Mở Đầu
1. tính cấp thiết của đề tài
Sự vận động và phát triển của mỗi quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào các 
nguồn lực khác nhau nh nguồn tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, vốn, thành 
tựu khoa học và công nghệ trong đó nguồn lực con ngời là nhân tố quyết 
định việc sử dụng các nguồn lực khác.
Ngày nay, do sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tri thức thì nguồn lực 
con ngời ngày càng đợc đề cao ở các quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam. 
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta coi con ngời vừa là nguồn 
lực nội tại, cơ bản, quy định sự nghiệp CNH, HĐH, vừa là đối tợng mà chính 
quá trình CNH, HĐH phải hớng vào phục vụ. Nhng vấn đề đặt ra là cần phải 
phát huy nguồn lực con ngời nh thế nào và theo hớng nào cho phù hợp. Là một 
nớc nghèo đi vào CNH, HĐH, vấn đề giáo dục - đào tạo đã và đang đợc sự 
quan tâm chú ý của toàn xã hội. Vì vậy, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X 
Đảng ta đã đề ra mục tiêu cho gioá dục đại học là: Phải nhanh chóng xây 
dựng cơ cấu nguồn nhân lực hợp lý về ngành nghê, trình độ đào tạo, dân tộc, 
vùng miền .
Đại học Thái Nguyên là một trong những trung tâm đào tạo đại học lớn 
trong nớc. Nơi đây đã đào tạo ra nhiều thế hệ giáo viên, kỹ s, bác sỹ, công 
nhân Họ đã có những cống hiến nhất định cho sự nghiệp CNH, HĐH ở một 
số tỉnh miền núi phía Bắc, đồng bằng Bắc bộ và Bắc Trung bộ. Tuy nhiên, hiện 
nay ở các địa phơng đó, việc sử dụng nguồn nhân lực đã qua đào tạo ở Đại học 
Thái Nguyên còn nhiều bất cập, hạn chế. Chẳng hạn trong số những nhân lực 
đợc qua đào tạo có những ngời đi làm không đúng ngành nghề hoặc ngành 
nghề không phù hợp với nhu cầu của xã hội cho nên cha tạo ra đợc một liên 
1
minh thật sự giữa đội ngũ tri thức với những hoạt động kinh tế - xã hội ở địa 
phơng, cha đáp ứng đợc nhu cầu phát triển của đất nớc trong giai đoạn mới.
Liên quan đến vấn đề trên thì nhu cầu về một hệ thống đào tạo có cấu 
trúc hợp lý, mục tiêu đa dạng mềm dẻo phù hợp với xu thế phát triển của đất 
nớc trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế đợc đặt ra và cần phải giải quyết. 
Bởi vậy, nghiên cứu vai trò của Đại học Thái Nguyên trong việc đào tạo ra 
nguồn nhân lực chất lợng cao phục vụ đắc lực cho sự nghiệp CNH, HĐH ở n-
ớc ta hiện nay là vấn đề vô cùng quan trọng và cần thiết. Đây cũng là lý do 
chính để tác giả lựa chọn và nghiên cứu đề tài Vai trò của Đại học Thái 
Nguyên trong việc đào tạo nguồn lực con ngời phục vụ quá trình công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện hay làm luận văn thạc sỹ chuyên 
ngành Triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 
Vấn đề nguồn lực con ngời và đào tạo nguồn lực con ngời phục vụ quá 
trình CNH, HĐH đất nớc là một trong những vấn đề vô cùng quan trọng đối 
với đất nớc ta hiện nay, do vậy có không ít tác giả đã nghiên cứu vấn đề này. 
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã đợc tiếp cận với một số công trình 
của các nhà khoa học trong và ngoài nớc liên quan đến đề tài này ở các góc độ 
khác nhau. Tiêu biểu là một số công trình sau:
- NGƯT - TS Nguyễn Hữu Khiển trong Tạp chí Giáo dục và Thời đại số 
5, ra ngày 4/2/2001 đã có quan điểm đúng đắn rằng: Muốn có nền hành chính 
dân chủ phải có đội ngũ cán bộ, công chức đợc đào tạo trong một hệ thống đào 
tạo hợp lý.
- Còn GS - TS Nguyễn Trọng Chuẩn thì khẳng định: Nguồn lực con ngời 
là chìa khoá đảm bảo cho sự phát triển nhanh và lâu bền của Việt Nam trong 
thế kỷ 21. Khi phân tích vị trí nguồn nhân lực trong quan hệ với các nguồn 
lực khác, tác giả đã khẳng định nguồn lực quan trọng nhất, quyết định nhất chỉ 
2
có thể là con ngời. Từ đó, tác giả đề cập đến một số yếu tố cần thiết để kích 
thích tính tích cực của con ngời, khai thác tốt nhất nguồn nhân lực. (Nguồn 
nhân lực trong CNH, HĐH đất nớc - đăng trong tập: Một số vấn đề về triết 
học - con ngời - xã hội. Nxb Khoa học Xã hội, 2002).
- Trong bài viết Phát triển giáo dục - đào tạo nhân tài để thực hiện 
CNH, HĐH đất nớc đăng trên tạp chí Cộng sản số 1 năm 1997, khi đề cập 
đến các yếu tố cần thiết để phát triển nguồn nhân lực chất lợng cao, tác giả 
Nguyễn Văn Hiệu đã nhấn mạnh tới vai trò, nội dung và cách thức của giáo 
dục và đào tạo trong việc bồi dỡng nhân tài.
- GS - TS Nguyễn Duy Quý trong bài Một số giải pháp nhằm khai thác 
có hiệu quả nguồn lực con ngời, đã cho rằng, phát triển con ngời về thực chất 
là phát triển và hoàn thiện nhân cách con ngời theo yêu cầu của thời kỳ CNH, 
HĐH.
- ở bài viết: Mối quan hệ giữa đào tạo với sử dụng nhân lực: khái niệm, 
nội dung và cơ chế đăng trên tạp chí Khoa học giáo dục số 16 năm 2007, PGS 
- TS Phan Văn Kha nêu lên tính tất yếu của mối quan hệ giữa đào tạo và sử 
dụng nhân lực trong cơ chế thị trờng và đi đến kết luận rằng, để nâng cao chất 
lợng hiệu quả đào tạo cần phải tăng cờng quan hệ giữa hệ thống đào tạo với hệ 
thống sử dụng nhân lựcvà đa dạng hoá nội dung đào tạo.
- Luận án tiến sỹ triết học của Đoàn Văn Khái: Nguồn lực con ngời 
trong quá trình CNH, HĐH đất nớc và luận văn thạc sỹ của Bùi Mạnh Hằng 
- Một số quan điểm của Đảng ta về giáo dục đào tạo trong công cuộc đổi 
mới (1986 - 1996) đã làm rõ khái niệm CNH, HĐH và các mô hình CNH, 
HĐH để đi đến quan niệm rằng đất nớc ta đang ở trong thời kỳ công nghiệp 
hoá theo mô hình tổng hợp (kết hợp giữa phát huy nội lực và theo lợi thế so 
sánh), đi liền với hiện đại hoá.
