu chảy chung cho các
nhóm tuổi, các cá thể mà không đến khám và điều trị tại các trung tâm hoặc không
nằm viện [26].
Tỷ lệ tiêu chảy do Shigella ở trẻ từ 0-11 tháng tuổi tại 3 địa điểm nghiên cứu:
Tổng
quan kết quả nghiên cứu từ các nớc đang phát triển, ngời đ xác định đợc tỷ lệ
tiêu chảy do Shigella ở các nhóm tuổi 0-11 tháng với tần xuất ở trung vị là 3,2%
24
(trong khoảng từ 2,2 đến 5,3%) ở nhóm đợc phát hiện do giám sát tại nhà (kết quả
từ 6 nghiên cứu); 6,3% (trong khoảng từ 1,6 đến 30%) là bệnh nhân ngoại trú điều
trị tại trung tâm cấp cứu (kết quả từ 8 nghiên cứu) và 6,5% ( trong khoảng từ 3,6
đến 11%) là bệnh nhân phải nhập viện (kết quả từ 4 nghiên cứu). Với nhóm 1-4
tuổi thì tỷ lệ tiêu chảy do Shigella với tần xuất ở trung vị là 9,1%( trong khoảng 5,5
đến 18,7%) ở nhóm đợc phát hiện do giám sát tại nhà ( kết quả từ 4 nghiên cứu)
22,0% (trong khoảng từ 13 đến 39 %) là bệnh nhân ngoại trú điều trị tại trung tâm
cấp cứu (kết quả từ 6 nghiên cứu)và 16,5% (trong khoảng từ 8-32%) là bệnh nhân
phải nhập viện (kết quả từ 4 nghiên cứu). Dựa trên cách tính này ngời ta ớc tính
đợc mỗi năm có 113.163.260 đợt lỵ do Shigella ở trẻ dới 5 tuổi. Số đợt mắc tiêu
chảy do Shigella ở trẻ dới 5 tuổi ở các địa điểm khác nhau ở các nớc đang phát
triển đợc trình bày trong bảng dới đây:
Bảng 1. Tỷ lệ mắc tiêu chảy do Shigella ở các địa điểm khác nhau
Địa điểm
Nhóm tuổi
ở tại nhà
Cơ sở điều
trị ngoại trú
Cơ sở điều
trị nội trú
Tổng đợt
tiêu chảy do
Shigella
0-11 tháng
Số đợt tiêu chảy hàng năm 429.975.000
50.212.500 7.312.500
% đợt tiêu chảy nhiễm Shigella
3,2 6,3 6,5
Tổng số đợt nhiễm Shigella
13.759.200 3.163.390 475.315 17.397.905
1-4 tuổi
Số đợt tiêu chảy hàng năm 868.455.000
74.655.000 1.890.000
% đợt tiêu chảy nhiễm Shigella
9,1 22,0 16,5
Tổng số đợt nhiễm Shigella
79.029.405 16.424.100 311.850
Tổng số đợt nhiễm Shigella ở
trẻ từ 0-4 tuổi
92.788.605 19.587.490 787.165 113.163.260