VHPT1/P.H.N
95
PHẦN III
VĂN HỌC CỔ ĐIỂN THẾ KỈ 17- CHỦ NGHĨA CỔ ĐIỂN PHÁP
CHƯƠNG VIII - KHÁI QUÁT
1 - NƯỚC PHÁP TRÊN ĐƯỜNG TIẾN TỚI MỘT QUỐC GIA THỐNG NHẤT HÙNG MẠNH
1.1 - Đến cuối thế kỉ 16 nước Pháp nghèo nàn bị chia cắt bởi nhiều lãnh chúa phong kiến
.Chiến tranh tôn giáo và phong kiến liên miên và tàn khố: cuộc viễn chinh sang Italia vừa
chấm dứt thì nội chiến tôn giáo đẫm máu giữa đạo Thiên Chúa và đạo Tin Lành xảy ra suốt
hơn 30 năm (1562 - 1598). Nước Pháp bị tàn phá khủng khiếp, thành thị và nông thôn đều
hoang tàn xơ xác. Người thất nghiệp, đói khổ bệnh tật nhan nhản khắp nơi. Tài chính kiệt
quệ. Quan lại địa phương và thị dân giành lấy quyền tự trị. Nông dân và dân nghèo nổi dậy
ở nhiều nơi . . .Chế độ phong kiến cát cứ trở thành vật chướng ngại lớn trên bước đường đi
tới của lịch sử dân tộc Pháp .
Trong khi đó, giai cấp tư sản Pháp hình thành từ thế kỉ 16 đang lớn dần lênnhờ phương
thức kinh doanh tư bản – đặc biệt các ngành công nghiệp dệt, hàng xa xỉ, ngoại thương,
nông nghiệp Tình trạng phong kiến cát cứ gây trở ngại quá trình phát triển tư bản chủ
nghĩa. Giai cấp tư sản khao khát giành lấy chính quyền, tuy có ưu thế về chính trị nhưng
chưa thể lật đổ g/c phong kiến thống trị. Họ quay ra dựa vào nhà nước phong kiến tập
quyền để mở rộng kinh doanh. G/c phong kiến đang sa sút nhưng vẫn cố giữ chính quyền,
tự biết còn đủ mạnh để ngăn trở tư sản. Mặt khác, g/c phong kiến cũng muốn lợi dụng khả
năng kinh tế tư bản để tồn tại. Tình trạng đó tạo ra thế quân bình tạm thời giữa quí tộc và
tư sản dưới hình thức Nhà nước quân chủ chuyên chế (quân chủ tập trung tuyệt đối) . Đó là
nền quân chủ cố giữ vai trò trung gian giữa quí tộc và tư sản - cố gắng dung hòa bảo vệ
quyền lợi của cả hai.
1.2- Nền quân chủ chuyên chế Pháp trải qua ba triều đại dòng họ Bourbon
Vua Henry IV lên ngôi giữa cảnh hoang tàn của nước Pháp sau chiến tranh trong khi ấy
các lãnh chúa địa phương bạo loạn lung tung. Henry thực hiện đương lốì cứng rắn xen kẽ
mềm dẻo về chính trị, tôn giáo nhằm củng cố chính quyền trung ương. Vua chủ trương
nâng đỡ nông dân, giảm thuế xóa nợ, đẩy mạnh công thương nghiệp, ngoại thương, kí kết
nhiều hiệp ước thương mại. Nhà vua rời bỏ đạo Tin Lành, theo đạo Thiên Chúa (Cơ đốc,
Gia Tô) đã được coi là quốc giáo. Năm 1598 vua ban hành pháp lệnh Nante bảo đảm tự do
tín ngưỡng và tự do chính trị. Vua bị ám sát, con trai là Louis 13 lên ngôi giữa lúc bọn lãnh
chúa phong kiến lại nổi lên khắp nơi.
Vua Louis 13 (1610-1643) dựa vào Giáo chủ Richelieu nắm quyền tể tướng, tiếp tục sự
nghiệp của Henry 4, quyết tâm xây dựng một nhà nước dân tộc thống nhất, phát triển nhiều
mặt chiếm vị trí cao trên trường quốc tế. Richelieu kiên quyết bảo vệ thống nhất quốc gia,
trấn áp Tin Lành và các lãnh chúa địa phương ngoan cố, mở mang thêm lãnh thổ, đặt Pháp
viện tối cao dưới quyền vua, ban bố chính sách đặc quyền cho giai cấp tư sản phát triển
kinh tế, đẩy mạnh công thương, qui định thuế khóa thống nhất, chiếm thêm thuộc địa
(quần đảo Angti, đảo Madagasca) .Thống nhất hoạt động văn hóa tư tưởng dưới sự lãnh
VHPT1/P.H.N
96
đạo tập trung của nhà nước chuyên chế. Thành lập Viện Hàn lâm năm 1634, trợ cấp văn
nghệ sĩ, mở ra những cuộc phê bình văn học . . . Những hoạt động đó còn nhằm thống nhất
ngôn ngữ Pháp, tách nhà văn ra khỏi ảnh hưởng quí tộc phong kiến, đàn áp nhà văn chống
chế độ quân chủ chuyên chế. Sự cứng rắn của tể tướng - giáo chủ Richelieu bị nhiều người
thù ghét phản ứng. Tuy nhiên ông ta vẫn là một nhà chính trọ nhà hoạt động xã hội xuất
sắc, người sáng lập thực sự, trực tiếp của nhà nước mang tính dân tộc Pháp.
Louis 14 (1643 - 1715) lên ngôi lúc 15 tuổi. Nhà nước do giáo chủ Madarin lãnh đạo thực
sự. Giáo chủ cho tăng thuế, bán quan chứclấy tiền nuôi quân đội tham gia chiến tranh
Trung Âu 1618 -1648. Chính sách đó khiến nhân dân bất bình , nhất là nông dân và nghị
viện (phần lớn là đại biểu tư sản và quí tộc) đều căm giận. Kết quả là một cuộc nội chiến
nổ ra ở Paris và một số tỉnh miền Bắc, miền Đông nước Pháp. Giai cấp tư sản và quí tộc,
do quyền lợi ích kỉ, cuối cùng đã phản bội, bỏ mặc quần chúng khiến khởi nghĩa thất bại.
Sự thất bại này chấm dứt tình trạng rối ren nhưng vẫn chưa bảo đảm cho đất nước thống
nhất. Cuộc khởi nghĩa chia thế kỉ ra hai phần - nửa sau sẽ là thời kì phát triển huy hoàng
của chế độ quân chủ chuyên chế. Năm 1661, Madarin chết, Louis mới thực sự nắm chính
quyền. Vua tuyên bố "nhà nước chính là ta !" và khẳng định sự tập trung quyền lực cao độ
trong tay nhà vua. Mười hai năm đầu của triều đại Louis thanh bình êm ả thuận lợi cho
những cuộc cải cách và những dự án lớn:
Về kinh tế - chính trị: Colbert trợ thủ đắc lực của nhà vua đã tích cực bảo hộ các
hình thức kinh doanh tư bản chủ nghĩa, khuyến thương nhằm thu lợi nhuận cho công quĩ.
Tăng cường quân đội làm áp lực cho kinh tế .Kiến thiết nhiều lâu đài nguy nga đồ sộ.
Về văn hóa nghệ thuật: Chaplin cánh tay phải của "vua mặt trời" đã cho lập thêm
hàng loạt viện hàn lâm nghệ thuật và khoa học, bảo trợ các nhà nghệ sĩ , tổ chức sinh hoạt
văn nghệ ở cung đình, biến cung điện Verseille thành trung tâm văn hóa quốc gia. . . Tất cả
nhằm đề cao cá nhân vua Louis 14, thúc đẩy văn hóa, củng cố quốc phòng nâng cao địa vị
uy tín nước Pháp. Người ta gọi thế kỉ 17 là "thế kỉ của Louis 14" hoặc "thế kỉ vĩ đại" (đại
thế kỉ). Năm 1803, Colbert chết, sinh ra sự chuyển biến mới của đời sống vật chất tinh thần
nước Pháp cuối thế kỉ này: chính sách kinh tế của Colbert bị vứt bỏ, nền kinh tế suy sụp vì
gánh nặng chiến tranh chống Hà Lan và Anh. Hủy bỏ pháp lệnh Nante, khủng bố tàn bạo
những người dị giáo, đi xâm lược láng giềng. Nhà nước độc tài không chịu được khuynh
hướng tự do dân chủ và cản trở giai cấp tư sản. Làn sóng khổng lồ hàng chục vạn nhà
công thương nghiệp bỏ chạy ra nước ngoài gây chảy máu nghiêm trọng về dân số, tiền của
tài năng trí tuệ của dân tộc.
Nhận xét chung về Nhà nước quân chủ thế kỉ 17:
Một mặt nhà nước là nhân tố lịch sử tiến bộ tích cực góp phần thống nhất đất nước, khôi
phục và mở mang văn hóa dân tộc. Mặt khác, nền quân chủ chuyên chế vẫn là hình thức
thống trị ựa trên sự liên minh giai cấp tạm thời giữa hai g/c bóc lột. Nó vừa hòa giải vừa
đối kháng với nhau, lại vừa đàn áp và bóc lột nhân dân. Càng về cuối thế kỉ, nhà nước
thoái hóa, phản động và trở thành đối tượng bị phê phán của lịch sử
VHPT1/P.H.N
97
2 - ẢNH HƯỞNG SÂU SẮC RỘNG LỚN CỦA TRIẾT HỌC GASSENDY VÀ TRIẾT HỌC
DESCARTES TRONG TINH THẦN PHÁP THẾ KỈ 17 .
Cùng ra đời vào nửa đầu thế kỉ 17, mỗi học thuyết có cống hiến riêng. Triết học duy vật
của Gassendy và triết học duy lí của Descartes có điểm chung, đều là thành tựu văn hóa tư
tưởng cvủa một thế kỉ lớn, đều có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống tinh thần của thời đại
Gassendy:1592-1655. Nhà toán học, nhà khoa học lớn hiểu biết nhiều về vật lí thiên văn .
Hoạt động trong nhóm bác học, thường tổ chức kín đáo những cuộc hội thảo khoa học
quan trọng với tinh thần tự do, chống chủ nghĩa ngu dân của các thế lực phong kiến và tôn
giáo. Gassendy bỏ nhiều công phu viết cuốn "Triết học đại toàn", công trình in sau khi ông
mất
Học thuyết của ông dựa trên "học thuyết về nguyên tử" của hai nhà bác học cổ Hi Lạp
Epiccure và Lucres. Trong khi phát biểu thuyết nguyên tử ông đề xướng "cảm giác luận
duy vật": cho rằng con người có thể nhờ cảm giác để nhận thức thế giới ,"cảm giác không
bao giờ lừa dối". Tin tưởng vàocảm giác, đánh giá cao cảm giác, Gassendy chống lại "duy
lí luận" của Descartes và bác bỏ triết học kinh viện duy tâm trung cổ. Về đạo đức học, ông
tập trung ca ngợi niềm vui sướng cuộc đời và sự trong sáng tâm hồn . Theo ông hạnh phúc
con người là ở sức khỏe thể xác và sự thanh tĩnh tâm hồn.
Các nhà văn tiến bộ của thế kỉ 17 đã chịu ảnh hưởng triết học Gassendy như : nhà hài kịch
Molier nhà ngụ ngôn La Fontaine nhà văn La Brue.
Descartes:1596-1650: Là nhà triết học và khoa học lớn có ảnh hưởng mạnh mẽ và lâu dài
đến thời đại và lịch sử dân tộc Pháp. Có nhiều khám phá trong hình học vật lí vũ trụ học.
