Quyết định của Nhật Bản khôi phục viện trợ ODA cho Việt
Nam có một ý nghĩa quan trọng trong quan hệ Việt Nam - Nhật
Bản, mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ hợp tác trên rất nhiều
lĩng vực giữa hai quốc gia.
Về phía Nhật Bản, quyết định này phản ánh ý chí mạnh mẽ
của Nhật nhằm đóng vai trò lớn hơn và độc lập hơn trong việc tạo
lập một hệ thống mới những mối quan hệ quốc tế trong khu vực và
trên thế giới, một vai trò tương ứng với tầm vóc kinh tế của Nhật
Bản trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh. Quyết định này cũng được
xem như một dấu hiệu về việc công khai sự ủng hộ của Nhật đối với
chính sách đổi mới toàn diện của Việt nam, giúp Việt Nam nhanh
chónh hoà nhập với cộng đồng quốc tế mà trước hết là với tổ chức
ASEAN, thúc đẩy quá trình bình thường hoá quan hệ giữa Mỹ và
Việt Nam; thiết lập các mối quan hệ về thương mại và đầu tư lâu dài
với giới kinh doanh Nhật Bản.
Về phía Việt Nam, trong thực tế việc Nhật Bản quyết định
viện trợ ODA trở lại cho Việt Nam vào thời điểm khi Mỹ vẫn chưa
xoá bỏ lệnh cấm vận của họ với Việt Nam và tiếp tục gây áp lực
ngăn cản Nhật Bản mở rộng viện trợ cho Việt Nam, do vậy nối lại
viện trợ là một nguồn động viên hết sức to lớn cho Việt Nam. Nhật
Bản viện trợ ODA trở lại không những chỉ giúp kích thích sự phát
triển trên các mặt kinh tế, xã hội của Việt Nam, thu hút nhiều nguồn
viện trợ và đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi
cho việc củng cố và phát triển mở rộng quan hệ thương mại cũng
như hợp tác kinh tế giữa hai nước, mà còn đóng góp vào việc khái
thác các nguồn viện trợ đa phương, tạo ra những cơ hội cho liên
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e
V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e
V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
doanh với nước ngoài ở Việt Nam và tạo ra động lực để cải thiện và
mở rộng các mối quan hệ quốc tế của Việt Nam.
Cùng với việc cấp trở lại ODA song phương cho Việt Nam,
Nhật Bản đã đóng vai trò tích cực trong việc giúp Việt Nam khai
thác các nguồn viện trợ khác từ các tổ chức tài chính và tiền tệ quốc
tế như Ngân háng Thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và các
tổ chức quốc tế khác. Nhật Bản là nước cung cấp viện trợ lớn nhất
trong số 23 nước và 17 tổ chưc quốc tế tham dự Hội ghị các nhà tài
trợ cho Việt Nam được tổ chức lần đầu tiên trong lịch sử tại Paris
vào tháng 11 năm 1993 nhằm mục đích thảo luận phương hướng trợ
giúp đối với quá trình khôi phục kinh tế ở Việt Nam.
Năm 1992 là năm đánh dấu bước ngoặt trong quan hệ Việt
Nam - Nhật Bản, đặc biệt thể hiện ở quan hệ viện trợ phát triển.
Việt Nam trở thành 1 trong 10 nước đứng đầu danh sách nhận viện
trợ ODA song phương của Nhật Bản với số vốn là 281,24 triệu
USD, đứng thứ 6 sau các nước như Inđônêxia là 1356,71 triệu USD,
Trung Quốc: 1050,76 triệu USD, Philippin: 1030,67 triệu USD, Ấn
Độ: 425,29 triệu USD và Thái Lan: 413,97 triệu USD. Nhật Bản
cũng đã trở thành nước cung cấp ODA lớn nhất cho Việt Nam, tiếp
theo là Thụy Điển: 59,01 triệu USD, Italia: 26,35 triệu USD và
Pháp: 19,62 triệu USD.