3
- Ngoài ra, khi nghiên cứu đề tài, tác giả đã đợc tiếp cận một số ấn phẩm 
dới dạng sách thuộc chơng trình khoa học công nghệ cấp Nhà nớc: Con ngời 
Việt Nam - mục tiêu và động lực phát triển kinh tế xã hội mã số KX 07 do GS 
- TS Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm trong đó có Vấn đề con ngời trong sự 
nghiệp CNH, HĐH của tác giả Phạm Minh Hạc, Các giá trị truyền thống và 
con ngời Việt Nam hiện nay của tác giả Phan Huy Lê. Các ấn phẩm này đã đề 
cập đến nhiều vấn đề khác nhau trong đó có vấn đề phát triển giáo dục - đào 
tạo, bồi dỡng và đào tạo lại đôi ngũ nhân lực, đào tạo nguồn nhân lực chất l-
ợng cao 
Các công trình trên đều ít nhiều đề cập đến việc đào tạo nguồn lực con 
ngời và đã chỉ ra một vấn đề bức xúc hiện nay là vấn đề đào tạo nguồn lực con 
ngời phục vụ cho CNH, HĐH nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội Việt 
Nam. Tuy vậy cha có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện 
và sâu sắc về vai trò của Đại học Thái Nguyên trong việc đào tạo nguồn lực 
con ngời phục vụ CNH, HĐH nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế 
nh hiện nay. Bởi vậy tác giả đã lực chọn và nghiên cứu đề tài này với mong 
muồn sẽ góp phần tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công 
tác đào tạo nguồn lực con ngời ở Đại học Thái Nguyên phục vụ đất nớc trong 
giai đoạn mới. 
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Mục đích của luận văn là: Trên cơ sở phân tích thực trạng đào tạo 
nguồn lực con ngời ở Đại học Thái Nguyên, luận văn đa ra những giải pháp cơ 
bản nhằm nâng cao hiệu quả của việc đào tạo nguồn lực con ngời ở Đại học 
Thái Nguyên trong quá trình CNH, HĐH hiện nay.
- Để đạt đợc mục đích trên, luận văn phải giải quyết những nhiệm vụ sau:
+ Làm rõ tầm quan trọng của việc đào tạo nguồn lực con ngời ở các trờng 
đại học trong quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay.
4
+ Phân tích thực trạng của việc đào tạo nguồn lực con ngời ở Đại học 
Thái Nguyên trong quá trình CNH, HĐH và chỉ ra những vấn đề cần khắc 
phục.
+ Kiến nghị một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo 
nguồn lực con ngời ở Đại học Thái Nguyên trong quá trình CNH, HĐH hiện 
nay.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Là thực tiễn đào tạo nguồn lực con 
ngời ở các trờng thành viên thuộc Đại học Thái Nguyên trong quá trình hình 
thành phát triển.
4. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận văn là: Dựa trên nền tảng lý luận của Triết học 
Mác - Lênin, những quan điểm trong t tởng Hồ Chí Minh, lý luận của Đảng, 
của Nhà nớc ta về con ngời và về nguồn lực con ngời làm cơ sở lý luận cho 
việc nghiên cứu. Ngoài ra luận văn còn tham khảo, kế thừa các bài viết, các 
công trình khoa học của các tác giả trong và ngoài nớc liên quan đến vấn đề 
đào tạo đại học và nguồn nhân lực.
- Phơng pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phơng pháp của chủ 
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp chặt chẽ với các 
phơng pháp khác nh đánh giá, phân tích, tổng hợp, thu thập, xử lý thông tin 
5. Đóng góp khoa học của luận văn
Trên cơ sở phân tích những thực trạng, luận văn đề ra các giải pháp mang 
tính khả thi, đặc thù để phát huy vai trò của Đại học Thái Nguyên trong việc 
đào tạo nguồn nhân lực chất lợng cao phục vụ cho quá trình CNH, HĐH ở nớc 
ta hiện nay.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
5
Về mặt lý luận: Luận văn góp phần vào sự nghiên cứu lý luận chung về 
vai trò của nguồn lực con ngời đối với sự phát triển của xã hội. Cụ thể hơn, 
luận văn góp phần tìm hiểu về vai trò của đào tạo đại học trong việc tạo ra 
nguồn lực con ngời có hàm lợng trí tuệ cao để thực hiện tốt sự nghiệp CNH, 
HĐH ở Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế.
Về mặt thực tiễn: Luận văn hy vọng thành công trong việc góp một phần 
nhỏ bé vào quá trình nghiên cứu và xây dựng những giải pháp nhằm phát huy 
hơn nữa vai trò của Đại học Thái Nguyên trong việc đào tạo nguồn nhân lực 
chất lợng cao ngày càng đáp ứng tốt hơn cho sự phát triển của đất nớc.
Mặt khác, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan và tr-
ờng học ở Đại học Thái Nguyên cũng nh trong tỉnh Thái Nguyên cà các tỉnh 
khác.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn 
gồm 3 chơng, 7 tiết.
 Chơng1. Tầm quan trọng và yêu cầu của đào tạo nguồn lực 
con ngời ở các trờng đại học trong quá trình công 
nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay
1.1. Khái lợc về nguồn lực con ngời, đào tạo nguồn lực con ngời và về công 
nghiệp hoá, hiện đại hoá
1.1.1. Khái lợc về nguồn lực con ngời, đào tạo nguồn lực con ngời
1.1.2. Khái lợc về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
1.2. Vai trò và yêu cầu của đào tạo nguồn lực con ngời ở các trờng đại học 
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay ở Việt Nam
1.2.1. Vai trò của nguồn lực con ngời phục vụ cho công nghiệp hoá, hiện đại 
hoá hiện nay
6
1.2.2. Yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đối với việc đào tạo nguồn 
lực con ngời
Chơng 2. Đào tạo nguồn lực con ngời ở đại học Thái Nguyên 
hiện nay - thực trạng và những vấn đề đặt ra
2.1. Một số đặc điểm của Đại học Thái Nguyên tác động đến việc đào tạo 
nguồn lực con ngời
2.1.1. Tổng quan về Đại học Thái Nguyên 
2.1.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ quá trình giảng dạy ở Đại học Thái 