Trong tiểu luận triết học nổi tiếng Bàn về phương pháp (1637) ông đề cao vai trò lí trí
trong nghiên cứu khoa học và xác định nhiệm vụ của mình là "bàn về phương pháp hướng
dẫn tốt lí trí và tìm tòi chân lí trong khoa học" :
Tác phẩm này đề xướng triết học duy lí, đánh giá cao vai trò của tư duy lí luận. Lí
trí là giai đoạn cao của sự nhận thức thế giới, nó độc lập không phụ thuộc vào tri giác cảm
tính. Theo ông, lí trí có thể đem lại sự hiểu biết tất cả những gì mà giác quan con người
không đạt tới. Ánh sáng của lí trí có thể rọi thấu (nhận thức) được thế giới tự nhiên một
cách vô hạn. Chỉ có lí trí là có thực và đáng tin cậy , lí trí là quan tòa tối cao của chân lí
Bàn về một vấn đề cơ bản của triết học- mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại - ông
nêu lên một nguyên lí: "Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại". Nghĩa là nếu sống mà chỉ biết tin
tưởng mù quáng vào mọi tín điều tôn giáo thì chưa phải là sống. Descartes đã đánh đòn
quyết liệt vào triết lí kinh viện nhà thờ trung cổ, tiếp tục giương cao lá cờ nhân văn chủ
nghĩa Phục Hưng, ca ngợi con người vớiù hoạt động tư duy sáng suốt.
Bàn về phương pháp nghiên cứu, ông chủ trương phương pháp phân tích. Khâu đầu tiên là
"hoài nghi"- đó là điểm xuất phát của khoa học chân chính. Cần phải nghi ngờ tất cả những
gì mà người ta đã tin là chân lí. Sự hoài nghi này nhằm ngăn ngừa những kết luận mù
quáng. Bước thứ hai là phân chia nhỏ đến tận cùng các hiện tượng để giải quyết. Bước thứ
ba là hướng dẫn tư duy theo thứ tự từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Cuối cùng là
thao tác tổng hợp, xem xét lại từng chi tiết nhỏ đã phân tích để dẫn tới kết luận.
VHPT1/P.H.N
98
Tiểu luận Bàn về phương pháp là lời tuyên chiến chống lại tất cả những gì hỗn độn bừa
bãi tùy tiện giáo điều để hướng tới một trật tự sáng sủa, chặt chẽ, chính xác - đó là triết học
duy lí Descartes. Tư tưởng triết học Descartes là thành tựu lớn của tư tưởng Pháp thế kỉ 17,
sản phẩm tiến bộ của khoa học và của ý thức hệ tư sản đang trưởng thành. Nó đạt cơ sở
cho thế giới quan khoa học của thời đại. Trước hết nó tích cực chống phong kiến và tôn
giáo. Thời ấy, ông đã bị Nhà thờ và những kẻ cuồng tín lên án chỉ trích, thù ghét.
Triết học Descartes cũng còn có nhược điểm không nhỏ: tính cách mạng nửa vời vừa duy
tâm vừa duy vật (nhị nguyên luận) .
Triết lí Descartes đã in dấu đậm nét trong văn học cổ điển Pháp thế kỉ 17.
3 - TÌNH HÌNH VĂN HỌC VÀ CHỦ NGHĨA CỔ ĐIỂN PHÁP THẾ KỈ 17
3.1 BA DÒNG VĂN HỌC TÁC ĐỘNG LẪN NHAU
3.1.1 - Dòng văn học kiểu cách :tiếng nói của tầng lớp qúi tộc phong kiến thất thế. Bị sa
sút về chính trị, giai cấp quí tộc ra sức vớt vát bằng những vinh quang giả tạo bằng hình
thức văn nghệ. Họ tụ tập ở các sa-lông (salon: phòng khách quí tộc) bàn chuyện văn
chương nghệ thuật. Sinh hoạt salon trở thành phong trào thời thượng của xã hội thượng
lưu. Những salon nổi tiếng trở thành những trung tâm văn hóa quí tộc đối lập với cung
đình của vua Louis 13. Những văn nghệ sĩ lớn thường lui tới các salon ấy. Nơi đây ấp ủ
những tiểu thuyết mục đồng tràng giang đại hải với những mối tình hiệp sĩ lí tưởng cầu kì
tế nhị . Nhân vật chính là kiểu "con người quí tộc hào hoa phong nhã" với ngôn ngữ chau
chuốt khác hẳn với ngôn ngữ thô mộc của đời sống thường ngày. Nội dung chính là đào
sâu tâm lí trình bày dục vọng quanh co phức tạp kì thú của "tâm hồn quí tộc". Bên cạnh
tiểu thuyết mục đồng còn có loại thư từ chuyền tay nhau đọc, nối tiếp những cuộc đàm
thoại nơi phòng khách salon.Thơ cầu kì cũng là phản ứng của quí tộc đối với thị hiếu thẩm
mĩ tư sản mới (thơ phá cách, trần trụi) đang được ưa chuộng ở đô thị. Cảm hứng chủ đạo
của dòng văn học kiểu cách là phản ứng lại cuộc sống mới, rút vào cố thủ trong văn
chương kiểu cách. Họ không đóng góp được bao nhiêu cho văn học và bị công kích từ
nhiều phía. Tuy nhiên dòng này cũng có ảnh hưởng ít nhiều đến trào lưu văn học cổ điển
chính thống của thế kỉ .
3.1.2 - Dòng văn học hiện thực dung tục đối lập với dòng văn học kiểu cách gồm truyện và
thơ. Đó là văn chương cười cợt nghịch ngợm khôi hài thô lỗ của những người tự do cố ý
chế giễu văn học quí tộc kiểu cách salon. Dòng văn này phác họa những bức tranh cuộc
sống hiện thực, phơi bày thực trạng những thế lực lỗi thời, bộc lộ khát khao xã hội lí tưởng
tốt đẹp- đó là tinnh tích cực tiến bộ của nó. Tuy nhiên nó còn nhược điểm là tư tưởng
nông cạn tầm thường đôi khi rơi vào vô chính phủ, tầm nhìn cuộc sống hạn chế. Dòng này
có ảnh hưởng tới nhà hài kịch Molier và nhà văn ngụ ngôn La Fontaine.
3.1.3 - Dòng văn học cổ điển chủ nghĩa cùng tồn tại song song với hai dòng kia nhưng lại
vượt lên một tầm cao rõ rệt. Đây là tiếng nói nghệ thuật của bộ phận tiên tiến trong giai
cấp tư sản đang lên, tiếng nói mạnh mẽ tích cực và có sức sống lâu dài về sau.
VHPT1/P.H.N
99
3.2. VĂN HỌC CỔ ĐIỂN CHỦ NGHĨA - DÒNG TIÊU BIỂU CỦA THỜI ĐẠI
Văn học cổ điển phát triển liền mạch mạnh mẽ sôi nổi suốt từ những năm 30 đến cuối thế
kỉ có lúc độc chiếm văn đàn. Họ có quan điểm mĩ học tiến bộ, tư tưởng chống phong kiến
tôn giáo cùng những thói hư tật xấu tư sản và có những đóng góp nghệ thuật mới. Nhiều
cuộc tranh luận nghệ thuật nổ ra kéo dài nửa thế kỉ, nhất là sự kiện vở kịch Le Cid của
Corneill và cuộc tranh luận giữa Phái Mới và Phái Cũ.
Phân biệt các thuật ngữ: chủ nghĩa cổ điển, văn học cổ điển chủ nghĩa. Nguyên văn là
Classicisme bắt đầu dùng từ thế kỉ 18 để chỉ trào lưu văn học tiến bộ nhất của thế kỉ 17.
Lúc đó nhà trường Pháp muốn nêu cao tinh thần dân tộc nên đã dùng văn học ấy đưa vào
nhà trường thay thế văn chương Hi Lạp- La Mã bấy lâu vẫn chiếm lĩnh văn đàn và nhà
trường. Từ đây lần đầu tiên văn học Pháp mới được đưa vào lớp học (class). Nghĩa là từ
đây văn học thế kỉ 17 được coi là mẫu mực, do đó phải cho học sinh được học như khuôn
mẫu. (Về sau người ta dùng từ Classique / Classic (tính từ) để chỉ những tác phẩm ưu tú
mẫu mực của cả những giai đoạn văn học khác).
3.2.1 Những nguyên lí mĩ học cổ điển chủ nghĩa
Tac phẩm Nghệ thuật thơ của Boileau là cuốn sách lí luận văn học viết bằng thơ - được
coi là bộ luật thơ của chủ nghĩa cổ điển, nhà văn Boileau được coi là nhà lập pháp của
phương thức sáng tác và trào lưu văn học này. Từ đó rút ra ba tiêu chuẩn của classicisme là
:
+ Tôn sùng lí trí (theo Decartes - chủ ngĩa duy lý)
+ Theo mẫu mực tự nhiên ( theo Gassendy - chủ nghĩa duy cảm)
+ Theo mẫu mực cổ đại (Hi - La truyền thống, nhắc lại từ Phục Hưng)
Nhà hài kịch Moliere viết: "Tôi muốn biết rõ rằng qui tắc lớn nhất của mọi qui tắc có phải
là không được làm vui hay không, và một số vở kịch đã đạt được mục đích có phải đã
không đi theo một con đường đúng hay không (. . .) Nếu các vở kịch làm theo qui tắc mà
lại không được vui thích và những vở kịch gây được vui thích lại không theo qui tắc thì cần
phải thấy rằng qui tắc đã sai" (trích phê bình vở kịch Trường học làm vợ - hài kịch
Moliere ) .
La Fontaine viết: "Ở Pháp, người ta chỉ xem cái vui là qui tắc lớn nhất và cũng là qui tắc
duy nhất" (bài thơ Mục đồng và sư tử ) .
Racine viết: "Qui tắc chính là làm vui và xúc động. Tất cả các qui tắc làm ra chỉ để đạt tới
qui tắc đó" (Lời tựa vở kịch Berenix ) .
Boileau nói về bi kịch: "Bí mật trước hết là làm vui và làm cho xúc động" (Nghệ thuật thơ
- bài ca số Mười)
Nhìn chung, các nhà cổ điển chủ nghĩa chỉ coi trọng hiệu quả thực tế của sáng tác nghệ
thuật mà không thích lí luận trừu tượng. Theo họ, vui là hiểu biết tự nhiên, vui là được
thanh lọc cảm xúc, vui gắn bó hơn với đất nước dân tộc đang lớn dậy trong khi đang gạt bỏ
những trở ngại của cái cũ và phê phán ngay những cái xấu thói hư mới, nhằm khẳng định
một tương lai tự do, dân chủ và nhân đạo.
VHPT1/P.H.N
100
3.2.2 Hai giai đoạn tương phản của chủ nghĩa cổ điển :
Giai đoạn trước 1660 :
Nước Pháp đã thống nhất nhưng chưa ổn định, chế độ quân chủ chuyên chế đang được
củng cố. Văn học cổ điển là tiếng nói ủng hộ nhà nước phong kiến tập quyền vì nhà nước
này đang khuyến khích sự phát triển tư bản chủ nghĩa đưa nước Pháp đến thống nhất quốc
gia. Trong giai đoạn này có sự kiện đáng chú ý nữa là cuộc cải cách ngôn ngữ lịch sự của
Malecber, tác phẩm văn của Pascal và kịch Corneill .
Giai đoạn sau 1660 :
Thời kì phát triển toàn diện rực rỡ của chủ nghĩa cổ điển. Nổi bật là:
Bốn đỉnh cao văn học Pháp thế kỷ 17 : Thơ châm biếm của Boileau, thơ ngụ ngôn của
La Fontain, bi kịch của Racine, hài kịch Moliere và văn tiểu luận của La Brue.
Nhìn chung văn học chính thống giai đoạn này là tiếng nói phản kháng chế độ phong kiến
độc tài , đả kích giai cấp quí tộc và chế giễu những thói xấu tư bản chủ nghĩa .
3.2.3 Một số nhà văn và tác phẩm tiêu biểu
Malecber (1555- 1628). Là nhà thơ cung đình được ưu đãi dưới triều vua Henry IV và
Louis XIII, Malecber sáng tác một số thơ trữ tình, thù tạc, ít có giá trị . . . Nhưng đối với sự
nghiệp cải cách ngôn ngữ thơ ca dân tộc, ông là người có công đầu. Ông thường viết chú
giải, bình luận về sáng tác của Deport - một nhà thơ kiểu cách - qua đó thể hiện xu hướng
cải cách của mình .