Đến năm 1993, Việt Nam xếp thứ 9 trong số các nước nhận
viện trợ không hoàn lại của Nhật Bản với số tiền là 6720 triệu yên,
sau Bănglađét với 19287 triệu yên rồi đến Philippin, Trung Quốc,
Cămpuchia, Hylạp, Inđonêxia, Nêpan và Pakistan.Trong năm 1993
nhật Bản đã cam kết các khoản cho vay hàng hoá và cho vay dự án
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e
V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e
V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
giúp Việt Nam xây dựng lại cơ sở hạ tầng về kinh tế và ký văn bản
nghi nhớ vào tháng 1 năm 1994.
tháng 11 năm 1993 một nhóm chuyên gia Nhật Bản được cử
sang Việt Nam giúp soạn thảo Bộ luật Dân sự và cải cách hệ thống
quản lý điều hành chính ở các chính quyền địa phương. Tháng 8
năm 1994, Thủ tướng Nhật Bản Tomiichi Myazawa sang thăm hữu
nghị chính thức Việt Nam đã ký các văn kiện về việc viện trợ không
hoàn lại cho Việt Nam 7733 triệu yên.
Năm 1994 Việt Nam đứng số 12 trong số các nước nhận viện
trợ không hoàn lại của Nhật Bản với số tiền là 58,76 triệu USD.
Ngoài ra, Nhật còn viện trợ hợp tác kỹ thuật cho Việt Nam trị gia
24,46 trriệu USD. Việt Nam đứng thứ 16 trong số các nước nhận
viện trợ song phương của Nhật Bản. Đến đầu năm 1995, Nhật Bản
đã cho Việt Nam vay 165 tỷ yên, bao gồm cả 97,8 tỷ yên từ khi khôi
phục viện trợ vào năm 1992.
Đi đôi với việc nối lại viện trợ ODA song phương cho Việt
Nam, Nhật Bản còn đóng vai trò tích cực giúp Việt Nam khai thác
nguồn viện trợ từ các tổ chức quốc tế. Ngân hàng xuất khẩu Nhật
Bản cùng với 8 ngân hàng khác và Ngân hàng Thương mại của
Pháp đã cho Việt Nam vay 85 triệu USD để thanh toán các khoản
nợ tín dụng của Quỹ Tiền tệ quốc tế, do vậy Việt Nam đã được Quỹ
Tiền tệ quốc tế cho vay 223 triệu USD vào năm 1993.
Năm 1995 khi Việt Nam đã thực sự hội nhập vào các quan hệ
hợp tác khu vực, những cải cách thị trường đã trở nên hớp dẫn hơn
đối với các nhà đầu tư Nhật, ví dụ độ rủi ro cho các khoản đầu tư
trực tiếp ít đi và Nhật Bản đã thúc đẩy mạnh mẽ ODA cho Việt
Nam. Ngày 21 - 4 - 1995, trong chuyến thăm Nhật Bản của Tổng Bí
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e
V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e
V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
thư Đỗ Mười, Nhật Bản và Việt Nam đã ký một hiệp định tín dụng
trị giá 58 tỷ yên cho 8 dự án của Việt Nam, bao gồm: các dự án về
xây dựng nhà máy nhiện điện và thuỷ điện. Viện trợ không hoà lại
để cải tạo hệ thống cấp nước khu vực Gia Lâm là 6,5 triệu yên,
trang bị lại Khoa Nông nghiệp Trường Đại học Cần Thơ là 788 triệu
yên, trang bị máy móc y tế cho thành phố Hà Nội 590 triệu yên.