Nguyên
2.2. Thực trạng của việc đào tạo nguồn lực con ngời ở Đại học Thái 
Nguyên trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay
2.2.1. Thực trạng của việc đào tạo trình độ lý thuyết và năng lực thực tiễn ở 
Đại học Thái Nguyên hiện nay
2.2.2. Thực trạng việc học của sinh viên ở các trờng thành viên.
Chơng 3. Phơng hớng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng 
cao hiệu quả đào tạo nguồn lực con ngời ở Đại học 
Thái Nguyên trong quá trình công nghiệp hoá, hiện 
đại hoá hiện nay
3.1. Phơng hớng phát triển đào tạo nguồn lực con ngời ở Đại học Thái 
Nguyên trong những năm tới
3.1.1. Đẩy mạnh công tác đào tạo gắn với yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện 
đại hoá đất nớc, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại
3.1.2. Quán triệt những quân điểm, đờng lối trong công tác đào tạo nguồn lực 
con ngời ở Đại học Thái Nguyên
3.2. Những giải pháp cơ bản
7
3.2.1. Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng tốt nhu cầu dạy và học ở Đại 
học Thái Nguyên
3.2.2. Đổi mới và đa dạng hơn chơng trình đào tạo nguồn lực con ngời đáp ứng 
yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc
3.2.3. Nâng cao năng lực t duy lý luận và chuyên môn cho đội ngũ giảng viên
3.2.4. Phát huy tính tích cực tự giác trong học tập của sinh viên
8
Chơng 1. Tầm quan trọng và yêu cầu của đào tạo nguồn 
lực con ngời ở các trờng đại học trong quá trình công 
nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay
1.1. Khái lợc về nguồn lực con ngời, đào tạo nguồn lực con ng-
ời và về quá trình Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
1.1.1. Khái lợc về nguồn lực con ngời và đào tạo nguồn lực con ngời
1.1.1.1. Khái lợc về nguồn lực con ngời
* Định nghĩa nguồn lực con ngời
Con ngời, với t cách là sự phát triển cao nhất của sự sống trên trái đất 
luôn mang trong mình bản tính xã hội. Khác với các loài động vật cao cấp 
khác về mặt kích thớc và cấu tạo não bộ, khả năng đi đợc bằng hai chân, các 
khớp tay chuyển động tự do giúp con ngời chế tạo và sử dụng công cụ một 
cách dễ dàng trong quá trình lao động. Điều đó làm cho con ngời không những 
biết tạo ra lao động xã hội mà còn biết thiết lập nên các mối quan hệ xã hội, 
hình thành hiện thực văn hoá, xã hội và tiến trình lịch sử. Chủ nghĩa duy vật 
lịch sử, khi áp dụng các quan điểm duy vật vào xem xét con ngời, đã nêu bật 
lên khả năng con ngời tự tạo ra những điều kiện cần thiết cho quá trình sinh 
tồn của mình. Đó là những điều kiện về ăn, mặc, ở, tái sản xuất ra sức lao 
động . Chính trong quá trình con ng ời tham gia vào sản xuất để duy trì cuộc 
sống của mình và của xã hội đã tạo ra cái mà ngày nay hầu hết các quốc gia 
trên thế giới đều quan tâm, xem xét, giải quyết, đó chính là NLCN.
Nói tới NLCN là chúng ta đang đề cập tới một yếu tố quan trọng nhất, 
năng động nhất của việc tăng trởng và phát triển kinh tế xã hội. Nó khác so với 
các nguồn lực khác (tài chính, đất đai, công nghệ, vốn ) ở chỗ NLCN cùng 
với hoạt động có tính sáng tạo, đã biết tác động vào giới tự nhiên, làm biến đổi 
9
giới tự nhiên, trên cơ sở đó mà hình thành nên các quy luật lao động và quan 
hệ xã hội.
NLCN đợc xác định trên một địa phơng, một vùng lãnh thổ hay một quốc 
gia nhất định nào đó. Nhng nếu xét nó trên một bình diện quốc gia nhất định 
thì NLCN còn đợc hiểu là nguồn nhân lực. Mỗi quốc gia có quan niệm khác 
nhau về NLCN chẳng hạn:
- Theo từ điển thuật ngữ của Pháp (1977 - 1985) thì NLCN bao gồm 
những ngời trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động và mong muốn có 
việc làm. Theo khái niệm này thì những ngời trong độ tuổi lao động, có khả 
năng lao động nhng không có việc làm thì không đợc xếp vào nguồn lao động 
[40, 14].
- ở Australia, ngời ta coi NLCN là toàn bộ những ngời bớc vào tuổi lao 
động, có khả năng lao động. Quan niệm này đã không phân biệt ngời có việc 
làm và ngời không có việc làm [33, 34]. 
- Với quan niệm của Liên Hợp Quốc thì NLCN bao gồm tất cả những 
kiến thức, kỹ năng và năng lực của con ngời có liên quan tới sự phát triển của 
đất nớc.
- Còn ở Việt Nam, NLCN đợc hiểu theo các nghĩa sau đây:
+ Với t cách là nguồn cung cấp sức lao động để phát triển KT - XH, ở 
nghĩa rộng nhất thì NLCN bao gồm toàn bộ dân c có khả năng lao động, 
không phân biệt ngời đó đang hoạt động trong ngành nghề, lĩnh vực, khu vực 
nào. Với nghĩa này thì NLCN có thể coi là nguồn nhân lực xã hội [42, 7].
Theo cách xác định của Tổng cục Thống kê nớc ta thì nguồn nhân lực xã 
hội bao gồm những ngời trong độ tuổi lao động (nam từ 15 đến 60 tuổi, nữ từ 
15 đến 55 tuổi) có khả năng lao động, có việc làm. Tuy nhiên cũng theo quan 
niệm này thì NLCN còn bao gồm cả những ngời trong độ tuổi lao động, có 
10
khả năng lao động nhng không tham gia hoạt động kinh tế, ví dụ nh những ng-
ời đang thất nghiệp, đang đi học, đang làm nội trợ trong gia đình mình, hoặc 
không có nhu cầu làm việc[ 37, 21]. ở đây còn có một bộ phận những ngời 
trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động nhng không đợc tính trong 
nguồn nhân lực, đó là bộ phận những ngời tham gia lực lợng vũ trang.
+ Nhng với t cách là khả năng đảm đơng chính của lao động xã hội thì 
NLCN đợc hiểu theo nghĩa hẹp hơn, bao gồm toàn bộ dân c trong độ tuổi lao 
động và có khả năng lao động (do pháp luật lao động quy định). Với cách hiểu 
này thì khái niệm NLCN tơng đơng với khái niệm nguồn lao động [42, 8]. Vì 
hiện nay nguồn lao động cũng đợc hiểu là toàn bộ dân số trong độ tuổi lao 
động và có khả lao động. Tuy nhiên, giữa NLCN và nguồn lao động thể hiện 
trong khái niệm này là khác nhau chứ không đồng nghĩa với nhau. Sự khác 
nhau đó biểu hiện ở chỗ: trong xã hội, mặc dù có những ngời đang ở độ tuối 
lao động và có khả năng tham gia lao động nhng lại đang đi học, làm công 
việc nội trợ, hoặc không tích cực tìm kiếm việc làm , bộ phận này đ ợc coi là 
nguồn nhân lực tiềm tàng của một địa phơng, một tỉnh, một quốc gia nhng 
không đợc tính trong nguồn lao động hiện hữu. Nguồn lao động hiện hữu là 
toàn bộ những ngời lao động đang tham gia làm việc hoặc đang tích cực tìm 
kiếm việc làm.