Về mặt ngôn ngữ : Ông chống lại những thói kiểu cách và những thói dung tục , phản đối
thói lạm dụng tiếng nước ngoài, tiếng cổ và tiếng địa phưng. Ông đòi hỏi sự trong sáng
ngôn ngữ. Do cố gắng của ông, tiếng thành thị đã thắng tiếng nông thôn, tiếng Paris trở
thành chuẩn mực của nước Pháp.
Về nghê thuật thơ : Malecber yêu cầu câu thơ phải cân đối , bài thơ phải chia đoạn mạch
rõ ràng , đề tài thông thường dễ hiểu .
Nhìn chung lí luận của Malecber tạo ra cuộc đấu tranh thống nhất ngôn ngữ phù hợp với
cuộc đấu tranh thống nhất đất nước của thời đại .
Pascal (1623 - 1662): Nhà khoa học - nhà văn nổi tiếng đầu thế kỉ 17. Có nhiều phát minh
giá trị về Toán và Lý. Mang tinh thần duy vật và duy lí, công trình của Pascal phản đối sự
sùng bái quá khứ, phủ nhận những tín điều giả dối mặc dù ông là tín đồ tôn giáo với niềm
tin hạn chế. Là nhà văn, Pascal viết tác phẩm "Những bức thư tỉnh nhỏ" - tập bút chiến
gồm 18 bức thư viết cho một người ở tỉnh nhỏ, kịch liệt phê phán thói vô luân của những
nhà thần học ở Đại học Sorbone, nhất là những người theo giáo phái Jesus. Nhà văn vách
trần thứ lí luận bào chữa cho tội ác cho phép những kẻ quyền thế đứng trên cả pháp luật.
Tin tưởng ở chân lí tuyệt đối, ông dám chống lại bất kì thứ quyền lực nào kể cả giáo
VHPT1/P.H.N
101
hoàng. Mặc dù đả kích mạnh mẽ nhà thờ và bị họ thù ghét, Pascal vẫn chưa thoát khỏi ảnh
hưởng của tôn giáo, ông vẫn đề cao sức mạnh của "đức tin" .
"Những tư tưởng" là cuốn sách của Pascal ghi chép tản mạn xoay quanh đạo Cơ đốc. Theo
ông, thế giới là mênh mang vô tận. Trong cái cõi vô tận ấy, con người cảm thấy mình chỉ
là một "cây sậy nhỏ bé yếu ớt" nên cần phải có thượng đế và Tôn giáo giúp đứng vững.
Nhận thức về con người, Pascal vạch ra hai mặt đối lập tự nhiên: Cái cao cả và cái khốn
cùng. Chỉ có tư tưởng mới đem lại sự cao cả cho con người. Ông khâm phục những người
có tư tưởng như nhà bác học, triết gia, nhà thơ và nhà tâm lí học. Theo ông, chính dục
vọng đã đẩy con người vào chỗ khốn cùng.
Pascal thể hiện một bút pháp phân tích sâu sắc, biện chứng khi phân tích tâm lí tiêu biểu
cho ngôn ngữ thế kỉ 17.
VHPT1/P.H.N
102
CHƯƠNG IX THƠ NGỤ NGÔN LA FONTAINE
(1621 - 1695)
La Fontaine làm thơ viết văn, nổi bật nhất là viết truyện kể ngụ ngôn, Tác phẩm Những
truyện kể (1665) nội dung bắt nguồn từ kho tàng truyện dân gian, kể cả những truyện thơ
ngụ ngôn trung cổ của Rabelais thời Phục Hưng và những truyện trong văn học Phục Hưng
Italia. Những mối tình vụng trộm lén lút của các thầy tu, ca ngợi những thú vui trần tục, tự
nhiên, bác bỏ luân lí khổ hạnh của nhà thơ. Ông đã chịu ảnh hưởng thật rõ nét triết lí
Gassendy. Thơ ngụ ngôn La Fontaine vươn lên ngang tầm mọi loại thơ khác trên văn đàn ,
gồm ba tập viết trong 26 năm.
Nhân vật trong truyện thơ ông thường là con sư tử. Là chúa sơn lâm, sư tử quen ăn bám
phè phỡn trên sự đói khổ cực nhọc của muôn loài. Nó ưa phỉnh nịnh, luôn luôn hống hách.
Nó kết thân với một lũ tay chân luồn cúi bợ đỡ, lập ra một chế độ cai trị hà khắc bịp bợm
xảo trá. Các loài vật bé nhỏ hiền lành chỉ biết cắn răng chịu đựng. Tiêu biểu là truyện Các
loài vật bị dịch hạch .
Tôn giáo - chỗ dựa của nền chuyên chế quân chủ cũng xuất hiện trong thơ ông, như: Chó
sói và Cáo, Đám ma sư tử, Cụ cố đạo và Thần chết, Thầy bói rơi xuống giếng, Lá s , Động
vật trên cung trăng . . .
La Fontaine cũng đả kích giai cấp tư sản - những thói hợm hĩnh và thói xấu khác, như Cây
sồi và cây sậy và tính háo danh, bạc bẽo của chúng.
Quay về với nhân dân, La Fontaine có cái nhìn đúng đắn sâu sắc về người lao động. Lão
nông và các con . Nhà thơ ca ngợi niềm vui thanh thản của họ: Cô hàng sũa và bình sữa
,Thần chết và bác tiều phu. Ca ngợi tình yêu tự do và chung thủy, dũng cảm chống áp bức
của dân chúng: Người nông dân sông Danub .
Nhà văn có lòng yêu thiên nhiên nổi hơn hẳn các nhà văn cùng thời. Hình ảnh đó được mô
tả đầy cảm hứng, tạo vật hùng vĩ, tươi sáng đầy sức sống trong thơ văn ông.
Bên cạnh chủ đề lên án chế độ chuyên chế như một thế lực đe dọa cuộc sống và tự
do của nhân dân, ông không quên giáo dục sửa chũa cả những thói xấu của quần chúng.
Nhà thơ nói "tôi dùng loài vật để dạy người đời một cách có tình có lý, đồng thời phải làm
cho người ta vui vẻ" .
Ở Việt Nam, thơ ngụ ngôn La Fontaine được dịch từ trước Cách mạng Tháng Tám, sau
1954 tiếp tục được phổ biến. Gần bốn thế kỉ qua, đối với loài người , thơ La Fontaine vẫn
còn giá trị và rất hiện đại.
MỘT SỐ BÀI NGỤ NGÔN TIÊU BIỂU CỦA LA FONTAINE
THỎ VÀ RÙA
Chạy tốt nhỉ, cốt đi đúng lúc .
VHPT1/P.H.N
103
Chuyện Thỏ, Rùa ngẫm thực rõ thay
Rùa rằng: Ta đánh cuộc này
Đích kia chạy đến, anh tày tôi chăng?
Chị điên chắc! Nghĩ xằng mơ hão
Chạy hơn ta? Tẩy não đi thôi
Khăng khăng mà cứ giũ lời
“Điên hay không, tôi vẫn chơi cuộc này”
Họ vào cuộc theo như Rùa thách,
Giải hai bên cạnh đích cùng bày.
Hỏi chi vật nọ món này !
Lại cần chi biết ai đây trọng tài !
Thỏ chỉ việc nhảy vài bốn cái.
(Cái nhảy khi xuýt phải xa cơ,
từng làm bày chó ngẩn ngơ ,
Rượt theo mà chẳng bao giờ bén chân)
Vâng ! Thỏ đủ giờ ăn giờ ngủ.
Giờ vểnh tai nghe ngóng đông tây,
Mặc cho cái ả Rùa này
Như ông quan cụ khoan thai lê mình
Rùa rời gót tận tình tận lực,
Ỳ ạch lê từng bước cố mau
Hợm mình thỏ định chạy sau
Khởi hành cùng lúc hơn nhau quá thường
Thỏ nghĩ bụng, “không bươn bả vội
Càng phất phơ càng nổi tài ba ! "
Thỏ gặm cỏ, thỏ lê la,
Thỏ nằm Thỏ nghỉ nhởn nhơ đủ trò
Nhơn nhơn chẳng buồn lo tranh cuộc
Cuối cùng … khi Thỏ ngước nhìn lên,
Đích kia Rùa đã kế bên
Thỏ ta vội phóng như tên bay vù.
Nhưng bay vội quá ư vô ích
Chị Rùa ta tới đích nhanh thay !
Rùa cười : Tôi nói chẳng sai,
Có ai ăn được cái tài chạy nhanh ?
(Huỳnh Lý – Nguyễn Đình dịch)
ÔNG GIÀ VÀ CÁC CON
Phú nông gần đất xa trời,
Họp riêng con lại ngỏ lời thiết tha
Rằng: ruộng đất ông cha để lại
Các con đừng khờ dại bán đi
Kho vàng chôn dưới đất kia
Cha không biết chỗ, kiên trì gắng công
Tìm khắc thấy, cuối cùng sẽ thắng
Xốc ruộng lên, tháng tám sau mùa,
VHPT1/P.H.N
104
Tay cày, tay cuốc, tay bừa,
Xới qua xới lại chẳng chừa chỗ không.
Bố chết. Các con cùng gắng gổ
Lật tung đồng đây đó khắp nơi
Kỹ càng công việc xong xuôi
Cuối năm lúa tốt bời bời bội thu .
Vàng với bạc giấu mô chẳng thấy
Rõ ràng ông bố ấy khôn ngoan.
Trước khi từ giã trần gian,
Lấy câu “lao động là vàng” dạy con.
(Tú Mỡ dịch)
CÁC LOÀI VẬT BỊ DỊCH HẠCH
Một hoạ lớn gây tai dữ dội.
Hoạ trời gieo lúc nổi lôi đình
Để trừng trị tội chúng sinh.
Chính là dịch hạch- âu đành gọi tên
Cái hoạ một ngày đêm cũng đủ,
Làm ngổn ngang đầy ứ tuyền đài.
Hoạ nhè loài vật gieo tai.
Dù không chết hết muôn loài đều vương,
Chán cuộc sống đau thương hấp hối.
Kế bảo sinh chẳng đoái chẳng hoài,
Cao lương cũng chẳng buồn xơi.
Thờ ơ, chồn sói mặc mồi thơ ngây.
Chim gáy cũng lìa bầy lánh bạn.
Hết ái ân, thôi cạn nguồn vui !
Thiết triều, Sư tử phán lời :
“Chư khanh thân ái nếu tôi không lầm,
Trời cố phạt lỗi lầm ta đấy,
Nên bắt ta gánh lấy hoạ này
Tội tình ai nặng nhất đây
Phải hy sinh để chịu ngay lòng Trời,
May ra bệnh muôn loài được khỏi.
Sử sách xưa đã nói rành rành
Gặp tai biến ấy âu đành
Vì nhau ta phải quên mình cứu nguy.
Đừng tự dối làm chi các bạn,
Nghiêm xét mình cho tận lương tâm …
Trẫm thì tham thực quên thân,
Miệng rỗng trót nhá hàng trăm cừu rồi!
Cừu đâu đụng đến người của trẫm?
Không dối vua chẳng dám khinh nhờn
Đôi khi tội trẫm còn hơn,
Ngon mồm có lúc xơi luôn mục đồng.
Nếu cần trẫm vui lòng hiến mạng
VHPT1/P.H.N
105
Nhưng xét ra muốn đặng phân minh,
Mỗi khanh nên thú tội mình.
Theo gương của trẫm chí tình mới hay…
Phải hy sinh mới thật công bình” .
Cáo ta đứng dậy tấu trình :
“Muôn tâu thánh thượng anh minh tuyệt trần,
Lệnh ngài quả băn khoăn quá mức,
Nhá cừu ư ? giống ngốc, giống tồi,
Có gì đáng tội ngài ơi ?
Chúng còn hân hạnh được ngài nhá cho !
Thằng chăn nữa ! cái đồ vô lại !
Chính hắn nên chịu mọi nhục hình,
Cái đồ ngợm quá hợm mình,
Toan trên muôn vật ngông nghênh trị vì !”
Cáo vừa tấu lời ty tiện đó,
Lũ nịnh thần rầm rộ vỗ tay,
Chẳng ai động đến tội dày
Của Hùm, của Gấu, của bầy đầu to
Loài vật gây sự đồ chó má,
Theo lời cung đều hoá thành oan !