Đây là khoản tín dụng ưu đãi với lãi suất 1,8%/ năm, thời gian vay
30 năm, trong đó 10 năm đầu không phải trả lãi. Hai nước cũng đã
ký được một hiệp định viện trợ văn hoá với trị giá 42 triệu yên để
trang bị cho phòng học tiếng Nhật của Trường Đại học Ngoại
thương. Đồng thời Nhật Bản cũng cam kết viện trợ không hoàn lại 3
tỷ yên để hỗ trợ công cuộc cải cách ở Việt Nam.
Tháng 6 năm 1995, trong chuyến thăm Việt Nam của Thứ
trưởng Ngoại giao Nhật Bản, phía Nhật Bản đã cam kết viện trợ
không hoàn lại cho Việt Nam 1947 triệu yên ( khoảng 23 triệu
USD) để thực hiện giai đoạn hai, xây dựng cảng cá Vũng Tàu; 238
triệu yên (khoảng 2,6 triệu USD) để thực hiện chương trình tiêm
chủng mở rộng; và 85000 USD hỗ trợ cho Việt Nam tham gia một
số họat động của ASEAN. Tính chung trong năm 1995, Nhật Bản
đã thoả thuận cho Việt Nam vay 70 tỷ yên.
Trong chuyến thăm hữu nghị chính thức của Bộ trưởng Ngoại
giao Nhật Bản vào ngày 27 - 7 - 1996, phía Nhật Bản đã cam kết
viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam 3,557 tỷ yên (khoảng 35 triệu
USD) cho dự án xây dựng cầu nông thôn và miền núi phía bắc, và
45,1 triệu yên (khoảng 450.000 USD) viện trợ văn hoá nhằm cung
cấp thiết bị nghe nhìn cho Khoa tiếng Nhật Trường Đại học Ngoại
ngữ Hà Nội.
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e
V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e
V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
Nhìn chung viện trợ phát triển chính thức của Nhật Bản cho
Việt Nam đã tăng khá nhanh. Trong thời gian 8 năm, từ 1992 đến
1999 Nhật Bản đã cam kết cho Việt Nam vay 6.335 triệu USD, đặc
biệt năm 1998 và 1999, mặc dù vẫn còn rất khó khăn về kinh tế do
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, nhưng Nhật Bản vẫn cam
kết cho Việt Nam vay 835 triệu USD (năm 1998) và 1,1 tỷ USD
(năm 1999, chiếm hơn một nửa trong tổng số 2,1 tỷ USD mà các
nhà tài trợ quốc tế đã cam kết cho Việt Nam vay).
Bảng 2: Quy mô ODA của Nhật Bản cug cấp cho Việt Nam
(đơn vị tính:100 triệu yên)
Năm/ Loại hình 1993
1994
1995
1996 1997 199
8
199
9
Viện trợ không
hoàn lại
19,1
9
75,8
6
80,4
7
121,4
8
125,4
7
125
143
Tín dụng ưu đãi 455 523,
04
580 700 810 850
880
Lãi suất 1% 1% 1,8
%
2,3%
2,3%
2,3
%
2,3
%
(Theo: Hỗ trợ phát triển chính thức ODA…NXB giáo dục - 2000)
Bước sang thế kỷ XXI, trong năn 2001 Chính phủ Nhật Bản
đã chính thức ký Hiệp định tài trợ cho các dự án quan trọng như
đường dây tải điện 500KV Phú Mỹ - Nhà Bè - Phú Lâm (114,15
triệu USD), cầu Cần Thơ (216,04 triệu USD), viện trợ không hoàn
lại 13,63 triệu USD…cũng trong năm 2001 do nền kinh tế bị suy
thoái và ý kiến trong nước phản đối việc gia tăng lượng ODA ngày
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e
V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e
V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
một cao, đồng thời nhằm hạn chế bớt khoản nợ chính phủ vốn đã rất
cao (130% GDP), Chính phủ Nhật Bản buộc phải cắt giảm ngân quỹ
dành cho ODA. Tuy vậy mức ODA cam kết cho Việt Nam trên cơ
sở đồng yên vẫn tăng 8% với mục đích nhằm hỗ trợ Việt Nam xây
dựng các công trình cơ sở hạ tầng, phục vụ phát triển kinh tế - xã
hội như: Sân bay Tân Sơn Nhất, cầu Bãy Cháy, cầu Thanh Trì, nhà
máy nhiệt điện Ômôn v v…Tổng số ODA trong năm 2001 gần 700
triệu USD.