+ ở nớc ta còn một cách hiểu nữa về NLCN, đó là toàn bộ những con ng-
ời cụ thể tham gia vào quá trình lao động. Với cách hiểu này thì số lợng 
NLCN trong xã hội sẽ bị thu hẹp lại, nó có thể lợng hoá đợc. Đó là bộ phận 
những ngời từ giới hạn dới của độ tuổi lao động trở lên có khả năng lao động. 
Nh vậy NLCN ở đây đồng nghĩa với khái niệm lực lợng lao động, và nó đợc 
xác định dựa trên quy mô dân số, cơ cấu tuổi, giới tính và sự phân bố theo khu 
vực, vùng lãnh thổ dân số. Hiện nay ở nớc ta có khoảng 80% lực lợng lao động 
cha qua đào tạo ngời ta gọi là nguồn nhân lực cha qua đào tạo, còn lại là số lực 
11
lợng lao động đợc đào tạo ở các trình độ khác nhau ngời ta gọi là nguồn nhân 
lực đã qua đào tạo. Nh vậy việc đào tạo NLCN là hết sức quan trọng và cấp 
bách trong giai đoạn hiện nay.
+ Gần đây một số nhà khoa học Việt Nam cho rằng NLCN bao gồm dân 
số và chất lợng con ngời, trong đó thể hiện cả trên phơng diện thể chất và tinh 
thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực và phẩm chất, trình độ và phong cách làm 
việc. Quan niệm này đợc thể hiện ở đề tài KX  07, nó thể hiện cả về mặt số 
lợng và chất lợng NLCN.
Nh vậy khái niệm NLCN có nội dung rất rộng, song cần khẳng định rằng 
NLCN ở một quốc gia phải có ba đặc điểm quan trọng sau mà nếu thiếu một 
trong ba đặc điểm này thì không thể coi đó là NLCN đợc: 
Thứ nhất: NLCN chính là nguồn nhân lực của một quốc gia.
Thứ hai: NLCN là một bộ phận của dân số, gắn với cung lao động.
Thứ ba: NLCN phản ánh khả năng lao động của một xã hội.
Ngoài ba đặc điểm đó ra thì NLCN không chỉ phản ánh bình diện số lợng 
mà nó còn phản ánh cả bình diện chất lợng, trong đó chất lợng của NLCN là 
cái quan trọng nhất. Nói tới chất lợng NLCN là nói tới trạng thái nhất định của 
nó, là tố chất, bản chất bên trong của nó và đợc thể hiện cụ thể ở tình trạng sức 
khoẻ, trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn kỹ thuật, năng lực thực tế về tri 
thức, kỹ năng nghề nghiệp, ở khả năng sáng tạo, thích ứng linh hoạt, nhanh 
nhạy với công việc . Ngoài ra nó còn thể hiện ở phẩm chất đạo đức, tác 
phong, thái độ đối với công việc, hiệu quả hoạt động lao động của NLCN thậm 
chí ở cả thu nhập, mức sống và mức độ thoả mãn nhu cầu cá nhân của ngời lao 
động.
Chất lợng của NLCN không phải là cái cố hữu mà nó luôn vận động biến 
đổi. Nó phản ánh trình độ phát triển KT - XH cũng nh mức sống, dân trí của 
12
dân c. Sự vận động tích cực của NLCN ở trình độ cao sẽ là cơ sở để cải biến xã 
hội không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hoàn thiện ngời lao 
động. Với ý nghĩa đó nguồn lực con ngời sẽ trở thành nguồn vốn không bao 
giờ cạn kiệt của mỗi quốc gia. 
* Kết cấu của nguồn lực con ngời
Để hiểu sâu hơn về NLCN cần phải phân tích kết cấu của nó. Ngời ta căn 
cứ vào mục đích nghiên cứu, vào quản lý mà xem xét kết cấu của NLCN dới 
các góc độ khác nhau. 
Căn cứ vào khả năng và mức độ tham gia hoạt động kinh tế thì NLCN 
bao gồm NLCN trong độ tuổi lao động, NLCN tham gia hoạt động kinh tế và 
bộ phận NLCN dự trữ [42, 10].
NLCN trong độ tuổi lao động bao gồm toàn bộ những ngời trong độ tuổi 
lao động và có khả năng lao động, đợc quy định bởi pháp luật lao động của 
một quốc gia. ở mỗi quốc gia khác nhau, độ tuổi lao động đợc quy định khác 
nhau.
NLCN tham gia hoạt động kinh tế (còn gọi là lực lợng lao động) là bộ 
phận năng động nhất của nguồn lực con ngời. Nó đợc tính trong phạm vi một 
quốc gia, vùng, địa phơng. Bộ phận này rất phong phú, bao gồm những ngời 
trong và trên độ tuổi lao động đang làm việc, những ngời trong độ tuổi lao 
động nhng không có việc làm hoặc đang tìm việc.
NLCN dự trữ là một phần của NLCN trong tuổi lao động nhng hiện tại 
cha tham gia hoạt động kinh tế và khi cần có thể huy động đợc. Bộ phận này 
bao gồm những ngời đang làm công việc nội trợ trong gia đình mình, những 
ngời trong độ tuổi lao động đang đi học, những ngời không có nhu cầu làm 
việc, lực lợng vũ trang, những ngời nghỉ hu sớm .
Khi căn cứ vào vị trí, NLCN có thể chia thành ba loại sau: [42, 19]
13
Nguồn nhân lực chính: Đây là nguồn nhân lực có số lợng lớn nhất, nằm 
trong độ tuổi lao động, đảm nhiệm chủ yếu các quá trình hoạt động KT - XH 
của đất nớc.
Nguồn nhân lực phụ: là bộ phận dân c nằm ngoài độ tuổi lao động, họ 
có thể tuỳ theo sức của mình để tham gia vào các hoạt động kinh tế với thời 
gian nhất định.
Nguồn nhân lực bổ sung: là bộ phận của NLCN đợc bổ sung từ các 
nguồn khác, sẵn sàng tham gia làm việc, nh số ngời trong độ tuổi lao động tốt 
nghiệp ra trờng, số ngời hết hạn nghĩa vụ quân sự, số ngời lao động ở nớc 
ngoài về .
Tóm lại các khái niệm về NLCN có sự khác nhau là do cách xác định quy 
mô NLCN dựa trên dân số. Mặc dù vậy chúng đều có đặc điểm chung là phản 
ánh lao động của một xã hội, một vùng, một địa phơng ở những thời điểm nhất 
định. Đó là bộ phận dân số đang tạo ra của cải vật chất, tinh thần chủ yếu cho 
xã hội, quyết định sự phát triển KT- XH của quốc gia. Nhng cũng sẽ là sai lầm 
nếu chúng ta hiểu việc tạo ra của cải vật chất, tinh thần cho xã hội chỉ phụ 
thuộc vào sức mạnh cơ bắp của NLCN. Trên thực tế, NLCN đợc thực hiện trớc 
hết bằng sức mạnh của cơ bắp song nó không chỉ dừng lại ở đó mà chính hàm 
lợng trí tuệ, sự hiểu biết, cũng nh những phẩm chất đạo đức, tâm lý, lối sống, 
khả năng lao động sáng tạo mới là cái cốt lõi, chủ đạo quy định mặt tích cực 
trong NLCN, đặc biệt là trong giai đoạn KHKT & CN phát triển nh ngày nay. 