Lừa ta đến lượt mở mồm :
“Thưa, tôi còn nhớ một hôm thế này :
Qua bãi cỏ nhà thày tu nọ,
Đói, thời cơ, ngọn cỏ mịn màng,
Ma đưa lối, quỷ dẫn đàng,
Cỏ kia tôi gặm khoảng bằng lưỡi tôi
Tôi nào có quyền xơi thế chứ,
Vì lẽ công xin thú rạch ròi.”
Lừa ta chưa kịp dứt lời,
Nhao nhao kết tội, tiếng sôi cả triều
Sói am hiểu ít nhiều pháp luật,
Liền hô hào, diễn thuyết ba hoa,
Rằng cần hiến mạng lừa ta,
Cái con ghẻ lở gây ra vạ trời !
Lỗi tí tẹo tức thời thành án,
xử giảo ngay mới đáng tội đày !
Gặm cỏ người ! Tội ghê thay !
Tội kia chỉ có cách này : Giết thôi !
Để Lừa biết tội trời đầy đủ,
Chúng lôi ngay cổ nó hành hình
Lạ chi công lý triều đình,
Sang hèn thay đổi tội tình trắng đen
(Nguyễn Đình dịch)
VHPT1/P.H.N
106
CHƯƠNG X
BI KỊCH CỔ ĐIỂN PHÁP
CORNEILL và RACINE - HAI KHUÔN MẶT TIÊU BIỂU
Bi kịch là thể loại nghệ thuật phát triển nhanh mạnh và liên tục, đạt tới tột đỉnh vinh quang
và gây nhiều chấn động lớn. Corneill và Racine là hai gương mặt khác nhau đại biểu ưu tú
cho hai thời kì và hai phong cách khác nhau của bi kịch cổ điển Pháp.
I - Piere Corneill 1606 -1684 người mở đường vinh quang cho bi kịch Pháp
Ông được coi là người khai sinh nền nghệ thuật sân khấu Pháp. Trước ông, nền kịch dân
gian Pháp còn rất non nớt, chưa có tổ chức, chưa có qui tắc sáng tác chưa thành một loại
hình nghệ thuật hẳn hoi, chỉ giải trí thuần túy với tiếng cười dễ dãi. Trên sân khấu chuyên
nghiệp đã có một số cây bút đáng chú ý nhưng phải chờ đến Corneill mới thỏa mãn được
đòi hỏi của công chúng nghệ thuật và chiếm lĩnh sân khấu Pháp.
Corneill- người anh hùng của những bi kịch anh hùng - sinh tại Ruan xứ Normandie trong
một gia đình công chức. Sau khi tốt nghiệp trường dòng, anh học luật và đỗ luật sư (1624).
Cuộc sống dễ chịu ở quê nhà, Corneill say mê thơ ca và sân khấu, năm 1629 anh viết vở
kịch đầu tay "Meliter", đưa cho chủ gánh hát kiêm diễn viên là Mondori. Thành công đầu
tiên khiến anh phấn khởi dời Ruan đi Paris, và viết tiếp một số hài kịch về tình yêu với
những đối thoại sinh động hấp dẫn. Năm 1635 chuyển sang viết vở bi kịch đầu tiên là
Medee (thuộc truyền thuyết Hi Lạp, tác giả tiền bối là Euripide). Dù Corneill cố gắng sáng
tạo cho hình tượng nhân vật chính Medee có tính người hơn thời cổ đại nhưng vở kịch vẫn
chưa thu được kết quả mong đợi. Sau đó chuyển sang đề tài Tây ban nha, Corneill viết một
số bi hài kịch trong đó nổi bật như ngôi sao là Le Cid (1637). Vở kịch châm ngòi cho một
cuộc bút chiến nảy lửa, lôi cuốn hầu khắp mọi tầng lớp xã hội chú ý, xôn xao. Tể tướng
Richelieu không tán thành cách lựa chọn và giải quyết vấn đề của tác giả nên đã ra lệnh
cho Viện Hàn lâm mang vở kịch ra kết án một cách bất công. Mặc dù vậy quần chúng vẫn
nhiệt liệt hoan nghênh kiệt tác của Corneill. Chính quyền quân chủ chuyên chế phản ứng
quyết liệt, buộc Corneill phải im lặng nghỉ viết một thời gian, lui về Ruan, xem xét lại
nghệ thuật của mình và nghiên cứu kĩ hơn nghệ thuật kịch của thời đại. Thời kì sáng tác
thứ nhất của ông kết thúc tại đây.
Năm 1640 lấy đề tài từ cổ La mã , ông viết hai vở Orax và Sinna ca ngợi những nhân vật
luôn luôn gạt bỏ lợi ích cá nhân, dù phải tàn nhẫn với cả người thân thích, quyết đặt quyền
lợi quốc gia lên trên hết.
Năm 1644, vở kịch Rodoguine đánh dấu bước ngoặt mới trong sáng tác của Corneill. Vẫn
dựa vào sự kiện thời cổ Hi Lạp , tác giả muốn miêu tả tập trung sự thèm khát quyền lực và
yêu đương của một số nhân vật quí tộc phong kiến. Những dục vọng ích kỉ này đã vượt
lên, đẩy lùi lí trí, dẫn họ đến tội lỗi. Tiếc rằng về sau ông lại viết tiếp những vở kịch sút
kém, khoa trương giả tạo. Mặt trời bi kịch Corneill bắt đầu lu mờ báo hiệu sự khủng hoảng
VHPT1/P.H.N
107
nghiêm trọng của nhà thơ trước thời đại và nghệ thuật cung đình. Cái mới trong giai đoạn
ba này là: bên cạnh đấu tranh nội tâm diễn ra ở người anh hùng dũng cảm luôn luôn gạt bỏ
tình cảm riêng tư vì lợi ích quốc gia, xung đột bên trong đã được chuyển ra ngoài thành
xung đột hai lực lượng xã hội : chính nghĩa và phi nghĩa .
Vở bi kịch Le Cid
Ra mắt công diễn tại rạp hát Mare thủ đô Paris tháng 12 năm 1636. Thắng lợi của nó thật
huy hoàng, công chúng nồng nhiệt chào đón. Khi đánh giá những tác phẩm khác, người ta
lấy Le Cid làm mẫu mực, "đẹp như / hoặc không bằng Le Cid" .Vở kịch được trình diễn
nhiều lần trước hoàng hậu và tể tướng, được thưởng 15000 livre. Vở kịch in thành sách hai
lần trong năm đầu . Nhờ vở kịch, cha của Corneill được phong tước quí tộc.
Lấy đề tài từ kịch Tây Ban Nha, sở trường của sân khấu Pháp, Le Cid là tiếng Ả rập nghĩa
là "đức ông" - biệt hiệu của nhân vật chính Rodrigu . Rodrigue vốn là nhân vật lịch sử có
thật , một chiến binh anh hùng có công đánh thắng quân Ả rập nên được binh lính gọi là
Đức ông . Anh trở thành anh hùng dân tộc, theo đạo Cơ đốc. Truyền thuyết dân gian và
truyện thơ dân gian đã kể nhiều về anh Corneill đã sử dụng tài liệu sưu tầm, sử liệu, chọn
lọc chi tiết, thêm vào những chất thời sự nước Pháp để xây dựng thành vở bi kịch điển hình
chung của Tây Âu.
CỐT TRUYỆN
Tiểu thư Simen và công tử Rodrigue yêu nhau , được hai gia đình thuận tình cho đính hôn .
Trước khi cưới, một sự cố xảy r . Trong một hội nghị ở triều đìn , cha của Simen gây xung
đột với cha của Rodrigue (nguyên sự việc là: Don Diego - cha của Rodrigue - được bổ
nhiệm chức quân sư phó, bá tước Don Gormas - cha của Simen - một võ tướng lão thành -
phản đối, cãi cọ và tát vào mặt Don Diego. Bá tước Diego ôm hận về nhà kể cho con nghe
và bảo con rửa nhục cho cha . Anh tự đấu tranh dằn vặt , cuối cùng đành đến gặp lão
tướng Don Gormas cha vợ tương lai . Trước hết anh tha thiết đề nghị ông giảng hòa với
cha mình . Nhưng lão tướng từ chối .
Buộc lòng , anh phải thách đấu . Kết quả lão tướng đã ngã gục dưới lưỡi kiếm của anh .
Tiểu thư Simen quá đau đớn , đòi nhà vua phải xử tội Rodrigue đền mạng .Lão đại thần
Don Diego xin vua cho ông nhận án tử hình thay con trai . Vua còn đang phân vân khó xử
. Rodrigue đến gặp Simen , nghe được tâm sự day dứt khổ đau của nàng giữa tình yêu và
bổn phận , anh tình nguyện nộp mình cho nàng trả thù nhà . Nhưng Simen từ chối và bảo
:" chàng đã làm đúng bổn phận ! ". Còn nàng , để xứng đáng với chàng Simen cũng sẽ
làm tròn bổn phận - nghĩa là đòi nhà vua xét xử anh . Một cuộc xâm lấn của quân Moore
khiến triều đình phải lo đối phó . Vụ xét xử Rodrigue hoãn lại . Vua cử chàng cầm quân ra
trận . Simen phản đối nhà vua , vua khuyên giải : " chừng nào Rodrigue chiến thắng trở về
hãy xét xử cũng chưa muộn , còn nếu anh ta hy sinh thì coi như quân Moore đã thay chúng
ta thi hành án ( ! )
Rodrigue lập nhiều chiến công , đang trên đường thắng trận trở về . Nhà vua giả bộ báo
tin cho Simen biết chàng đã tử trận . Nàng đau đớn thương xót chàng , khóc ngất đi . Khi
biết mình lầm , nàng lại đòi triều đình phải thi hành công lý . Trở về , Rodrigue lại đến
VHPT1/P.H.N
108
nhận tội với Simen và xin chờ nàng ra tay hành động . Nàng chối từ nhưng nghĩ cách khác
. Có một gã quí tộc tên Don Sanche vốn theo đuổi nàng từ lâu , nay chộp cơ hội tiếp tục
theo đuổi , đến an ủi Simen . Nàng bảo gã thay mặt nàng ra tay bảo vệ danh dự nàng bằng
một cuộc quyết đấu với Rodrigue , sau đó nàng sẽ nhận lời cầu hôn của hắn . Rodrigue
chối từ , một mực chấp nhận chịu chết dưới tay nàng để giúp nàng làm tròn bổn phận
người con . Nàng yêu cầu anh nhận lời thách đấu của Don Sanche với điều kiện ai thắng
nàng sẽ cưới người ấy . Anh không còn cách lựa chọn nào khác . Simen ở nhà nôn nao chờ
đợi kết quả . Khi nhìn thấy gã Don Sanche xách kiếm trở về , Simen nhào ra cào xé gã , xỉ
mắng gã đã nhẫn tâm giết chàng . Sự thật là Rodrigue thắng trận nhưng anh đã tha chết
cho đối phương . Nhà vua can thiệp , tuyên bố xóa tội cho Rodrigue và an ủi và nhắc
Simen thực hiện cam kết trước khi quyết đấu . Hai người chấp hành lệnh của hoàng đế ,
chuẩn bị đám cưới mở đầu một cuộc sống hạnh phúc lâu dài .
GỢI Ý PHÂN TÍCH VỞ KỊCH
(Tìm hiểu mâu thuẫn dẫn tới xung đột, cách giải quyết xung đột, ai là nhân vật bi kịch ?
tính chất của bi kịch là gì ?
Vở kịch khẳng định thắng lợi oanh liệt của lí trí (ý thức về nghĩa vụ) vượt qua dục vọng cá
nhân (tình yêu đôi lứa) và danh dự dòng họ (bổn phận gia đình). Xung đột bi kịch nổ ra từ
mâu thuẫn không thể hòa giải được giữa Cái Chung và Cái Riêng, tức là giữa xã hội và cá
nhân, lí trí và tình cảm .