Trong bài phát biểu của Thủ Tướng Nhật hồi giữa năm 2001,
Nhật Bản đã cam kết thúc đẩy viện trợ cho Việt Nam. Ngày 28 - 11
- 2001, nhân lễ kỷ niệm lần thứ 10 Nhật nối lại viện trợ ODA cho
Việt Nam, hai bên đã thoả thuận 5 lĩnh vực cơ bản mà nguồn vốn
ODA sẽ tẩp trung vào: 1- Đào tạo con người và xậy dựng cơ chế
thúc đẩy việc dịch chuyển sang nền kinh tế thị trường; 2 - Nâng cầp
cơ sở hạ tầng kinh tế như điện lực, vận tải; 3 - Phát triển nông
nghiệp nông thôn; 4 - Giáo dục và chữa bệnh; 5 - Môi trường.
Nhìn chung hình thức chủ yếu trong viện trợ ODA của Nhật
Bản cho Việt Nam là dạng tín dụng ưu đãi, chiếm 90%. Tỷ lệ viện
trợ không hoàn lại trong ODA của Nhật Bản cho Việt Nam còn
tương đối thấp, khoảng 10%. Hiện tại các khoản vay lớn nhất là
khoản vay hàng hoá (53%), điện và khí đốt (28%), giao thông vận
tải và thông tin liên lạc (khoảng19%). Các hàng hoá này được sử
dụng cho mục đích ngắn hạn, nhưng việc trả nợ lại là dài hạn, do đó
chúng cần được sử dụng một cách có hiệu quả nhất.
Các khoản ODA của Nhật Bản cũng như các tổ chức quốc tế
khác đều chủ yếu hướng vào các dự án cải tạo, nâng cấp và xây
dựng mới hạ tầng cơ sở của Việt Nam như nâng cấp đường quốc lộ
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e
V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e
V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
xuyên Việt, xửa chữa đường xe lửa Hà Nội - thành phố Hồ Chí
Minh, nân cấp cảng Hải Phòng, cải tạo và hoàn chỉnh các hệ thống
cấp thoát nước của một số tỉnh và thành phố.
Bên cạnh những thành tựu đã nêu trên, Việt Nam cũng còn tồn
tại nhiều khó khăn bởi vì quá trình tiếp nhận và sử dụng ODA ở
Việt Nam còn đang rất mới mẻ, chúng ta vừa học tập vừa thực hành
trong điều kiện có nhiều khác biệt về quy định giữa trong nước và
nước ngoài, có nhiều khác biệt trong thủ tục cung cấp ODA giữa
các nhà tài trợ…chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót trong
khâu tiếp nhận và sử dụng cụ thể là:
Cơ chế quản lý và sử dụng các nguồn viện trợ còn nhiều điểm
chồng chéo, rườm rà nên đôi lúc dẫn đến tình trạng chậm trễ trong
việc thành lập các Ban quản lý dự án. Ví dụ như một dự án thuộc
lĩnh vực lâm nghiệp khi đã có hiệu lực 3 tháng mà vẫn không mở
được taì khoản do thiếu nhân lực, sau 5 tháng dự án này mới rút
được một khoản tiền tạm ứng để họat động.
Theo các chuyên gia nước ngoài, sự thống nhất giữa các cơ
quan liên quan với cấp Bộ và Ban quản lý dự án chưa được chú
trọng; từng hiệp định cụ thể thì do rất nhiều Bộ, ngành ký nhưng bộ
tài chính lại không theo dõi chung được các nguồn vốn vay hoặc
viện trợ cũng như nội dung sử dụng từng nguồn.