Bởi vậy, ở nớc ta hiện nay, muốn thành công trong sự nghiệp CNH, HĐH đất 
nớc thì phải nâng cao chất lợng NLCN mà trớc hết là phải nâng cao công tác 
giáo dục - đào tạo NLCN đủ sức để hội nhập kinh tế quốc tế.
* Các yếu tố ảnh hởng đến nguồn lực con ngời
NLCN của một quốc gia chịu ảnh hởng của nhiều yếu tố khác nhau. Có 
những yếu tố thuộc về truyền thống, sự vận động của xã hội nhng chủ yếu là 
14
do quá trình giáo dục, đào tạo, việc làm, thu nhập, năng suất lao động, quan hệ 
xã hội mà hình thành nên. Cụ thể là những yếu tố sau:
- Thứ nhất: Sự phát triển của KT- XH tác động đến chất lợng NLCN.
 Trình độ phát triển của nền kinh tế là yếu tố tác động trực tiếp lên chất l-
ợng NLCN. Bởi đó là cơ sở để xác định tiền lơng, thu nhập, cải thiện mức sống 
và nâng cao dân trí của ngời lao động. Chỉ khi nào thu nhập tăng thì các gia 
đình mới có điều kiện để thực hiện tốt các dịch vụ giáo dục, đào tạo, chăm sóc 
sức khoẻ . Sức khoẻ, trình độ văn hoá, chuyên môn của ng ời lao động đợc 
nâng cao thì dẫn đến chất lợng NLCN cũng đợc nâng cao. Thực tế đã cho thấy 
nếu quốc gia nào có nền kinh tế phát triển thì tỷ lệ ngời đi học văn hoá, 
chuyên môn sẽ cao hơn ở các quốc gia có nền kinh tế thấp. Điều này chứng tỏ 
rằng tăng trởng kinh tế là cơ sở để các quốc gia nâng cao nguồn lực tài chính, 
tăng đầu t cho các chơng trình giáo dục, đào tạo, văn hoá, y tế, thể thao . 
Nhờ đó, quy mô giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khoẻ dân c đợc mở rộng, đời 
sống vật chất và tinh thần của ngời lao động đợc nâng cao. Đây là tiền đề để 
nguồn nhân lực phát triển về thể lực và trí lực.
 ở nớc ta trong những năm gần đây, nhờ kinh tế tăng trởng liên tục nên Nhà n-
ớc có điều kiện đầu t cho giáo dục - đào tạo. Trong các văn kiện Đại hội toàn 
quốc của Đảng ta định mức đầu t cho giáo dục - đào tạo nh sau: nếu năm 
1990, mức chi cho giáo dục, đào tạo bằng 8,9% tổng chi ngân sách nhà nớc thì 
đến năm 1995 là 10,45%, năm 2000 là 15% và 2005 là 18%, chúng ta cũng dự 
kiến đến năm 2010 sẽ chi cho giáo dục, đào tạo là 20%. Tuy nhiên, do thu 
nhập của nớc ta cha cao nên mức chi nh trên mặc dù đã cải thiện đợc phần nào 
song vẫn cha đáp ứng đủ cho nhu cầu nâng cao chất lợng giáo dục - đào tạo 
NLCN.
Mặt khác, khi phát triển kinh tế thì cơ cấu kinh tế ắt sẽ hợp lý, sẽ sử dụng 
chủ yếu các sản phẩm công nghệ hiện đại, thành tựu khoa học - kỹ thuật cũng 
15
sẽ đợc đa vào sử dụng trong nền kinh tế và trong cuộc sống của ngời lao động. 
Do vậy, nó cũng sẽ đòi hỏi chất lợng nguồn nhân lực phải thay đổi cho phù 
hợp với sự phát triển của kinh tế. 
Chất lợng NLCN không chỉ phụ thuộc vào sự phát triển của kinh tế mà 
còn phụ thuộc vào các yếu tố khác nh năng lực t duy, trình độ nhận thức và 
đạo đức đối với nghề nghiệp, lối sống, giao tiếp ứng xử và bình đẳng giới . 
Trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế, t duy của ngời 
lao động cần đợc đổi mới để phù hợp với nền sản xuất công nghiệp hoá và nền 
kinh tế tri thức, đặc biệt là để thích ứng với nền kinh tế thị trờng hiện đại. Điều 
này đòi hỏi mỗi thành viên trong NLCN phải không ngừng vơn lên để đổi mới 
t duy, thái độ và phong cách trong nghề nghiệp. Khi quá trình hội nhập diễn ra 
thì cũng là lúc lối sống hiện đại, công nghiệp với phong cách giao tiếp và các 
quan hệ ứng xử mới đợc hình thành. Nó tác động trực tiếp và làm thay đổi chất 
lợng NLCN.
 Trong một chừng mực nào đó thì vấn đề bình đẳng giới cũng là nhân tố 
tác động đến NLCN. Kinh tế phát triển sẽ tạo cơ hội cho phụ nữ và nam giới 
bình đẳng với nhau trong thị trờng lao động. Kết quả là điều đó tạo ra động cơ 
cho phụ nữ học tập, trau dồi kiến thức, tạo ra hớng phát triển về chất trong 
NLCN do chỗ nguồn nhân lực nữ đợc nâng cao
- Thứ hai: Tình trạng dinh dỡng và chăm sóc sức khoẻ tác động đến 
NLCN.
Chúng ta biết rằng dinh dỡng là yếu tố sống còn của con ngời. Nếu thiếu 
dinh dỡng thì cơ thể sẽ không khoẻ mạnh, do đó chất lợng công việc sẽ bị 
giảm đi và nh vậy thì nguồn nhân lực sẽ bị đe doạ nghiêm trọng. Cùng với vấn 
đề dinh dỡng thì việc chăm sóc y tế cũng ảnh hởng tới chất lợng của NLCN. 
Tính hiệu quả của hệ thống y tế và khả năng tiếp cận của ngời dân với hệ 
16
thống này có ảnh hởng trực tiếp đến sức khoẻ các thế hệ nguồn nhân lực. Nó 
có thể làm tăng hoặc thậm chí làm giảm chất lợng NLCN.
 - Thứ ba: Trình độ phát triển của giáo dục - đào tạo tác động đến chất l-
ợng NLCN.