Các nhân vật trung tâm có tính cách anh hùng kiểu mới xuất hiện trên sân khấu. Họ có sức
sống nội tâm mãnh liệt. Những đầu óc tỉnh táo sáng suốt có ý thức sâu sắc về nghĩa vụ -
trước hết là nghĩa vụ gia đình (cần bảo vệ danh dự gia đình). Mặt khác họ là những trái tim
nồng cháy yêu thương (tình yêu lứa đôi). Cả hai nhân vật đều mạnh mẽ, rạch ròi phân
minh nhưng đi ngược chiều nhau và mâu thuẫn phát triển dần tới xung đột - phải loại bỏ
lẫn nhau ! Tình cảm mặn nồng chính đáng vẫn không làm lu mờ ý thức nghĩa vụ, ý thức
danh dự, nó phải khuất phục trước ý chí. Nói cách khác, ý thức nghĩa vụ, ý thức danh dự
trở thành nền tảng của mọi tình cảm kể cả tình yêu. Lí trí thắng lợi làm nên phẩm chất ,
đức hạnh người anh hùng kiểu mới của thời đại và là tiêu chuẩn của vẻ đẹp mới mẻ của thế
kỉ.
Rodrigue và Simen đáng yêu đáng kính vì họ đã mang lí tưởng của thời đại. Sự kiện chàng
Rodrigue đánh thắng quân xâm lược Moore có ý nghĩa quan trọng về tư tưởng nghệ thuật,
góp phần giải quyết gỡ nút được ổn thỏa. Tư tưởng ấy là: dốc sức giữ gìn đất nước dù phải
hy sinh tình nhà và tình yêu đôi lứa (cá nhân). Bổn phận gia đình dòng họ tuy lớn lao hơn
cá nhân song cũng phải nhường bước cho nghĩa vụ công dân trước vận mệnh quốc gia.
Rodrigue - người con hiếu thảo, người công dân anh hùng và người tình chung thủy -
chàng đã khéo hành động sao cho trọn vẹn. Rodrigue và Simen, họ tự hào vì được chiến
đấu hi sinh cho nghĩa vụ lớn lao (gia đình, đất nước). Lí tưởng của họ vấp phải trở lực của
tình cảm riêng tư, một tình cảm nồng nhiệt. Tình yêu có sức hấp dẫn say người không dễ gì
cưỡng lại được. Còn lí trí thì đòi họ phải tuân lện. Cuộc vật lộn nội tâm gây chảy máu tâm
hồn nhưng họ đã tự thắng mình, tiến tới thắng lợi vinh quang.
VHPT1/P.H.N
109
Rodrigue chẳng phải ngay từ đầu anh đã đứng hẳn về phía bổn phận gia đình. Anh cố gắng
tìm cách hòa giải, nhưng thất vọng. Khi đã hành động, anh không hối hận. Anh nói với
Simen: "Anh sẽ còn làm như thế nếu anh phải làm" - và trái tim yêu thương của anh tan vỡ
cùng với nỗi đau đớn của người yêu. Anh muốn tìm một cái chết để trọn vẹn đôi đường
(bổn phận gia đình và tình yêu). Nếu không xảy ra cuộc xâm lược của quân Moore thì kết
cục kể như thế là xong. Khi ra trận anh dồn hết sức chiến đấu, thắng lợi vinh quang trở về.
Anh quay trở lại với món nợ tình cần phải trả bằng máu. Rodrigue là hình ảnh mẫu mực
cao đẹp trọn vẹn của con người lí tưởng của thời đại.
Simen yêu say đắm đến mức sẵn sàng chết theo anh nhưng cũng rất phân minh khi giải
quyết mối quan hệ cá nhân và gia đình. Thù cha cao hơn tình yêu, rồi đến nghĩa vụ công
dân cao hơn danh dự gia đình. Khi đòi trừng phạt người yêu, cô vẫn thừa nhận anh đã hành
động đúng, "và em cũng phải xứng đáng với chàng". Cô vẫn khâm phục anh là con người
cao thượng đáng kính: "anh đã làm bổn phận của một người có danh dự. . . xúc phạm đến
em, anh đã tỏ ra xứng đáng với em. Thì bằng cái chết của anh, em cũng phải tỏ ra xứng
đáng với anh". Lí trí soi sáng mọi hành động của Simen [ SV hãy so sánh với trường hợp
Juliet tha thứ cho Romeo tội giết Tibalt anh họ thân thiết của nàng - nhưng khác nhau về
tình hình thời đại, dẫn đến lí tưởng khác nhau - giống nhau là lí trí chiến thắng . . .)
Don Diego cha của Rodrigue, lúc đầu chỉ nghĩ đến thù riêng, sau khi thù đã rửa ông lại tỉnh
ngộ trở về với lí trí. Ông tự nhận tội mình ,xin đổi mạng cho con, tích cực bào chữa cho
con vì ông nhận thức rằng Rodrigue là tấm lá chắn của nền an ninh đất nước Tây Ban Nha
trước kẻ thù bên ngoài. Ông giục giã con đi ngay ra tiền tuyến, nhắc con làm tròn bổn phận
dù phải hi sinh thân mình.
Vở bi kịch "Le Cid" là một điển hình sân khấu với đề tài mang tính phi thường đột xuất
((nghĩa là không phải chuyện đời thường), cốt truyện phức tạp nhiều biến cố lớn, nhân vật
siêu phàm về tính cách, có tính cách quả cảm, ý chí mãnh liệt. Hành động kịch chặt chẽ
dồn dập, đối thoại và độc thoại sắc bén, khí thế bi hùng của cuộc đọ kiếm nảy lửa. Sự
thống nhất giữa nội dung và nghệ thuật kịch khiến cho tác phẩm không gây ra sự nghi ngờ
của khán giả về sự giả tạo khoa trương mà còn chứa chan ý vị lạc quan thôi thúc công
chúng vượt qua tất cả vì sự chiến thắng của lí tưởng cao đẹp.
Vở bi kịch Le Cid vừa ra mắt khán giả lập tức thu hút dư luận Paris, gây tiếng vang lớn
trên kịch trường Pháp. Tên tuổi Corneill nổi như sóng cồn. Những nhà văn vốn không ưa
thích tác giả đã phải thốt lên: "Mặt trời đã mọc rồi, các ngôi sao hãy lặn cả đi". Về sau có
nhà phê bình đã nhận xét: "Tác phẩm Le Cid không phải chỉ là sự khởi đầu của một người,
đó là sự khởi đầu cuả một nền thi ca và là rạng đông của một thế kỉ lớn". Tuy nhiên những
lời công kích phê phán tác giả và tác phẩm cũng không ít và chẳng kém phần nặng nề gay
gắt. Một số nhà văn không tên tuổi được triều đình nâng đỡ đã ghen ghét Corneill, vu cáo
ông "ăn cắp văn của Tây ban nha, thiếu đạo đức khi cho Simen hứa hôn với kẻ đã giết cha
mình”.v.v…
Nhận chỉ thị của giáo chủ tể tướng Richelieu, Viện hàn lâm Pháp đã công bố nhận xét
(1638) nhằm chỉ trích vở kịch một cách nghiệt ngã. Họ nhằm vào một số chi tiết vụn vặt:
không tuân theo qui tắc cổ điển của Aristote - thời gian truyện kịch dài quá 24 giờ (nhà văn
Voltaire chỉ ra điều đó ở câu thứ 1169: lời hoàng hậu nói với Simen). Kịch không đạt duy
VHPT1/P.H.N
110
nhất về hành động: cả công chúa cũng yêu Rodrigue. Kịch đã viết một đoạn tình ca thất
luật. Kết thúc kịch không phù hợp thể bi kịch và "không giống như thật". Nhà thơ
Corneill bị cấm không được viết bài tranh luận trước sự kết án bất công đó. Thực chất, lời
buộc tội của viện hàn lâm che giấu một thái độ chính trị- các nhà cầm quyền bất mãn với
tư tưởng tự do của Corneill. Dưới con mắt của giáo chủ tể tướng và bọn thống trị,
Rodrigue người anh hùng lí tưởng của vở kịch đã coi thường pháp luật, thiếu tôn trọng
triều đình (đấu kiếm để giải quyết mâu thuẫn cá nhân trong khi pháp luật cấm đấu kiếm).
Nào là vở kịch đề cao anh hùng Tây ban nha là trái với tinh thần dân tộc Pháp (hồi đó xung
đột chiến tranh giữa Pháp và Tây ban nha còn dai dẳng ác liệt) .
Mặc dù Corneill nhiều lúc xa rời qui tắc cổ điển mà các nhà lí luận cung đình đòi hỏi khắt
khe, nhưng chính điểm đó là sự lôi cuốn mạnh mẽ nhất đối với nhà văn lãng mạn sau này.
Phải mất nhiều thời gian tranh luận, hội thảo. thăm dò dư luận quần chúng, khi tình hình
chính trị thay đổi vở kịch Le Cid mới được chính thức công nhận . (*)
*
2. Racine (1639-1699) và bi kịch Andromaque
Nhà thơ Racine- người kế tục nhưng trước đó là đối thủ số một của Corneill trên
sân khấu. Thực sự nổi tiếng ở nửa sau thế kỉ XVII, Racine làm cho kịch cổ điển đạt tới
đỉnh cao hoàn hảo về nghệ thuật xây dựng mẫu nhân vật và sự phân tích tâm lí tinh tế. Với
Racine, những người phụ nữ và những nhà vua chúa yêu đương nạn nhân khốn khổ của sự
thèm khát chaý bỏng -đã chiếm lĩnh sân khấu, thay thế cho những tâm hồn cao thượng của
thời Corneill, đã phản ánh bước ngoặt phức tạp của lịch sử và văn học, tâm trạng chán
chường của những tầng lớp tiến bộ nhất của xã hội Pháp những năm cuối triều vua Louis
XIV. Racine sáng tác một cách tự nhiên, tài tình khi phản ánh chân thực hiện thực Pháp
trong khuôn khổ tù túng của qui tắc cổ điển chủ nghĩa chính thống. Nhà phê bình văn học
Boileau viết cuốn "Nghệ thuật thi ca" (hoặc Nghệ thuật thơ) tổng kết lí luận văn học ưu tú
của "đại thế kỉ" chủ yếu dựa vào sự nghiên cứu những vở kịch thơ xuất sắc của Racine.
Nghệ thuật kịch của Racine liên tục đặt ra những vấn đề lí luận mới cho thế kỉ XVII và cả
những giai đoạn sau nữa . Có lúc, nhà nghệ sĩ được sùng bái hết mức, lúc khác lại bị coi là
thứ đồ cổ trong viện bảo tàng. Nghệ thuật Racine luôn luôn là chỗ dựa cho nhiều trường
phái nghệ thuật mới , nhất là các trường phái hiện đại ở Phương Tây . Racine vừa cổ điển
lại vừa hiện đại .
Racine- nhà bi kịch của con người hai mặt- sinh ngày 22 tháng 12 năm 1639 tại Ferte
Milon trong một gia đình công chức khá giả Lên bốn tuổi đã mồ côi cả cha lẫn mẹ,
Racine ở với bà nội và cô ruột. Cô đi tu, cậu bé cũng theo vào học luôn ở tu viện Po Royal.
Vài năm sau, cậu bé được gửi tới trường trung học Bove để học các khoa học nhân văn .
Trở lại Po Royan, Racine tiếp tục thụ giáo những người thầy uyên bác của giáo phái
Jeansenis nổi tiếng về sự khắc kỉ đạo đức, bi quan yếm thế về thế giới và nhân sinh. Họ
cho anh tiếp xúc với thi ca của Homer, triết học Platon . . .(cổ Hi Lạp). Nói chung anh
được học nhiều về văn hoá cổ Hi-La. Họ cố gắng làm cho Racine cậu học trò trung học
*
Ghi chú: Trên sân khấu Việt Nam, vở Le Cid được chuyển thể kịch nói, cải lương với các
tựa đề: Mối tình oan nghiệt, Lưỡi gươm oan nghiệ , Tình yêu và danh dự) .