Thực tế cho hấy các thủ tục xem xét và trình tự duyệt dự án
còn phức tạp, phải qua nhiều cấp; nhất là khâu đấu thầu và chấm
thầu khiến cho thời gian thực hiện dự án bị chậm lại. Như dự án "
Cảng Sài Gòn" có hai gói thầu 7 và 8 để mua cần cẩu được trình
duyệt từ tháng 7 năm 1997, mà đến tháng 8 năm 1998 mới thực hiện
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e
V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e
V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
được. Quá trình xem xét và lựa chọn nhà thầu của dự án "Cung cấp
nước ở Thành phố Hồ Chí Minh" cũng gặp khó khăn khi nhà thầu
tham gia không tuân thủ điều kiện của nhà tài trợ.
Nhìn chung thiếu dự án đã mang lại hiệu quả kinh tế nhất
định; hàng ngàn cán bộ, công nhân Việt Nam được đào tạo hoặc tái
đào tạo về những kỹ năng chuyên môn hoặc quản lý thông qua các
chương trình, dự án ODA có kết qủa cao. Tuy nhiên nhìn một cách
toàn diện nguồn viện trợ không hoàn lại bị phân tán, dàn trải quá
nhiều, chưa tập trung vào những lĩnh vực có lợi thế tương đối và có
khả năng tác động thúc đẩy sự phát triển các ngành khác của nền
kinh tế.
Hơn nữa, nhiều người vẫn coi viện trợ là của "trời cho", vì vậy
việc sử dụng và quản lý các nguồn viện trợ thường không được đảm
bảo đúng chế độ tài chính, thậm chí còn rất lãng phí và tuỳ tiện.
Điều đó cũng góp phần làm giảm hiệu quả ử dụng nguồn vốn ODA.
Nhiều dự án do thiếu vốn đối ứng (Phần vốn trong nước tối
thiểu phải có theo yêu cầu của nhà tài trợ), nên việc cấp vốn của đối
tác cho vay chưa phù hợp với tiến độ thực hiện dự án. Ngoài ra giá
đền bù để thực hiện công tác giải phóng mặt bằng có thể bị thay đổi
- vì một lý do nào đo so với tính toán ban đầu càng gây khó khăn
cho các dự án khi triển khai; hoặc gây tốn kém thời gian, làm chậm
khả năng rút vốn.
Về năng lực và khả năng làm việc của các nhân viên trong môi
trường ODA: theo đánh giá của nhiều nhà phân tích trong và ngoài
nước, mặc dù ta đã qua một thời gian khá dài tiếp nhận nguồn hỗ trợ
phát triển chính thức, nhưng nhân sự và kỹ năng nhân sự trong công
tác điều hành - sử dụng nguồn vốn ODA ở những cấp khác nhau
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e
V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e
V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
hiện đang thiếu về số lượng và yếu về chất lượng, họ còn quá yếu so
với yêu cầu quốc tế và yêu cầu của các nhà tài trợ. Đây là một vấn
đề đã được nhiều người quan tâm xem xét nhưng tốc độ khắc phục
những yếu kém này còn quá chậm.
Hậu quả là các khâu trong quá trình tiếp nhận và sử dụng viện
trợ đều có hững sai lầm lặp lại nhiều lần, làm ảnh hưởng đến hiệu
quả sử dụng vốn vay và uy tín của Việt Nam trong lĩnh vực huy
động và tiềp nhận ODA. Đó là những hạn chế nổi bật đòi hỏi Việt
Nam từng bước khắc phục để nguồn vốn ODA sử dụng có hiệu quả
hơn.
Tóm lại quan hệ kinh tế của Nhật Bản và Việt Nam đã có
những bước phát triển đáng mừng, đặc biệt là viện trợ phát chính
thức ODA của Nhật Bản đa giúp Việt Nam đạt được nhiều thành
tựu trong quá trình phát triển kinh tế nói riêng và trong quan hệ hai
nước Việt Nam - Nhật Bản nói chung ngày càng tôt đẹp.