Mức độ phát triển của giáo dục - đào tạo là yếu tố quan trọng nhất tác 
động đến chất lợng NLCN. Nó quyết định trình độ văn hoá chuyên môn của 
ngời lao động. Mức độ phát triển của giáo dục - đào tạo càng cao thì quy mô 
nguồn nhân lực chuyên môn kỹ thuật càng mở rộng vì lẽ dĩ nhiên giáo dục và 
đào tạo là nguồn gốc cơ bản để nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo chuyên 
môn, kỹ thuật của nền kinh tế. Hơn nữa nếu mức độ phát triển của giáo dục - 
đào tạo càng cao thì càng có khả năng nâng cao chất lợng theo chiều sâu của 
nguồn nhân lực. Giáo dục - đào tạo không chỉ nâng cao trình độ dân trí mà nó 
còn góp phần cải thiện sức khoẻ và nâng cao tuổi thọ cho con ngời, nhờ đó mà 
sức khoẻ của nguồn nhân lực cũng đợc đảm bảo.
- Thứ t: Các chính sách của Chính phủ tác động đến chất lợng NLCN .
Việc nâng cao chất lợng nguồn nhân lực quốc gia phụ thuộc nhiều vào 
các chính sách của Chính phủ vì chính những chính sách của Chính phủ sẽ tạo 
môi trờng pháp lý để hệ thống giáo dục - đào tạo phát triển cả về chiều rộng 
lẫn chiều sâu tạo nên những tiền đề cần thiết để nâng cao chất lợng NLCN. 
Ngoài chính sách cho giáo dục thì các chính sách về tuyển dụng, sử dụng lao 
động, chính sách tiền lơng, thu nhập, bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động cũng 
giữ một vai trò không kém phần quan trọng trong việc thúc đẩy NLCN phát 
triển theo hớng tích cực. Tuy nhiên, để có chính sách đúng đắn còn phải phụ 
thuộc vào nhiều yếu tố mà trớc hết là ở sự phát triển của nền kinh tế và ở chính 
trong t duy của cá nhân con ngời trong mỗi quốc gia.
- Thứ năm: Vai trò của văn hoá trong việc phát triển NLCN
17
Trong thời đại ngày nay, văn hoá với t cách nền tảng tinh thần của xã 
hội không chỉ vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế 
- xã hội, mà là yếu tố không thể thiếu cho sự phát triển con ngời nói chung và 
nguồn lực con ngời nói riêng. Văn hoá là một tổng hợp mang tính đa nghĩa, nó 
tác động trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Với tính cách là những 
giá trị vật chất và tinh thần do con ngời sáng tạo ra với mục đích hớng tới cái 
chân, thiện, mỹ, văn hoá đã tác động tới sự phát triển của NLCN theo nhiều h-
ớng khác nhau. Trong một giới hạn nhất định của nền kinh tế và muốn phát 
triển nền kinh tế thì trớc hết phải cần đến nhân tố văn hoá (cho dù ở trình độ 
tối thiểu) nh học vấn, tay nghề, những hiểu biết về pháp luật ở mỗi con ng ời. 
Đảm bảo đợc yêu cầu này thì cũng chính là nâng cao một phần nào đó chất l-
ợng NLCN. Hơn nữa, với tính cách là những giá trị vật chất và tinh thần, văn 
hoá trang bị cho ngời lao động không chỉ những giá trị khoa học, công nghệ, 
kỹ thuật, không chỉ những tri thức xã hội và nhân văn, mà còn hình thành nên 
ở ngời lao động cái mà nếu thiếu nó thì họ không thể đợc coi là một con ngời 
đích thực - đó chính là nhân cách. Nh vậy văn hoá tác động tích cực tới chất l-
ợng NLCN. Chính vì lẽ đó mà nền văn hoá Việt Nam hôm nay không thể đứng 
ngoài chiến lợc phát triển con ngời Việt Nam hiện đại - con ngời ngang tầm 
đòi hỏi của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH. Nền văn hoá Việt Nam tiên tiến 
đậm đà bản sắc dân tộc mà chúng ta đang từng bớc xây dựng ấy nằm ngay 
trong chiến lợc phát triển con ngời Việt Nam mới - con ngời đủ sức đáp ứng 
những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp CNH, HĐH.
1.1.1.2. Khái lợc về đào tạo nguồn lực con ngời
Nhân loại đã bớc vào thế kỷ 21 - thế kỷ của nền kinh tế tri thức. Để thích 
nghi với nền kinh tế tri thức, các nớc trên thế giới đều coi trọng việc đầu t phát 
triển NLCN đặc biệt là nâng cao yếu tố trí lực thông qua giáo dục - đào tạo.
Trên con đờng CNH, HĐH của mình, Việt Nam phải đồng thời thực hiện 
song song hai nhiệm vụ: một mặt là phải cải biến từ nền kinh tế nông nghiệp 
18
sang kinh tế công nghiệp, và mặt khác là phải tận dụng cơ hội đi tắt đón đầu 
để đi thẳng vào những ngành sử dụng công nghệ cao của nền kinh tế tri thức. 
Để thực hiện tốt hai nhiệm vụ này, bắt buộc chúng ta phải sử dụng đội ngũ lao 
động có tri thức và tay nghề cao. Nhng làm thế nào để có đội ngũ lao động đáp 
ứng đợc yêu cầu đó là một việc không dễ.
 Trong chiến lợc phát triển KT - XH năm 2001 - 2010, Đảng ta khẳng 
định: Để đáp ứng nhu cầu về con ngời và nguồn nhân lực là nhân tố quyết 
định sự phát triển đất nớc trong thời kỳ CNH, HĐH cần tạo chuyển biến cơ 
bản, toàn diện về giáo dục và đào tạo. Đào tạo lớp ngời lao động có kiến thức 
cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhạy cảm 
với cái mới, có ý thức vơn lên về khoa học và công nghệ. Xây dựng đội ngũ 
công nhân lành nghề, các chuyên gia và nhà khoa học, nhà văn hoá, nhà kinh 
doanh, nhà quản lý [13, 201]. Trong tất cả các chính sách của Đảng và Nhà 
nớc ta trong những năm gần đây đều coi giáo dục và đào tạo là quốc sách; nó 
vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển bền vững xã hội. Đào tạo 
hiện nay đang trở thành một bộ phận đặc biệt của cấu trúc hạ tầng xã hội, là 
một trong những tiền đề cần thiết để phát triển tất cả các lĩnh vực kinh tế, 
chính trị, văn hoá, quốc phòng và an ninh nh Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 
IX vạch ra: Phát triển giáo dục - đào tạo là một trong những động lực quan 
trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực con 
ngời - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trởng kinh tế nhanh và bền 
vững [13, 108]
Đào tạo NLCN, có thể quan niệm rằng, đó là quá trình thúc đẩy, phát 
triển NLCN tri thức, phát triển các kỹ năng và phẩm chất lao động mới, thúc 
đẩy sáng tạo thành tựu khoa học - công nghệ mới, đảm bảo cho sự vận động 
tích cực các ngành nghề, lĩnh vực và tiến bộ xã hội.