VHPT1/P.H.N
111
rung động với vẻ đẹp của tiếng Pháp. Sự đào tạo có tính chất tôn giáo đạo đức và những
kiến thức theo quan điểm Jeansenis đã đặt cơ sở vững chắc , để lại ảnh hưởng sâu xa trong
nhà nghệ sĩ Racine sau này. Những ảnh hưởng đó là: Cảm quan đen tối về cuộc đời . Mầm
mống yếu hèn, tội lỗi trong bản chất con người và sự bất lực của nó trước sự xô đẩy của
những thế lực thù địch. Những ước mơ thầm kín về tự do, dân chủ và nhân đạo. Nỗi khát
khao hướng về cuộc sống vô thần và những thú vui trần tục. Đó là những mâu thuẫn rồi sẽ
chi phối cuộc đời và sáng tác văn học của Racine.
Rời khỏi tu viện Po Royal, Racine đi Paris, tiếp xúc với các nhà văn và những người trí
thức tiến bộ . Anh bắt đầu làm thơ và say mê sân khấu. Năm 1660, nhân lễ cưới của nhà
vua, Racine viết bài thơ "Tiên nữ sông Seine" dâng lên vua, được thưởng 100 đồng livre .
Racine thử viết kịch . Lo lắng trước con đường đời của Racine , gia đình tìm cách kéo con
ra khỏi cái thế giới văn học nghệ thuật đáng lo ngại. Racine phải đến thị trấn Undex chuẩn
bị nhận chức thày dòng .Trong khi chờ đợi , Racine tranh thủ làm thơ . . .
Năm 1663 , Racine trở lại Paris, cho xuất bản hai tập thơ "Đức vua bình phục" và"Vinh
quang của các thi thần". Hai tập thơ được dư luận chú ý , tác giả được mời gặp mặt ở triều
đình. Racine kết thân với nhà phê bình Boileau và chuyển hẳn sang viết kịch .Hai vở đầu
tay "Người thành Thebes" và "Alexandre đại đế" được biểu diễn kết quả tốt nhờ đoàn
Kịch hoàng gia của Moliere. Sau đó ông chê diễn viên của Moliere , đưa vở kịch kế tiếp
cho đoàn kịch khác diễn. Việc này gây ra mối bất hoà với vua hài kịch Moliere. Mấy
tháng sau, nhận được một bức thư của một thầy học cũ thuộc giáo phái Jeansenic viết :"
Nhà văn nhà viết kịch là những kẻ đầu độc, không phải thể xác mà tâm hồn những người
sùng tín", Racine nghĩ rằng thầy cũ có ý ám chỉ mình, ông viết thư trả lời gay gắt bênh vực
nhà văn nhà thơ và phê phán giáo phái Jeansenis . Từ đó Racine đoạn tuyệt với tu viện Po
Royal .
Thắng lợi đầu tiên đem lại niềm tự hào lớn và khẳng định vững chắc vị trí và tài năng của
Racine là vở bi kịch Andromaque được công diễn lần đầu tại triều đình năm 1667. Vở
kcih5 tác động mạnh đến công chúng Pháp và chia họ thành hai trận tuyến đối lập. Nó báo
hiệu sự xuất hiện một phong cách bi kịch mới lạ so với bi kịch anh hùng của Corneill giai
đoạn trước. . . Sau đó liên tục trong 10 năm Racine cho ra mỗi năm một vở, vừa dần dần
chinh phục khán giả vừa đẩy lùi các khuynh hướng đối lập . . . Racine bị phê phán là "kịch
mang tính phi đạo đức" từ những kẻ bất tài đố kị đối lập, thù địch. Ông trở nên nản lòng,
ngừng sáng tác và trở lại hoà giải với tu viện Jeansenis. Tuy thế, ông vẫn được vua Louis
chọn làm thư kí riêng, rồi làm nhà viết sử của triều đình. Năm 1689 theo yêu cầu của
hoàng hậu, ông viết vở kịch dựa theo Kinh Thánh dành cho những nữ sinh của nhà tu Saint
Sier tập diễn trong nội bộ. Vở kịch có một phong vị riêng, dàn đồng ca phụ hoạ, nội dung
đề cao lòng nhân ái và sự khoan dung tôn giáo của nhà vua. Sau đó ông viết vở kịch tôn
giáo thứ hai Atali" - đây là vở kịch cuối cùng của sự đổi mới lớn lao táo bạo.
Sau Atali, Racine soạn cuốn "Lược sử Po Royal" in đậm tư tưởng giáo phái Jeansenis. Rồi
ông nghỉ viết lui về giao thiệp với những người Jeansenis. Lúc này giáo phái không ủng hộ
sự độc đoán của nhà nước chuyên chế nên Racine bị vua Louis XIV nghi ngờ, bỏ rơi.
Racine chết năm 1699, chôn tại tu viện Po Royal.
VHPT1/P.H.N
112
Bi kịch của Racine được chia làm 3 giai đoạn trong 30 năm sáng tác .
Giai đoạn 1- hai vở kịch có nguồn gốc văn học cổ Hi Lạp- La mã, chưa hình thành phong
cách riêng, chỉ là sự nối tiếp bi kịch anh hùng (kiểu Corneill) hoặc bi kịch phong nhã .
Giai đoạn 2- bước đi mạnh mẽ dứt khoát lộng lẫy hào quang, liền một mạch từ vở
Andromaque đến Federer. Đây là giai đoạn của những vở bi kịch hay nhất. Những nhân
vật luôn luôn chất chứa trong lòng nỗi thèm khát cá nhân ghê gớm, thèm khát yêu đương
hoặc quyền thế mang tính đen tối, tội lỗi. Nó nung nấu ruột gan con người, thôi thúc người
ta tìm cách thoả mãn mau chóng bằng mọi giá. Nó được miêu tả như một định mệnh khắt
khe không rõ nguyên nhân nào thôi thúc. Sụ thèm khát đó vấp phải trở lực cũng mạnh mẽ
chẳng kém- đó là Lí trí luôn cố giữ con người theo lẽ phải. Cuộc xung đột âm thầm mà
quyết liệt giữa thèm khát tội lỗi và lương tri sáng suốt là xung đột cơ bản trong kịch
Racine. Thèm khát không thoả mãn càng nóng bỏng và chuyên chế. Kết quả là sự thất bại
của Lí trí, gây ra kết cục đau thương khủng khiếp của nhân vật chính. Racine mở ra loại
thể mới - bi kịch tâm lí .
Bi kịch tâm lí của Racine có giá trị hiện thực và nhân văn sâu sắc. Nó phản ánh thực tế lịch
sử sinh động của xã hội Pháp dưới cái nhìn tiến bộ của nhà văn . Sang nửa sau thế kỉ XVII
, chế độ quân chủ pháp bước vào thời kì ổn định và thịnh vượng khi các thế lực phong kiến
cát cứ địa phương đã tê liệt chịu qui phục triều đình của hoàng đế, họ được phong tước và
sống bám lấy triều đình. Quan chức trở thành lũ ăn bám, lượn lờ xu nịnh, cầu cạnh ân huệ
bổng lộc, sớm tối lu bù yến tiệc, vũ hội, săn bắn, biểu diễn văn nghệ . . .Họ không bàn
chuyện chính trị và lợi ích quốc gia dân tộc. Không dễ dàng gạt bỏ lợi ích cá nhân vì một
nghĩa vụ chung . Sống nhàn tản, họ vùi đầu vào những chuyện riêng tư trong phạm vi xã
hội thượng lưu. Người ta thích tỏ ra tế nhị, lịch sự, ăn nói có duyên, hiểu tâm lí, chiều
chuộng phụ nữ . . . Yêu đương không chỉ là nhu cầu mà còn là thú vui thời thượng. "Con
người phong nhã" đã thay thế “con người anh hùng cứu nước” của nửa đầu thế kỉ.
Tình trạng ấy phù hợp cuộc sống xa hoa phù phiếm chốn cung đình nhưng rất xa lạ thậm
chí đối nghịch với kì vọng của nhân dân và trí thức về một chế độ quân chủ tập trung có
khả năng phát huy hơn nữa "sự vĩ đại Pháp" .
Là một nghệ sĩ cũng là một quan chức nhiều năm gắn bó với triều đình Louis XIV, Racine
đã thấy và phản ánh được cả một tầng lớp xã hội Pháp vào tác phẩm. Những vở kịch tâm
lí của Racine đã thoả mãn được cơn khát văn hoá nghệ thuật của thời đại. Càng về cuối thế
kỉ XVII, chính quyền Louis XIV càng tha hoá và độc đoán, trở nên thù địch với nhân dân.
Quần chúng bất bình, các nhà văn nghệ sĩ cổ điển tiến bộ đã dũng cảm tố cáo nạn chuyên
chế đó. Những vở bi kịch của Racine xây dựng đề tài từ những thèm khát uy quyền địa vị
cá nhân . . . đã trở thành vũ khí sắc bén chống cường quyền bạo chúa, phát ngôn lời kết án
của lịch sử và nguyện vọng chính đáng của xã hội, đấu tranh cho tự do dân chủ.
Trong khi phản ánh cuộc sống hiện thực, Racine để lại những dấu ấn riêng của nghệ sĩ. Đó
là tâm hồn nồng nhiệt, dễ bị kích động và những mâu thuẫn bên trong của mình: Sùng đạo
nhưng lại say mê vẻ đẹp nhân văn cổ đại Hi Lạp La mã; Ràng buộc với tu viện Po Royal
nhưng lại khó dứt ra khỏi cung điện Verseill (cung vua) hoa đăng lộng lẫy; Vừa muốn làm
nhà giáo dục đạo đức chính thống vừa náo nức muốn làm người thức dậy tâm hồn quần
chúng; Cố tỏ ra làm tròn bổn phận nhưng lại mắc lỗi với vua, với thầy cũ, với bạn và vợ . .
VHPT1/P.H.N
113
.Hình như có hai con người đối lập giành giật chiếm giữ con người Racine: một con người
lí trí chịu ảnh hưởng tôn giáo và phong kiến, người kia là con người đầy cảm tính luôn
hướng về cuộc sống thực tế đầy hấp dẫn, cám dỗ. Chính tác giả đã có lần tự thú như vậy.
Tính bi kịch "con người hai mặt" trong cuộc sống của Racine là yếu tố quan trọng làn nên
tính bi kịch trong tác phẩm nghệ thuật của ông.
Có lẽ Racine đã từng nghiền ngẫm cuốn tiểu luận khoa học của Descartes "Bàn về những
thèm khát của tâm hồn". Racine đã đào sâu vào tâm lí con người, chọn những thèm khát cá
nhân làm đối tượng miêu tả chính. Nhà triết học đã lôi kéo nhà văn cùng góp phần giải
quyết vấn đề có tính thời sự của xã hội Pháp nửa sau thế kỉ XVII.
Trong tác phẩm, Racine không kết tội, đôi khi có vẻ đồng tình với thèm khát. Thật ra , nỗi
thèm khát là một hiện tượng tâm lý nếu được dẫn đắt thích hợp thì có thể nâng tâm hồn
đến với những công việc vĩ đại (Luận văn của Diderot - thế kỉ Ánh sáng 18). Những nhân
vật bi kịch của Racine thất bại đáng kết tội chẳng phải vì họ thèm khát đắm say một con
người hay ham mê cái ngai vàng. Theo Racine cái khát vọng ấy vốn là có sẵn trong con
người, ở ngoài sự lựa chọn của con người. Đó là thèm khát chống phong kiến để giải
phóng bản năng, tự do dân chủ. Nó khát vọng muốn nâng cao con người nhân văn chủ
nghĩa Phục Hưng từng một thời được thể hiện ào ạt, nay cần được thể hiện trong phạm vi
hẹp và sâu sắc hơn. Nó chính là nhu cầu của giai cấp tư sản đang tiến lên. Nó đi tìm một
sự quân bình mới, sự thăng bằng của lí trí và tình cảm cảm xúc khiến cho cá nhân có thể
phát triển cân đối hài hoà . . . Nhìn thấy được những nét lành mạnh quí hiếm trong các tâm
hồn tội lỗi, tác phẩm của Racine in dấu một tinh thần nhân đạo chủ nghĩa chân chính.
Giai đoạn 3 - không có nhiều tác phẩm như hai giai đoạn trước , nhưng lại là bước ngoặt
quan trọng đảo lộn cả cuộc sống và nghệ thuật bi kịch.
GIỚI THIỆU HAI VỞ KỊCH TIÊU BIỂU: ANDROMAQUE VÀ ATALI
BI KỊCH ANDROMAQUE
Bối cảnh: thành Troie (Ilion) thời hậu chiến .