III. Ý thức, trách nhiệm của Việt Nam trong quản lý, sử
dụng và hoàn trả vốn vay ODA.
Nhận thức rằng ODA là một nguồn lực có ý nghĩa quan trọng từ bên
ngoài, Chính phủ Việt Nam luôn luôn coi trọng quan tâm công tác
quản lý và sử dụng nguồn lực này. Ngay từ hội nghị đầu tiên các
nhà tài trợ dành cho Việt Nam (11 - 1993) Chính phủ Việt Nam đã
tuyên bố quan điển của mình về vấn đề quản lý và sử dụng ODA.
Điều quan trọng là nguồn vốn bên ngoài phải sửdụng có hiệi quả.
Chính phủ nhận trách nhiệm điều phối và sử dụng vay, viện trợ
nước ngoài với nhận thức sâu sắc rằng nhân dân Việt Nam là người
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e
V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e
V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
phải gánh chịu cái giá phải trả cho sự thất bại nếu nguồn vốn này
không được sử dụng có hiệu qủa.
Trước năm 1993 việc quản lý và sử dụng ODA được điều tiết
bởi từng quyết định riêng lẻ của Chính phủ đối với từng chương
trình, dự án ODA và từng nhà tài trợ cụ thể . Để quản lý và trả nợ
nước ngoài một cáh có hệ thống, Nhà nước ban hành Nghị địng số
58/CP ngày 30 - 8 - 1993 về quản lý và trả nợ nước ngoài, Nghị
địng số 20/CP ngày 20 - 4 - 1994 về quản lý nguồn vốn hỗ trợ phát
triển chính thức ODA. Đây là hai văn bản có hiệu lực pháp lý cao
nhất của Chính phủ trong trong lĩng vực quản lý nợ nước ngoài nói
chung và ODA nói riêng.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và yêu cầu đổi mới quản lý năm
1997 - 1999, Chính phủ ban hành Nghị địng 87/1997/NĐ-CP ngày
05 - 08 - 1997 và Nghị địng 90/1998/NĐ-CP ngày 07 - 11 - 1998 về
quy chế vay và trả nợ nước ngoài thay thế cho hai Nghị địng trên,
đã góp phần nâng cào hiệu quả quản lý của nhà nước, phân công rõ
trách nhiệm giữa các cơ quan tổng hợp của Chính phủ, các bộ, các
ngành, địa phương và các tổ chức kinh tế trong việc quản lý, sử
dụng vốn vay nước ngoài và hướng dẫn thực hiện các Nghị địng
trên của Chính phủ. Các văn bản này đã tạo ra một hành lang pháp
lý trong việc quản lý sử dụngvay nợ nước ngoài, nhằm đảm bảo sự
phối hợp chặt chẽ, đồng bộ các cơ quan có liên quan trong việc khai
thác vốn nước ngoài, vì vậy chúng ta đã đạt kết quả đáng khích lệ
trong huy động vốn vay, viện trợ nước ngoài. Tổng số vốn ODA đã
cam kết dành cho Việt Nam thông qua các hội nghị của các nhà tài
trợ từ năm 1993 đến nay khoảng trên 17 tỷ USD.
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e
V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e
V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
Bên cạnh đó chúng ta cần phải khắc phục những quan điển
cho là vốn vay ODA như là một món quà tặng, cho không mà không
ý thức rõ trách nhiệm trong việc hoàn trả sau này, phải xác định rõ
có vay là phải có trả. Trên quan điểm đó sẽ tạo uy tín và thu hút
ODA vào Việt Nam ngày càng nhiều hơn.