19
Quá trình đào tạo sẽ làm biến đổi NLCN cả về số lợng lẫn chất lợng và cơ 
cấu nhằm phát huy, khơi dậy những tiềm năng con ngời, phát triển tiến bộ và 
từng bộ phận trong cấu trúc nhân cách, phát triển cả về năng lực phẩm chất và 
năng lực tinh thần, tạo dựng và ngày càng nâng cao, hoàn thiện cả về đạo đức 
và tay nghề, cả về tâm hồn và hành vi, từ trình độ chất lợng này lên trình độ 
chất lợng khác cao hơn, toàn diện hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu 
năng lực cho CNH, HĐH đất nớc.
ở nớc ta hiện nay, với điều kiện hệ thống giáo dục và đào tạo phát triển 
phổ biến tại các địa phơng, nông thôn, thành thị, miền núi, đồng bằng, hải đảo 
đã dẫn tới việc tiếp cận các dịch vụ giáo dục - đào tạo của dân c rất thuận tiện, 
giảm chi phí. Do đó, khả năng nâng cao quy mô NLCN qua đào tạo là rất hiện 
thực và đó cũng là những giải pháp để cải thiện chất lợng NLCN của các địa 
phơng, vùng, quốc gia. Tuy vậy, để đào tạo NLCN đủ sức hội nhập kinh tế 
quốc tế và xây dựng thành công sự nghiệp CNH, HĐH thì cần phải hớng vào 
một số ngành, lĩnh vực cơ bản sau:
- Thứ nhất, đào tạo nhân lực cho ngành công nghệ cao và ngành kinh tế 
mũi nhọn nh các ngành: công nghệ sinh học, công nghệ điện tử, công nghệ vật 
liệu mới .
- Thứ hai, đào tạo NLCN cho các khu công nghệ cao, khu công nghiệp 
tập trung, khu chế xuất, khu kinh tế mở trên cả nớc.
- Thứ ba, đào tạo NLCN cho các ngành dịch vụ chất lợng cao, trình độ cao 
nh các ngành: giáo dục - đào tạo, ngân hàng, y tế, bảo hiểm, tài chính, kế 
toán .
- Thứ t, đào tạo NLCN cho các khu vục có vốn đầu t nớc ngoài (FDI)
- Thứ năm, đào tạo NLCN phục vụ quá trình CNH, HĐH ở nông nghiệp 
và nông thôn.
20
- Thứ sáu, đào tạo NLCN phục vụ cho lĩnh vực xuất khẩu lao động
Đó là những ngành, lĩnh vực cơ bản mà trớc mắt cần phải tập trung vào 
đào tạo. Sau khi những ngành, lĩnh vực đó cơ bản đã hoàn thành thì tiến tới 
đào tạo các ngành khác. Việc đào tạo đợc chia ra thành các loại hình khác 
nhau, bao gồm các loại hình sau:
- Thứ nhất là đào tạo mới: loại hình này sẽ áp dụng cho những ngời cha 
có nghề, phải đào tạo những kiến thức cơ bản từ đầu.
- Thứ hai là đào tạo lại: đợc áp dụng cho những ngời đã có nghề, song vì 
lý do nào đó mà nghề của họ không còn phù hợp nữa, phải đào tạo lại.
- Thứ ba là đào tạo nâng cao: việc đào tạo này nhằm bồi dỡng nâng cao 
kiến thức và kinh nghiệm làm việc để ngời lao động có thể đảm nhiệm đợc 
công việc phức tạp hơn và làm việc có năng suất cao hơn.
- Thứ t là đào tạo liên thông: đây là loại hình đào tạo nhằm chuyển đổi 
giữa lao động kỹ thuật thực hành thành lao đông chuyên môn mang tính hàn 
lâm và ngợc lại.
Nh vậy quá trình đào tạo NLCN là con đờng đa dạng, phong phú song 
cũng vô cùng khó khăn, phức tạp và lâu dài. Nó đòi hỏi phải có những giải 
pháp cụ thể cho từng ngành, từng lĩnh vực. Chỉ khi nào chúng ta làm đợc điều 
đó thì mới có đợc nguồn nhân lực chất lợng cao đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH 
đất nớc. 
1.1.2. Khái lợc về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
1.1.2.1. Khái niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá 
CNH, HĐH đất nớc là một quá trình rộng lớn và phức tạp, là quá trình tạo 
ra những chuyển biến về chất theo hớng tích cực, hiện đại trong toàn bộ các 
hoạt động của đời sống xã hội, mà trớc hết là hoạt động sản xuất vật chất.
21
ở nớc ta, từ trớc đến nay Đảng ta luôn quan niệm CNH, HĐH là bớc 
chuyển từ một nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu lên nền sản xuất lớn có 
các ngành công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp hiện đại, khoa học - kỹ thuật 
tiên tiến. CNH, HĐH ở nớc ta nhằm vào thực hiện các mục đích của nền kinh 
tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lợng sản xuất, phát 
triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của CNXH; nâng cao đời 
sống nhân dân; phát triển lực lợng sản xuất hiện đại, gắn liền với xây dựng 
quan hệ sản xuất mới, phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ơng lần thứ 7 (khoá VII) của Đảng đã đa 
ra khái niệm về CNH, HĐH: CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, 
toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã 
hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức 
lao động cùng với công nghệ, phơng tiện và phơng pháp tiên tiến, hiện đại, dựa 
trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất 
lao động xã hội cao [9, 42].
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế nh hiện nay nhất là khi chúng ta 
đã gia nhập WTO, Đảng ta tiếp tục thực hiện quan điểm xây dựng nền kinh tế 
mở, đa phơng và đa dạng hoá quan hệ đối ngoại trên cơ sở đôi bên cùng có lợi, 
giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia. Đồng thời Đảng ta cũng cho rằng muốn 
phát triển nền kinh tế thì phải thờng xuyên thúc đẩy mở cửa trên cơ sở khuyến 
khích các hình thức hợp tác liên doanh, liên kết nhằm thu hút vốn, công nghệ 
cùng những kinh nghiệm quản lý tiên tiến từ nớc ngoài.
Khái niệm hiện đại hoá đợc hiểu là làm cho cái gì đó mang tính chất 
của thời đại ngày nay, nó bao hàm hai phơng diện thứ nhất là về kinh tế kỹ 
thuật - đây là phơng diện mà hiện đại hoá làm cho kỹ thuật và công nghệ sản 
xuất cũng nh cơ cấu kinh tế đạt đợc trình độ tiên tiến của thời đại, ở nghĩa này 
thì hiện đại hoá đồng nhất với khái niệm hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân. 