Nhân vật:
Andromaque - vợ goá của dũng sĩ hoàng tử Hector (thành Troie thất thủ)
Pyrus - lãnh chúa mới của thành Troie, gốc người Akay, con trai của anh hùng Achill quá
cố trong cuộc chinế tranh 10 năm đánh thành Troie
Ecmion - công chúa con vua Menelax xứ Hi Lạp (Akay), người yêu của Pyrus
Oreste - tướng Hi Lạp, say mê đeo đuổi Ecmion .
Tóm tắt cốt truyện kịch :
Pyrus đã đính hôn với công chúa Ecmion nhưng khi đến cai quản thành Troie anh lại đem
lòng yêu Andromaque vợ goá của dũng sĩ Hector . Andromaque tỏ ra một mực giữ thuỷ
chung với chồng và trọng danh dự thành bang, nàng kiên nhẫn chối từ lời cầu hôn của
con trai kẻ thù. Nàng cố không bị nao núng trước sự cầu hôn nồng nhiệt thiết tha của
tướng trẻ Pyrus. Trong khi đó , biết tin người yêu đang bỏ rơi mình, công chúa Ecmion lo
lắng bồn chồn . . . Giữa lúc đó, Oreste viên tướng trẻ - người đang theo đuổi công chúa
Ecmion nhận được lệnh nhà vua Menelax đến thành Troie truyền lệnh cho Pyrus phải bắt
đứa con trai nhỏ của Hector (tên cậu bé: Astianax) đem về xứ Hi Lạp để trừ hậu hoạ .
VHPT1/P.H.N
114
Thừa dịp này Pyrus ép nàng Andromaque nhận lời lấy y và hứa sẽ bảo toàn tính mạng đứa
con trai. Còn Oreste nhân chuyện này cũng lo tính giành lấy tình yêu của công chúa
Ecmion. Nàng Andromaque lo sợ bàng hoàng trước tình thế nan giải . Chịu nhục kết hôn
với kẻ thù thì cứu được con trai , chưa có cách nào hơn , nàng đành ưng thuận lời cầu
hôn của Pyrus . Tướng trẻ Pyrus quên hẳn mệnh lệnh của nhà vua , anh ta vui mừng chuẩn
bị đám cưới. Còn Ecmion căm hờn vị bị ruồng bỏ, nàng hứa sẽ nhận lời cầu hôn của
Oreste và yêu cầu anh ta giết chết Pyrus cho hả giận. Tướng Oreste cũng vì say mê nàng
công chúa mà liều lĩnh ra tay sát hại Pyrus sau giờ hôn lễ . Nàng công chúa Ecmion vẫn
còn nặng tình yêu Pyrus, hối hận , nàng xỉ mắng Oreste rồi tự vẫn bên xác người yêu .
Còn Oreste nhực nhã tuyệt vọng phát điên và bị hoàng hậu Andromaque vừa lên ngôi cai
trị thành Troie phát lệnh truy nã, y được đám lính đưa đi chạy trốn biệt xứ .
GỢI Ý PHÂN TÍCH :
Xét về mặt hình thức, Andromaque là nhân vật chính - nhân vật nữ anh hùng chiến thắng
(được nhà thơ đặt tên vở bi kịch). Nàng cố bảo vệ danh dự của chồng và danh dự thành
bang công đồng Troie. Nàng ứng biến tuỳ thời để bảo vệ sinh mạng con trai - nó cũng
niềm hi vọng của thành bang. Nhưng khi chúng ta xét toàn bộ vở kịch , thực sự nàng chỉ là
nhân vật chính giả. Ý đồ nghệ thuật xây dựng nhân vật này để làm điểm tựa cho bối cảnh,
mặt khác để nguỵ trang vượt qua kiểm duyệt và mũi nhọn chỉ trích của triều đình. Thực sự
những nhân vật còn lại mới là nhân vật bi kịch chính thức.
Hành động kịch của Andromaque bề ngoài có vẻ phức tạp quyết liệt song thực tế vẫn là
đơn giản, chưa phải là hành động bi kịch. Tuy nhiên nàng vẫn được coi là hình ảnh người
vợ người mẹ đẹp đẽ và cao cả, đáng ngợi ca trên những vần thơ vì tấm gương quên mình…
Nàng khéo léo chối từ kẻ cầu hôn, rồi lại nhẫn nhục đến gặp công chúa Ecmion để cầu xin
cho con trai nhưng vô hiệu quả. Nàng biết khéo léo nhen nhóm hi vọng cho kẻ si tình để
kéo dài thời gian Nàng là hình ảnh người vợ, người mẹ lí tưởng biết xử lý hài hoà giữa
lí trí và tình cảm.
Pyrus mới thực sự là hình ảnh đại diện của con người đương thời nửa sau thế kỉ 17. Anh ta
luôn luôn bị mối tình si lôi cuốn. Bản chất của anh hiền lành, quảng đại, khiêm nhường có
thể trở nên ông vua tốt của xứ sở Troie mới chinh phục. Nhưng vì tuổi trẻ bị cơn thèm khát
chiến thắng thúc giục, anh trở nên nóng nảy. Hai tính cách: lãnh chúa thô bạo và anh hùng
phong nhã giành nhau trong bản thân Pyrus. Tuy là kẻ anh hùng chiến thắng, vì say mê sắc
đẹp của Andromaque đến nỗi anh hạ mình hết mức cầu xin tình yêu của người phụ nữ yếu
đuối. Nàng chẳng có gì ngoài sắc đẹp và nỗi khổ đau. Những cuộc đối thoại giữa hai con
người thay bậc đổi ngôi: nàng là nữ hoàng còn chàng là kẻ đầy tớ, thật éo le, dồi dào kịch
tính. Say đắm Andromaque, anh ta quên hết lời hẹn ước hôn nhân với công chúa con vua
Menelax. Say mê Andromaque, anh khinh rẻ cả đống tro tàn còn âm ỉ cháy ngọn lửa hận
thù ở thành Troie. Say mê Andromaque, anh ta dám chống lại cả vương triều tổ quốc Hi
Lạp hùng mạnh.Và say đắm Andromaque, anh ta quên cả cảnh giác giữ gìn tính mạng.
Tình yêu làm anh ta trở nên hung dữ, đáng sợ càng thèm khát ráo riết hơn. Anh ta dùng
mọi thủ đoạn để chinh phục trái tim Andromaque -người vợ goá, không bận tâm vì cái tang
chồng của nàng. Và khi nàng chấp thuận lời cầu hôn thì Pyrus lại chứng tỏ là kẻ nam nhi
có tình yêu chân chính cao thượng, sẵn sàng từ bỏ tổ quốc Hi Lạp để bảo vệ đứa con trai
VHPT1/P.H.N
115
của người mình yêu. Đó là những tình huống bi kịch thật sự, không hề giản đơn, một chiều
và chưa thấu tâm lí như Andromaque
Đôi khi nghe lời cận thần can ngăn, thực ra là do nản chí, Pyrus nổi cơn giận dữ với người
đẹp và anh dừng bước lại . . . Nhưng rồi không thể quên được nàng, anh tiến tới dứt khoát
hơn. Cuộc sống của một đế vương trẻ tràn ngập trong khổ đau dằn vặt với tâm trạng bất an
này mới là nội dung chính của vở kịch.
Cái chết của Pyrus mang tính tất yếu, khi hết khổ đau nhân vật này không còn lí do để tồn
tại. Nó củng cố nhận xét của ai đó về con người thượng lưu Pháp thế kỉ XVII:"Cảm giác,
ngay cả cảm giác khổ đau, là cuộc sống duy nhất đáng mong ước" .
Ecmion là nhân vật sáng tạo của Racine từ nguyên mẫu của truyền thuyết Hi Lạp và kịch
cổ của Euripide. Nàng là người có địa vị cao, rất dễ hợm hĩnh, kênh kiệu, tự tin. Nhưng khi
thấy mình chông chênh trong hạnh phúc mong manh trước vị hôn phu dễ thay lòng đổi dạ
thì Ecmion chao đảo từ cực này sang cực khác, hoang mang bối rối khủng khiếp , mất hết
tự chủ. Nóng vội, nàng đã làm trái với tâm hồn mình và gây tai hoạ không thể cứu vãn.
Nàng cũng chỉ là một nạn nhân của bi kịch.
Oreste là một tính cách ít thành công hơn, chưa đủ gọi là nhân vật bi kịch. Hắn chỉ là con
người thiếu tự chủ nhất thời bị cơn thèm khát tình yêu đẩy vào kết cục bi đát nhục nhã.
Anh ta chỉ là một nạn nhân đau khổ của định mệnh (ngụ ý: không hiểu nổi việc mình làm,
ngu dốt. Khác với Pyrus hiểu rất rõ hậu quả mà vẫn hành động !) .
Vở kịch Andromaque thể hiện rõ nét nhất nghệ thuật bi kịch Racine. Kịch của ông không
quá lạ lùng siêu việt phức tạp ngổn ngang mà hấp dẫn khán giả bằng sự miêu tả tinh vi đời
sống tình cảm của con người thời đại trong một khuôn khổ hẹp nhất.
BI KỊCH ATALI
Mượn một côt truyện trong Kinh Thánh, vừa tiếp tục chủ đề quen thuộc vừa chuyển mạnh
sang phê phán chế độ quân chủ Pháp khi nó trắng trợn đối đầu với quần chúng nhân dân .
Sơ lược nội dung kịch:
Nữ hoàng Atali là nhân vật trung tâm, hiện thân của một nỗi thèm khát trả thù lớn lao
nhằm thanh toán một món nợ thù và cũng để củng cố, duy trì địa vị tối cao của mình. Là
một phụ nữ đã làm mẹ, làm bà nhưng cuồng vọng đến mức ráo riết săn đuổi đứa cháu nội
- giọt máu còn sót lại của dòng họ David, càng chất thêm oán thù với quần chúng Do thái
(bị coi là dị giáo). Do mối thù của dòng họ lại thêm tín ngưỡng tôn giáo kích thích, Atali
càng điên cuồng khát máu. Bất chấp tinh thần đức tin Đức Chúa Trời, Đấng vĩnh cửu mà
chính bà thường tâm niệm nói ra, tiếng gọi của dục vọng trả thù vẫn chiếm được bà. Lo sợ
cái chết thường xuyên ám ảnh, cố chống lại nó bà vẫn không tránh khỏi. Tư tưởng chống
khủng bố chống chuyên chế thấm đẫm trong nội dung kịch đã dẫn tới sự "nổi loạn" của
nghệ thuật bi kịch - nghĩa là vi phạm rõ rệt qui tắc cổ điển chủ nghĩa , nhất là cảnh quần
chúng Do Thái kéo nhau vũ trang diệt bạo chúa.
VHPT1/P.H.N
116
Vở kịch đã không làm hài lòng vua Louis XIV nên không được phép công diễn trên sân
khấu. Tuy vậy dư luận tiến bộ vẫn đánh giá cao Atali như vở bi kịch cổ điển có ý nghĩa xã
hội sâu rộng nhất .
HƯỚNG DẪN ÔN TẬP
So sánh bi kịch Andromaque với bi kịch Le Cid ? Tính cổ điển là gì ?
( gợi ý : tính cổ điển về lịch sử là : bi kịch chọn những hoàn cảnh thường gặp , của bi kịch
nhân loại, của mọi dân tộc . Nó còn là tình huống tâm lí cổ điển ).