CHƯƠNG III
TRIỂN VỌNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỂ THU HÚT VIỆN
TRỢ ODA CỦA NHẬT BẢN
I. Triển vọng.
Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản phát triển tốt đẹp như hiện nay,
trước hết là nhờ sự cố gắng nỗ lực của cả hai nước. Đồng thời xu
thế hoà nhập, hợp tác của khu vực và thế giới là điều kiện hết sức
quan trọng, để khởi động thúc đẩy và củng cố quan hệ này. Cơ sở
chính để duy trì các quan hệ lâu dài đó chính là xuất phát từ nhu cầu
và lợi ích của hai nước. Đây là nét nổi bật trong quan hệ hai nước
trong thời gian qua, mặc dù quan hệ hai nước đã có bước phát triển
khá toàn diện song tính bền vững và chiều sâu của nó cần phải được
tăng cường và nâng cao hơn nữa.
Việc nối lại viện trợ phát triển chính thức ODA của Nhật Bản
cho Việt Nam vào tháng 11 năm 1992 cũng được xem như một
điểm mới trong quan hệ kinh tế Việt - Nhật. Kể từ đó đến nay Nhật
luôn là nước tài trợ lớn nhất cho Việt Nam, việc nối lại viện trợ
được nhìn như kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố. Đó là sự cởi mở
trong chính sách đổi mới kinh tế của Việt Nam,là xu hướng hoà dịu
hợp tác trong khu vực từ khi chiến tranh lạnh kết thúc và đặc biệt là
thiện chí của Chính phủ Nhật Bản xuất phát từ lợi ích phát triển của
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e
V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e
V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
khu vực cũng như của chính bản thân Nhật. Bởi lẽ nền kinh tế Nhật
là nền kinh tế hướng ngoại, môi trường bên ngoại nhất là khu vực
Châu Á có tác động rất lớn đến sự thăng trầm của nền kinh tế, bởi
vậy ta có thể tin tưởng mối quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản
trong tương lai sẽ ngày càng phát triển.
Bên cạch đó, ta cũng cần phải nhấn mạnh rằng những thành
công trong quá trình đổi mới ở Việt Nam, trên thực tế đã tạo ra một
hình ảnh tích cực và một niềm tin cho các đối tác, trong đó có Nhật
Bản. Những thành công nhiều mặt trong quá trình đổi mới ở Việt
Nam và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước ta đã tạo ra cơ
sở cho sự thay đổi trong chính sách nối lại tài trợ và nhữnh ưu tiên
tài trợ ODA của Nhật Bản cho Việt Nam. Chúng ta biết Việt Nam
phấn đấu để tăng gấp đôi GDP/ đầu người và tăng gấp 5 kim ngạch
xuất khẩu vào năm 2000; kiểm soát lạm phát dưới mức hai chữ số
và ổn định tỷ giá hối đoái; Đạt mức tăng trưởng ổn định - mức tăng
GDP trung bình hàng năm tăng từ 5,5 - 6,5%; Mức tăng trưởng
trong khu vực nông nghiệp là từ 10 - 12% và phấn đấu giảm tỷ lệ
tăng của dân số từ 0,04 - 0,06% hàng năm (trong thời gian từ 1991 -
2000) để góp phần thúc đẩy chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
của nước ta, trong đó ODA có vai trò ngày càng lớn và luôn được
Chính phủ Việt Nam quan tâm.
Xét trên nhiều phương diện và từ những phân tích trên cho
phép nhận xét rằng tương lai của tài trợ ODA của Nhật Bản cho
Việt Nam hết sức sáng sủa. Bởi trước hết đó vẫn là thiện chí của hai
nước. Chẳng hạn, chúng ta còn nhớ trong cuộc thăm lần đầu tiên
của Thủ tướng Nhật Bản tới Việt Nam ngày 23/8/1994, kể từ khi hai
nước thiết lập quan hệ ngoại giao từ 1973, Thủ tướng Tomiichi
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e
V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e
V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m