22
Hiện đại hoá còn đợc hiểu ở phơng diện thứ hai là về KT - XH. ở đây hiện đại 
hoá là quá trình xây dựng một xã hội văn minh công nghiệp và cải biến các 
ngành kinh tế, các hoạt động xã hội chủ yếu theo phong cách của nền công 
nghiệp lớn hiện đại. Hiện đại hoá bao giờ cũng hớng đến mục tiêu cuối cùng 
là vì sự phát triển KT - XH, phát triển con ngời, đảm bảo tính nhân văn. Nh 
vậy hiện đại hoá chính là quá trình sử dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật - công 
nghệ trong sản xuất, trong tổ chức, quản lý, điều hành xã hội cũng nh trong 
cách thức sống của con ngời để đem lại cho con ngời một cuộc sống tốt đẹp 
hơn, nâng cao phúc lợi cho xã hội, từ đó góp phần vào việc thúc đẩy xã hội 
phát triển. 
 Trong lịch sử nhân loại có những mô hình CNH, HĐH sau đây [27,19]: 
 - Mô hình công nghiệp hoá cổ điển: Tiêu biểu cho mô hình này là cuộc 
cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 
hai diễn ra ở Anh và các nớc châu Âu - Bắc Mỹ. Mục tiêu u tiên hàng đầu của 
mô hình công nghiệp hoá cổ điển là tăng trởng kinh tế, coi lợi nhuận là động 
lực duy nhất của sự phát triển. ở đây con ngời chỉ đợc coi là vật phụ thuộc của 
máy móc, ngời ta chỉ thiên về việc khai thác khía cạnh sinh vật, cơ bắp của 
con ngời chứ cha thấy vai trò chủ động, sáng tạo có tính quyết định của con 
ngời lao động có ý thức. Tuy nhiên với mô hình này thì nguồn lực tự nhiên, kỹ 
thuật và sức lao động cơ bắp của con ngời đợc khai thác triệt để đã tạo ra đợc 
khối lợng vật chất khổng lồ thúc đẩy xã hội phát triển. 
- Mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu: Mô hình này xuất hiện 
vào những năm 50, 60 của thế kỷ 19 ở các nớc đang phát triển nh Liên Xô cũ, 
và một số nớc ở châu á, Phi, Mỹ La tinh. Mô hình này đã xác lập một nền 
công nghiệp hoàn chỉnh với những ngành năng lợng, luyện kim, cơ khí, công 
nghiệp nặng. ở đây, mặc dù đã có sự khẳng định vai trò quyết định của con 
ngời đối với sự phát triển xã hội song vì thực hiện trong cơ chế kế hoạch hoá 
23
tập trung, bao cấp và chế độ phân phối theo kiểu bình quân, nên quá trình công 
nghiệp hoá đã không khai thác đợc triệt để, hợp lý, có hiệu quả nguồn nhân 
lực, không kích thích đợc tính tích cực, năng động, sáng tạo của ngời lao động. 
Hơn nữa, nó còn tạo ra một đội ngũ những ngời lao động thụ động, trông chờ, 
ỷ lại, lãng phí, không biết lo toan, tính toán.
- Mô hình công nghiệp hoá hớng về xuất khẩu: Mô hình này xuất hiện vào 
những năm 70 của thế kỷ 20 dựa trên lý thuyết lợi thế so sánh mà nhà kinh tế 
học D. Ricardo đã đa ra từ đầu thế kỷ 19. Nội dung của mô hình này là phát 
triển các ngành sản xuất hàng hoá chủ yếu phục vụ cho xuất khẩu trên cơ sở 
khai thác lợi thế so sánh của mỗi quốc gia. Nhờ chủ trơng khuyến khích xuất 
khẩu nên mô hình này đã tạo ra nhiều việc làm, khai thác đợc lợi thế so sánh 
về hàng hoá và lao động, hỗ trợ đào tạo nghề cho ngời lao động, tạo môi trờng 
để ngời lao động tiếp xúc với công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm, nâng 
cao trình độ chuyên môn và quản lý, do đó góp phần nâng cao chất lợng lao 
động và tăng năng lực khai thác lực lợng lao động xã hội. Mô hình này đợc 
vận dụng thành công ở một số nớc Đông á và Mỹ La tinh, hình thành những 
nớc công nghiệp hoá mới (NICs) hoặc những nền kinh tế công nghiệp hoá mới 
(NIEs). Tuy nhiên mô hình này cũng có hạn chế là làm trầm trọng thêm tình 
trạng bất bình đẳng trong các quan hệ kinh tế quốc tế.
- Mô hình công nghiệp hoá hỗn hợp theo hớng hội nhập quốc tế: Mô 
hình này đang trong quá trình hình thành, khảo nghiệm và có một số đặc điểm 
sau: Một là xây dựng cơ cấu công nghiệp theo hớng hội nhập quốc tế; Hai là 
xây dựng thể chế KT - XH theo hớng hội nhập quốc tế, với hai tính chất: mở 
và phù hợp với các định chế kinh tế toàn cầu trong quá trình công nghiệp hoá 
và phát triển (WTO, IMF, WB ).  Ba là xây dựng nguồn nhân lực hội nhập 
quốc tế. Toàn bộ kết cấu nguồn nhân lực phải phấn đấu đạt tiêu chuẩn quốc tế, 
từ các nhà hoạch định chiến lợc, chính sách đến các nhà quản lý, đội ngũ cán 
24
bộ khoa học, công nghệ, doanh nghiệp, công nhân Số quốc gia thực hiện mô 
hình này đang ngày càng tăng lên, nổi bật là các nớc Đông Nam á, trong đó 
có nớc ta. Do đó, muốn có một nguồn nhân lực hội nhập quốc tế thì tất yếu 
phải tăng mạnh ngân sách đầu t cho giáo duc, đào tạo, đồng thời phải mở rộng 
hợp tác quốc tế trong phát triển và khai thác, sử dụng nguồn nhân lực.
1.1.2.2. Những nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nớc ta 
hiện nay
ở nớc ta hiện nay CNH, HĐH đợc hiểu là quá trình cải biến lao động thủ 
công, lạc hậu thành lao động sử dụng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, hiện đại 
nhằm phát triển lực lợng sản xuất và thúc đẩy hình thành cơ cấu kinh tế mới, 
hợp lý để đạt tới năng suất lao động xã hội cao, công nghiệp hoá gắn liền với 
hiện đại hoá dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học- công 
nghệ. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Đảng ta còn khẳng định CNH, 
HĐH ở nớc ta hiện nay phải gắn với sự phát triển của kinh tế tri thức. Cụ thể, 
mô hình CNH, HĐH ở nớc ta hiện nay bao gồm những nội dung lớn sau đây: 
Một là: công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá; kết hợp công nghệ 
truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại hoá ở 
những khâu quyết định.
Hai là: CNH, HĐH đợc thực hiện trong điều kiện cơ chế thị trờng có sự 
quản lý của Nhà nớc, lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản.
Ba là: CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của tất cả các thành phần 
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nớc giữ vai trò chủ đạo.
Bốn là: CNH, HĐH gắn liền với việc xây dựng nền kinh tế mở.
Năm là: nền tảng và động lực của CNH, HĐH là khoa học - công nghệ và 
nền kinh tế tri thức.
25