VHPT1/P.H.N
117
CHƯƠNG XI MOLIERE VÀ HÀI KỊCH CỔ ĐIỂN
Moliere "người hề vĩ đại"- một trong những tên tuổi lớn của chủ nghĩa cổ điển Pháp , của
lịch sử văn học Pháp và là một trong những nhà viết hài kịch lớn nhất của lịch sử sân khấu
thế giới. Cả cuộc đời ông là một tấm gương sáng của một nghệ sĩ chân chính luôn luôn bảo
vệ chân lí của thời đại chống các thế lực phản động bảo thủ tiêu cực.Hoạt động cùng thời
với các nhà thơ nhà văn Racine, Boileau, La Fontaine . . . Moliere đem đến cho văn đàn
Pháp những cống hiến lớn lao - người sáng lập hài kịch cổ điển và đưa nó tới đỉnh cao xán
lạn. Là nghệ sĩ ưu tú kết tinh những truyền thống tốt đẹp của nhân dân và dân tộc Pháp,
sáng tác của ông chuyển nhanh về phía cuộc sống hiện thực phong phú sôi động trong đó
quần chúng lao động đang tiến lên đảm nhiệm vai trò mới của lịch sử. Ba trăm năm lẻ đã
qua, tiếng cười của Moliere không lúc nào vắng trên sân khấu Pháp và thế giới trong đó có
sân khấu Việt Nam. Hài kịch của Moliere đã đóng góp đáng quí cho việc xây dựng nền văn
học hiện đại và sân khấu kịch nói Việt Nam.
1- MỘT TÀI NĂNG NẢY SINH TRONG RÈN LUYỆN ĐẤU TRANH GIAN KHỔ
Jean Baptiste Poquelin sinh tại Paris trong một gia đình tư sản - tiểu quí tộc cận thần
của nhà vua. Ông được dạy dỗ chu đáo ba năm trong trường trung học Clémonde nổi
tiếng.Lúc ấy ông đã tỏ rõ sở thích văn chương, triết học, chịu ảnh hưởng triết học
Gassendy (cảm giác luận). Cha dự định cho ông học luật và thừa kế chức vụ quan hầu
của nhà vua nhưng Poquelin lại chọn sân khấu - một nghề nghiệp đương thời coi là
thấp kém.
Năm 1643, Poquelin quen biết một nữ diễn viên Madelaine Béjart cùng một số bạn
thành lập "Đoàn kịch trứ danh". Do thiếu kịch bản và diễn viên giỏi nên đoàn kịch
chưa có tăm tiếng mặc dù rất cố gắng. Poquelin chọn biệt danh "Moliere" năm 1644.
Đoàn kịch tan rã năm 1645. Cuối năm đó, Moliere cùng với anh em nhà Béjart dời khỏi
Paris đi về các tỉnh nhỏ để lưu diễn.
Suốt 13 năm trời (1645 - 1658) chịu đựng khó khăn thiếu thốn, gánh hát nhỏ chưa nổi
tiếng của Moliere lang thang hầu khắp nước Pháp. Dọc đường, gánh sáp nhập với một
gánh khác khác. Mười ba năm phiêu bạt giang hồ chính là thời gian chuẩn bị một sự
nghiệp lớn lao của Moliere. Nó giúp ông hiểu biết, tích lũy vốn sống về một xã hội
Pháp, lúc ấy đang có cuộc nổi loạn La Frode. Nó giúp nhà văn tiếp xúc rộng rãi với các
gánh hát rong địa phương, học tập họ rồi cạnh tranh với họ. Nó giúp Moliere kiểm tra
lại nhận thức của mình, biết chỗ mạnh chỗ yếu từ đó vạch hướng đi lâu dài. Moliere
diễn viên, đạo diễn, nhà sáng tác hài kịch và trưởng đoàn kịch đã trưởng thành qua 13
năm gian khổ như thế.
Từ 1650 Moliere đứng đầu gánh hát và bắt đầu xây dựng một số tiết mục đặc sắc . Ông
bắt tay viết những vở "kịch hề" trong đó vận dụng những kinh nghiệm của loại "kịch
mặt nạ Italia" về kĩ thuậ , hành động, tính cách nhân vật. Như các vở "Chàng Ngốc" , "
Ghen" đã báo hiệu một tài năng.
VHPT1/P.H.N
118
Thành công của Moliere vang dội đến tận kinh đô. Năm 1658 , đoàn kịch Moliere được
nhà vua gọi về Pari. Moliere ra mắt cung đình với vở hài "Thầy thuốc si tình". Buổi
diễn có kết quả tốt, đoàn được giữ lại Paris, được nhà vua cấp cho rạp hát Peuti
Bourbon vốn là rạp hát của triều đình để đoàn biểu diễn thường xuyên . Sau một năm
hoạt động vừa diễn vở cũ vừa dựng vở mới, đoàn tuyển mộ thêm những diễn viên có
tài .
Năm 1659, Moliere đưa lên sân khấu các vở "Những ả kiểu cách lố bịch". Tác giả bị
bọn quí tộc căm ghét mặc dù ông chỉ đả kích bọn "giả làm quí tộc". Từ đây cuộc đời
Moliere chuyển sang giai đoạn xây dựng một nền nghệ thuật sân khấu dân tộc hiện
thực và tiến bộ. những tác phẩm lớn của Moliere ra đời liên tiếp, mỗi vở là một đòn
giáng vào giới quí tộc, nhà thờ và chế độ chuyên chế. Và Moliere không ngừng phải
chống trả quyết liệt những phản ứng điên cuồng của các thế lực thù địch. Mặt khác,
Moliere còn phải đương đầu với những nhà soạn kịch và diễn viên đố kị thù ghét ông,
lên án ông không tôn trọng những qui tắc cổ điển, báng bổ tôn giáo, làm hại khiếu
thẩm mĩ của công chúng. Quá trình đấu tranh này đã khiến Moliere trở thành nhà sáng
tác hài kịch vĩ đại, nhà nghệ sĩ lão luyện và nhà tổ chức giáo dục tài năng.
Năm 1662 Moliere cho diễn vở "Trường học làm vợ" lên án quan điểm phong kiến vô
nhân đạo, trái tự nhiên vô hiệu quả trong việc giáo dục phụ nữ. Bọn phản động tức tối,
xúm lại công kích Moliere. Chỉ có Boileau tỉnh táo, vẫn viết bài phê bình bênh vực
Moliere. Để trả lời những kẻ thù địch, Moliere viết tiếp hai vở kịch ngắn "Phê bình
trường học làm vợ" và "Kịch ứng diễn ở Verseill" (1663) đưa luôn các nhà phê bình đố
kị lên sân khấu mà châm biếm.
Trong thời gian 1664 - 1666, Moliere viết ba vở hài kịch lớn với tư tưởng triết học xã
hội phong phú "Tactuff", "Don Joan","Anh ghét đời". Là những đòn trí mạng giáng
vảo nhà thờ, giai cấp quí tộc thế kỉ 17. Những thế lực phản động núp bóng triều đình
la ó om xòm, hùa nhau đe dọa hành hung nhà văn. Đây là giai đoạn căng thẳng nhất
trong cuộc đời nhà văn nghệ sĩ Moliere .
Từ đây hoạt động nghệ thuật của Moliere giảm bớt sôi nổi với các vở Lão hà tiện
(1668), Trưởng giả học làm sang (1670), Những bà thông thái (1672), Người bệnh
tưởng (1673).
Ngày 17-2-1673 trong đêm diễn thứ tư vở "Người bệnh tưởng", đang đóng nhân vật
chính Moliere kiệt sức ngã trên sàn diễn. Ông được đưa ngay về nhà và một giờ sau
trút hơi thở cuối cùng. Nhà thờ vốn thù ghét Moliere nên đã ngăn cản việc mai táng
ông theo nghi thức tôn giáo. Vợ ông phải quì phục dưới chân nhà vua hết lời khẩn cầu
mới xin được phép chôn cất ông ở nghĩa địa nhà thờ vào lúc đêm khuya.
2- NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA MOLIERE VÀO HÀI KỊCH DÂN TỘC PHÁP
Công lao của Moliere trước hết là kế tục và phát huy mạnh mẽ kịch hề dân gian Pháp , sau
đó nâng cao thành hài kịch cổ điển. Moliere đã xác định và nâng cao vai trò địa vị hài kịch
vốn bị coi rẻ trong xã hội Pháp. Xã hội Pháp vốn chỉ coi trọng bi kịch vì cho nó nghiêm
túc, cao quí. Moliere chứng minh rằng hài kịch cũng nghiêm túc và là một nghệ thuật chân
VHPT1/P.H.N
119
chính, nó chứa đựng những cái cười thâm thúy, thông minh chớ không phải "rẻ tiền" như
người ta chê trách. Với Moliere, hài kịch còn là công cụ đấu tranh xã hội lợi hại chẳng có
gì sánh được. Hài kịch chứng tỏ tinh thần trách nhiệm xây dựng xã hội lành mạnh phát
triển chứ không phải chỉ để mua vui giải trí đơn thuần. Tóm lại, nhờ Moliere, hài kịch có
vai trò ngang hàng với mọi loại hình nghệ thuật và đáp ứng được nhu cầu thẩm mĩ của thời
đại.
2.1 - TÍNH CỔ ĐIỂN CỦA HÀI KỊCH MOLIERE
Quan điểm nghệ thuật của Moliere là tinh thần duy lí, duy vật của thời đại. Theo quan
điểm chung của chủ nghĩa cổ điển, hài kịch nhằm đả phá những tệ nạn xã hội và nhược
điểm tâm lí của con người thời đại. Lí luận này yêu cầu hài kịch "sửa chữa phong hóa bằng
tiếng cười", giúp người có lương tri xa lánh cái sai và thói xấu. Moliere viết "nếu tác dụng
của hài kịch là sửa chữa tính xấu của con người thì tôi tin rằng không cần bỏ qua bất kì
kiểu tính xấu nào. Những bài học luân lí nghiêm trang chưa hẳn có tác dụng bằng những
nét châm biếm của một bài thơ trào phúng . . . Mô tả những thói xấu của con người là cách
tuyệt diệu để sửa chữa nó" (Lời Tựa vở Tactuff - 1669) .
Tuy nhiên, nhiệm vụ hàng đầu của hài kịch là "làm vui" cho khán giả, độc giả. Muốn đạt
được như thế trước hết phải "theo tự nhiên". Tự nhiên được hiểu là đáy sâu của những tâm
hồn kín đáo mà chỉ có những cái nhìn tinh tường mới soi thấu được" (Boileau). "Tự nhiên"
còn có nghĩa là theo truyền thống xã hội đã được thừa nhận (danh chính ngôn thuận).
Moliere nói qua lời một diễn viên "Khi anh vẽ người, anh phải vẽ theo tự nhiên. Nếu anh
không làm cho người ta nhận ra những con người của thời đại mình thì anh chẳng làm
được gì hết" - Moliere trình bày lí luận của mình ngay trong tác phẩm như vậy.
Về đề tài: Moliere cho rằng có thể chọn bất kì đề tài nào kể cả cổ đại Hi Lạp - La Mã, miễn
là đề tài ấy có sức thể hiện phong phú. Nhưng ông thích lấy ngay đề tài trong đời sống tâm
hồn xã hội Pháp đương thời từ trong cung đình đến thành thị nông thôn nhờ vốn sống
những nămgiang hồ phiêu dạt khắp nơi tiếp xúc đủ mọi loại người. Nhờ vậy Moliere sáng
tạo được những tính cách điển hình. Chỉ ngoại trừ một mẫu người - kẻ đứng đầu triều đình
- mọi loại người Pháp khác đều có mặt trên sân khấu Moliere. Tuy vậy nhân vật có mặt
thường xuyên là nhân vật quí tộc, ngài hầu tước - hiện thân của chế độ phong kiến lỗi thời.
. Moliere nói đại ý rằng: trong mọi vở kịch hề cổ xưa đều có một tên ăn cắp có nhiệm vụ
gây cười cho khán giả thì trong các vở kịch ngày nay luôn luôn phải có một vị hầu tước lố
lăng làm trò cười cho công chúng" (Vở Ứng diễn ở Verseill).
Nhìn chung Moliere không tự hạn chế kịch của mình trong khuôn khổ hạn chế của chủ
nghĩa cổ điển nhằm phản ánh chân thực cuộc sống.
2.2 - NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG TÍNH CÁCH
Số lượng lớn hài kịch của Moliere thuộc loại hài kịch tính cách. Để làm cho tính cách đạt
tới mức độ điển hình [nghĩa là có thể tồn tại vĩnh cửu], Moliere tập trung miêu tả những
nét cơ bản nhất. Ông tước bỏ những chi tiết phụ không có ích cho sự theo dõi của khán giả.
Mỗi nhân vật là hiện thân của một tính cách nhất định. Ví dụ: đạo đức giả, hà tiện, thông